← Quay lại trang sách

PHÒNG QUẢN LÝ

Bấy giờ là mùa thu. Đã mấy tiếng đồng hồ, tôi xách súng đi lang thang qua các cánh đồng, và có lẽ trước khi trời tối, tôi sẽ không trở về căn nhà trọ bên đường cái lớn ở Kurxk, nơi chiếc xe ba ngựa của tôi đang chờ tôi. Nhưng cơn mưa bụi li ti giá lạnh mà suốt từ sáng, với cái tính khoảnh ác không kém gì một ả gái già, cứ bám riết lấy tôi mà làm tình làm tội đã khiến tôi buộc lòng phải tìm một chỗ trú, dù là tạm thời, ở gần đấy. Trong lúc còn chưa biết nên đi về hướng nào thì tôi chợt nhìn thấy một túp lều thấp ở cạnh cánh đồng đã gieo dậu. Tôi tới gần túp lều, ngó vào dưới mái rơm và thấy một ông già hom hem đến nỗi tôi lập tức nhớ tới con dê sắp chết mà Rôbinxơn tìm thấy trong một cái hang trên đảo. Ông già ngồi xổm, hấp háy cặp mắt nhỏ đã mờ đục, đang nhai hạt đậu khô cứng, nhai vội vã nhưng thận trọng như con thỏ  (ông lão khốn khổ không còn chiếc răng nào), không ngừng lăn hạt đậu từ phía này sang phía kia. Ông ta mải miết với công việc của mình đến nỗi không nhận thấy tôi tới.

- Cụ ơi! Cụ ơi! - Tôi gọi.

Ông lão ngừng nhai, nhướn cao đôi lông mày và gắng mở mắt.  - Gì thế - ông già nói lúng búng, giọng khàn khàn.

- Gần đây có làng nào không, cụ? - Tôi hỏi.

Ông già lại bắt đầu nhai. Ông ta không nghe rõ lời tôi. Tôi nhắc lại câu hỏi to hơn trước.

- Làng à?...Nhưng ông cần gì chứ?

- Trú mưa, cụ ạ.

- Gì?

- Trú mưa.

- Ô? (ông già gãi cái gáy đen sạm). Thế thì ông đi đi ông già bỗng lên tiếng, vừa nói vừa xua tay loạn xạ - Nà... này nhé, đi qua khoảnh rừng, qua khoảnh rừng thì sẽ có đường. Bỏ con đường đó, và đi về bên phải, cứ bên phải mà đi, cứ thế mà đi, cứ thế...Thế là sẽ đến Ananhiêvô. Nếu không thì cũng sẽ đến Xitôpka.

Tôi phải khó khăn lắm mới hiểu nổi ông già.

Ria mép làm vướng môi ông ta, và lưỡi cũng không để cho ông sai khiến dễ dàng.

- Cụ là người ở đâu?

- Gì?

- Cụ người ở đâu?

- Người làng Ananhiêvô.

- Thế cụ làm gì ở đây?

- Gì kia?

- Cụ làm gì ở đây?

- Tôi canh gác.

- Canh giữ cái gì kia?

- Giữ đậu.

Tôi không thể không phá lên cười.

- Cụ bao nhiêu tuổi rồi?

- Có trời biết.

- Chắc cụ nhìn không rõ đâu nhỉ?

- Gì cơ?

- Cụ nhìn không rõ phải không?

- Kém lắm. Có khi còn chẳng nghe thấy gì nữa kia.

- Vậy thì cụ giữ ruộng thế nào được kia chứ?

- Những ông trên cũng biết thế đấy.

"Những ông trên!" - tôi nghĩ và thương hại nhìn ông già khốn khổ. Ông già sờ soạng, lấy trong khoang ngực áo ra một mẩu bánh mì khô cứng và bắt đầu mút miếng bánh như đứa trẻ thơ, gắng sức đến nỗi đôi má vốn đã hõm lại càng hóp sâu mãi vào.

Tôi đi về phía khoảng rừng, rẽ sang bên phải, cứ thế mà đi, đi miết, theo lời khuyên của ông già. Cuối cùng tôi đến một làng lớn có ngôi nhà thờ đá xây theo thị hiếu mới, nghĩa là có cột, và một toà nhà rộng thênh thang cũng có cột. Từ xa, qua tấm màn mưa dày đặc, tôi đã để ý đến một căn nhà gỗ mái lớp ván, có hai ống khói. Căn nhà này cao hơn các nhà khác, có lẽ là nhà của trưởng thôn. Tôi cũng nhằm căn nhà ấy mà đi tới, hy vọng sẽ tìm được ở nhà ông ta một cái ấm xamôva, chè, đường và kem sữa không chua lắm. Tôi lên bậc tam cấp, con chó của tôi đã rét run cầm cập cũng lên theo. Tôi vào phòng ngoài, mở cửa. Nhưng, thay cho những đồ dùng thông thường trong nhà, tôi thấy mấy cái bàn chất đầy giấy tờ, hai cái tủ màu đỏ, những lọ mực dây đầy vết mực, những lọ thiếc rất nặng đựng cát( [75] ), những chiếc bút lông rất dài và những đồ dùng văn phòng khác. Một gã trai chừng hai mươi tuổi ngồi trên một chiếc bàn, mặt húp lên như có bệnh, mắt nhỏ tí, trán béo ú và thái dương cực rộng. Gã ăn vận chỉnh tề, chiếc áo kafơtan bằng vải Nam Kinh màu xám bóng láng ở cổ và ngực áo.

- Ông cần gì? - Gã hỏi tôi, hất đầu lên như con ngựa không ngờ bị người ta túm lấy mõm.

- Đây là chỗ ở của người quản lý, hay...

- Đây là phòng quản lý chính của ông chủ - Gã ngắt lời tôi - Tôi trực ở đây...ông không thấy tấm biển sao? Treo biển là cốt để cho người ta đọc mà.

- Quanh đây có chỗ nào có thể sưởi cho khô quần áo được không? Ở làng này ai có ấm xamôva?

- Ấm xamôva mà lại không có thế nào được - Gã trai mặc áo kafơtan màu xám đáp với vẻ quan trọng - Hãy đến bố Timôfây, hay đến nhà ở của gia nhân, không thì đến Nazar Taraxưt hoặc đến nhà bà nuôi chim Agrafenna.

ày nói chuyện với ai đấy, gã đần độn kia? Không để cho người ta ngủ nữa, đồ ngu! - Tiếng nói từ buồng bên vang ra.

- Có một ông khách ghé vào đây, hỏi chỗ nghỉ để sưởi cho khô quần áo.

- Ông nào?

- Tôi không biết. Có đem theo chó và súng.

Ở buồng bên cạnh, có tiếng két mạnh của chiếc giường. Cửa mở ra, một người đàn ông chừng năm mươi tuổi bước vào, người thấp béo, cổ như cổ bò đực mắt ốc nhồi, má tròn lạ thường và cả khuôn mặt bóng loáng lên.

- Ông cần gì? - ông ta hỏi tôi.

- Tôi muốn sưởi cho khô quần áo.

- Đây không phải là chỗ sưởi.

- Tôi không cần biết đây là phòng giấy. Vả chăng, tôi sẵn sàng trả tiền...

- Thế thì thu xếp ở đây cũng được - Gã to béo đáp, ông vào đây xem có ưng ý không (y dẫn tôi vào căn buồng khác, nhưng không phải căn buồng y vừa ở đấy ra). Ông ở đây có được không?

- Tốt rồi...Có thể kiếm được trà với kem sữa không?

- Vâng, có ngay. Xin ông cứ cởi áo ra và nghỉ ngơi một lát, còn trà thì sẽ có ngay thôi.

- Đây là tài sản của ai?

- Của bà Lôxnhiakôva Êlêna Nhikôlaepna.

Y ra. Tôi nhìn xung quanh. Dọc theo tấm vách ngăn căn buồng tôi đang ở với phòng giấy có kê tấm đi văng bọc da rất đồ sộ. Hai chiếc ghế cũng bọc da, lưng rất cao, đặt ngất nghểu hai bên chiếc cửa sổ duy nhất nhìn ra đường. Trên những bức tường dán giấy bồi màu lá mạ vẽ hoa màu hồng, có treo ba bức tranh sơn dầu lớn. Một bức tranh vẽ con chó săn đeo cái cổ dề màu xanh, bên dưới có đề: "Đây là niềm vui sướng của tôi". Dưới chân con chó có dòng sông, trên bờ đối diện có con thỏ to vô chừng, tai vểnh lên, ngồi dưới một cây thông. Bức tranh thứ hai vẽ hai ông già ăn dưa hấu; ở diện phía sau quả dưa hấu, xa xa, ta thấy một cái trụ quan kiểu Hy Lạp có hàng chữ: "Đền khoái lạc". Bức tranh thứ ba có hình en raccouci ( [76] ) của một người đàn bà nửa khoả thân đang nằm, đầu gối màu đỏ và gót chân rất dày. Con chó của tôi không một chút chậm trễ, chui xuống gầm đi văng bằng những cố gắng phi thường, và có lẽ nó tìm thấy ở đấy nhiều bụi đến nỗi cứ hắt hơi liên tục và dữ dội. Tôi tới gần cửa sổ. Một lối đi lót bằng những tấm ván chạy chéo ngang qua đường, nối liền nhà chủ đất với phòng giấy: sự lo xa đó rất có ích, bởi vì đất vùng này là đất đen và mưa kéo dài nên xung quanh lầy lội kinh khủng. Quanh trang viên của chủ nhân - khu nhà này quay lưng ra đường - vẫn là cảnh tượng thường thấy quanh nhà các địa chủ: những cô gái mặc áo dài vải hoa bạc màu chạy đi chạy lại; đầy tớ trong nhà lê chân trong bùn, đôi khi dừng lại và gãi lưng với vẻ nghĩ ngợi; con ngựa của viên cảnh sát thôn uể oải vẫy đuôi và vươn mõm gặm hàng rào, những con gà mái kêu ầm ĩ, những con gà tây ốm o không ngớt gọi nhau. Trên bậc tam cấp của một gian nhà tối và mọt ruỗng, có lẽ là nhà tắm, một gã trai lực lưỡng ngồi gẩy đàn ghi ta và hát bài tình ca nối tiếng với vẻ hiên ngang:

Giã từ đất mật quê ta

Dấn thân vào chôn bao la mịt mùng

Người to béo vào phòng tôi.

- Mang trà đến cho ông đây - Y nói với tôi, miệng mỉm cười dễ mến.

Gã trai thường trực mặc chiếc kafơtan màu xám đặt lên chiếc bàn đánh bạc cũ một cái ấm xamôva, ấm pha trà, cái cốc với cái đĩa mẻ, một âu kem sữa và một bó bánh khô giòn Bônkhôp cứng như đá. Người to béo bước ra.

- Người nào đấy, quản lý ư? - Tôi hỏi gã trai.

- Không phải đâu. Trước ông ta là thủ quĩ chính, bây giờ được đưa lên làm chủ sự văn phòng.

- Thế không có ai làm quản lý à?

- Dạ không. Có ông burmixtr Mikhailô Vikulôp, chứ không có quản lý.

- Thế có quản trị trưởng không?

- Có chứ ạ. Ông Karô Karlưts Linđamanđôn, người Đức. Có điều là ông ta không cai quản công.

- Thế ai cai quản?

- Chính bà chủ.

- À, ra thế?...Thế phòng quản lý của các anh có nhiều người không?

Gã trai ngập ngừng.

- Có sáu người.

- Những ai? - Tôi hỏi.

- Trước hết là Vaxilê Nikôlaiêvits, thủ quĩ chính, rồi đến Piôtr, nhân viên văn phòng, Ivan, anh của Piôtr, cũng là nhân viên, Kôxkenkin Narkizôp là một nhân viên nữa, và tôi...

- Bà chủ của anh có nhiều kẻ hầu người hạ trong nhà chứ?

- Không, không nhiều lắm...

- Nhưng bao nhiêu?

- Khoảng trăm rưỡi người.

Cả hai chúng tôi đều im lặng.

- Thế nào, anh viết chữ đẹp không? - Tôi lại bắt đầu hỏi.

Gã trai cười toác miệng, gật đầu, trở lại phòng giấy và đem đến một tờ giấy chi chít chữ viết: - Chữ tôi đây này - Gã nói, miệng vẫn mỉm cười.

Tôi xem: trên tờ giấy xám nhạt, khổ gập tư có viết như sau bằng nét chữ đẹp và to:

MỆNH LỆNH

của phòng quản lý chính tại nhà riêng của chủ đất tại Ananhirvô gửi burmixtr Mikhailô Vikulôp. No 209.

"Lệnh cho ngươi sau khi nhận được giấy này  phải lập tức tra xét xem đêm qua kẻ nào say rượu hát những bài tục tĩu, đi qua vườn Aglitxki, khiến cho bà gia sư người Pháp Engiêni thức giấc và khó chịu. Điều tra xem bọn gác làm gì và kẻ nào gác trong vườn mà lại để xảy ra tình trạng lộn xộn như thế. Lệnh cho người điều tra tỉ mỉ tất cả những điều trên và trình ngay lên văn phòng.

Chủ sự văn phòng Nikôlai Khơvôxlôp.

Bản mệnh lệnh có đóng con dấu cực to kiểu huy chương mang những chữ: "Dấu của văn phòng chính của chủ đất Ananhiêvô". Bên dưới có viết thêm: "Phải chấp hành nghiêm ngặt. Êlêna Lôxnhiakôva".

- Chính tay bà chủ viết đây, phải không? - Tôi hỏi.

- Đúng đấy ạ, chính tay bà chủ: bao giờ bà cũng tự tay ký lệnh. Nếu không thì mệnh lệnh không thể có hiệu lực được.

- Thế anh sẽ gửi bản mệnh lệnh này cho burmixtr chứ?

- Không ạ. Chính ông ta đến đây và đọc. Đúng hơn là chúng tôi đọc cho ông ta nghe, ông ta không biết chữ mà. (Người thường trực lại im lặng một lúc) ông thấy thế nào - Anh ta vừa nói thêm vừa mỉm cười - viết có đẹp không ạ?

- Đẹp.

- Nói thực là tôi thảo văn bản. Về khoản này thì Kôxkenkin là tay thiện nghệ.

- Sao?... ở đây mệnh lệnh vẫn được thảo trước rồi mới viết đấy à?

- Chứ sao ạ? Không thể viết thẳng ngay vào được.

- Lương của anh bao nhiêu? - Tôi hỏi.

- Ba mươi nhăm rúp và năm rúp mua ủng ạ.

- Anh có hài lòng không?

- Có chứ ạ. Không phải ai cũng được vào làm ở văn phòng. Thú thật là chính Chúa gia ân cho tôi: cậu tôi làm quản gia.

- Đời sống khấm khá chứ?

- Khá ạ. Thực tình mà nói thì làm với giới buôn bán, bọn cạo giấy chúng tôi sống khá hơn. Làm với những người buôn bán chúng tôi sống rất sướng. Tối hôm qua có một thương nhân ở Vênhiôp đến đây, tay thư ký của ông ta đã nói chuyện với tôi...

sống sướng lắm, không thể nói hết được, sung sướng lắm.

- Thế ra các thương nhân trả lương cao hơn à?

- Cầu Chúa cho bọn tôi đừng ai nghĩ đến chuyện ấy. Anh nào đòi lương thì người thương gia sẽ tống cổ đi ngay. Không, ở với thương gia thì phải biết tin và biết sợ. Ông ta sẽ cho anh ăn, uống, mặc tử tế,  đầy đủ hết. Được lòng ông ta thì ông ta còn cho nhiều hơn... Lương lậu làm gì? Không cần lương làm gì cả... Và người thương gia sống giản dị, theo phong cách Nga, như anh em chúng tôi: khi cùng đi đường với ông ta thì ông ta uống trà, ta cũng được uống trà, ông ta ăn, ta cũng được ăn. Người thương gia...so sánh sao được; người thương gia không phải là chủ đất. Người thương gia không làm những việc quá quắt cáu lên có thể đánh mấy cái rồi thôi...không lai nhai, không đay nghiến... Còn với Chúa đất thì cực lắm. Cái gì cũng không ưng: cái này không được, cái kia không vừa lòng. Đem lên cho ông địa chủ quý tộc cốc nước hay món ăn: "A, nước có mùi khó chịu! Hừ, món ăn có mùi khó ngửi!". Ta mang ra, đứng ngoài của một lát rồi mang vào: "Đấy bây giờ thì tốt, được, bây giờ thì không có mùi khó ngửi". Các bà quí tộc còn khó tính hơn nữa!...Đến các tiểu thư nữa thì thật hết chỗ nói!...

- Fêđiusa! - Có tiếng của người to béo trong văn phòng.

Người thường trực nhanh nhảu đi ra. Tôi uống nốt cốc trà, nằm trên đi văng và ngủ thiếp đi. Tôi ngủ hai tiếng.

Khi tỉnh giấc, tôi muốn trở dậy, nhưng lại ngại. Tôi nhắm mắt, song không ngủ được nữa. Bên kia tấm vách ngăn, có tiếng nói chuyện khe khẽ trong văn phòng. Vô tình, tôi lắng nghe.

- Thế đấy, thế đấy, Nikôlai Êrêmêits ạ - Một người nói, không rõ là ai - Thế đấy. Không thể không tính đến điều đó. Không thể được, đúng vậy. Hừm? (Người đang nói ho một tiếng).

- Xin hãy tin tôi, Gavrila Antônưts - Tiếng người béo đáp - Tôi lại không biết nề nếp ở đây hay sao, ông thử nghĩ xem.

- Không ông thì còn ai biết được nữa, Nikôlai Êrêmêits, có thể nói ở đây ông là người đứng đầu.Vậy thì thế nào? - Người lạ mặt nói tiếp - Chúng ta sẽ quyết định sao đây, Nikôlai Êrêmêits? Xin cho tôi được biết.

- Quyết định thế nào ư, ông Gavrila Antônưts? Có thể nói điều đó tuỳ ở ông: hình như ông không muốn giải quyết thì phải.

- Sao ông lại nói thế, ông Nikôlai Êrêmêits? Chúng tôi là người buôn bán. Chúng tôi muốn mua hàng. Chúng tôi sống bằng việc đó, có thể nói như vậy đấy Nikôlai Êrêmêits ạ.

- Tám rúp - người béo nói rành từng tiếng.

Một tiếng thở dài.-Nikôlai Êrêmêits, ông đòi nhiều quá đấy.

- Không thể làm khác được, Gavrila Antônưts ạ. Tôi nói có Chúa trời chứng giám, không thể làm cách nào khác được.

Im lặng.

Tôi khẽ nhổm dậy và nhìn qua khe vách. Người béo ngồi quay lưng về phía tôi. Ngồi đối diện với ông ta là một thương nhân trạc bốn mươi tuổi, gày gò và tái nhợt, như đang kỳ bôi dầu ăn chay. Ông ta không ngừng cào bới chòm râu, chớp mắt rất nhanh, và môi thỉnh thoảng lại giật giật.

- Lúa năm nay tốt lạ, có thể nói như vậy - ông ta lại lên tiếng - Ngồi trên xe tôi cứ nhìn mà mê. Ngay từ Vôrônegiơ, lúa đã tuyệt lắm rồi, hạng nhất, có thể nói như vậy.

- Đúng thế, lúa cũng khá - ông chủ sự văn phòng đáp - Nhưng ông biết đấy, mùa thu gieo trồng, mùa xuân gặt hái.

- Quả thật là như vậy, Nikôlai Êrêmêits ạ: tất cả là do ý Chúa, ông nói chí lí lắm... Nhưng có lẽ ông khách của ông thức giấc rồi đấy...

Ông béo quay lại... lắng nghe...

- Không, vẫn ngủ. Nhưng có thể là...

Ông ta tới gần cửa.

- Vẫn ngủ - ông ta nhắc lại và trở về chỗ cũ.

- Vậy thì thế nào, Nikôlai Êrêmêits? - Người thương gia lại lên tiếng - nên giải quyết dứt khoát công việc của chúng ta đi chứ... Phải thế thôi, Nikôlai Êrêmêits, phải thế thôi - ông ta nói tiếp, mắt vẫn chớp chớp không ngừng - Xin đưa ông hai  tờ xám một tờ trắng ( [77] ), còn ở đấy (ông ta hất đầu về phía nhà chủ) thì sáu rưỡi. Ta giao ước với nhau chứ?

- Bốn tờ xám - Người quản lý đáp.

- Thôi thì ba vậy!

- Bốn tờ xám không có tờ trắng.

- Ba. Nikôlai Êrêmêits.

- Ba rưỡi, không bớt một xu.

- Ba. Nikôlai Êrêmêits ạ.

- Thôi đừng nói nữa. Gavrila Antônưts ạ.

- Khó thoả thuận với ông quá đi mất - Người thương gia càu nhàu - Như thế thì thà tôi dàn xếp với bà chủ cho xong.

- Tuỳ ông - Người béo đáp - Cũng được thôi. Thực ra như vậy có gì phiền cho ông đâu?... Còn tốt hơn là khác!

- Thôi, đủ rồi, Nikôlai Êrêmêits. Đã cáu ngay được. Nói chơi thế thôi mà.

- Không quả thực là...

- Thôi mà... Đã bảo là nói đùa mà. Ừ thì ông sẽ lấy ba tờ rưỡi của ông, đến chịu ông thôi.

Lẽ ra thì phải lấy bốn tờ, nhưng tôi ngờ nghệch, hấp tấp quá - Người béo càu nhàu.

- Còn ở kia, ở nhà bà chủ thì trao sáu rưỡi, Nikôlai Êrêmêits ạ. Họ có để lại lúa mì với giá sáu rưỡi không?

- Đã bảo là sáu rưỡi mà.

- Thế thì ta cam kết với nhau nào, Nikôlai Êrêmêits (người kia vỗ bàn tay xoè rộng của mình vào lòng bàn tay gã nhân viên văn phòng). Chúa phù hộ ta! (Người thương gia đứng lên). Như vậy thì bác Nikôlai Êrêmêits ạ, bây giờ tôi sẽ đến bà chủ, sẽ cho người vào báo với bà ấy là tôi đến gặp và sẽ nói như thế này: tôi với Nikôlai Êrêmêits đã thoả thuận giá sáu rưỡi.

- Cứ nói thế, ông Gavrila Antônưts ạ.

- Còn bây giờ thì xin ông nhận cho.

Người thương gia trao cho viên quản lý một tập giấy bạc nhỏ, cúi chào, rồi hất mạnh đầu một cái, dùng hai ngón tay nhón lấy chiếc mũ mềm của mình, đưa đẩy đôi vai khiến cho thân hình trở nên uyển chuyển và đi ra, đôi ủng khẽ kèn kẹt một cách lịch sự. Nikôlai Êrêmêits tới gần tường, và theo chỗ tôi nhận thấy, ông ta bắt đầu kiểm lại số tiền người thương gia trao cho. Một cái đầu tóc hung có bộ râu quai rậm rì thò vào cửa.

- Này, thế nào? - Cái đầu hỏi - ổn cả chứ?

- Ổn cả.

- Bao nhiêu?

Người béo phẩy tay với vẻ bực bội và trỏ vào phòng tôi.

- A, hay lắm! - Cái đầu đáp và biến mất.

Người béo tới gần bàn, ngồi xuống, mở quyển sổ, lấy cái bàn tính, bắt đầu gảy, nhưng không dùng ngón tay trỏ, mà dùng ngón giữa của bàn tay phải, dùng ngón đó nom đẹp hơn. Người thường trực vào.

- Gì thế - Xinđor ở Gôlôpliốc đến.

- À! Thế thì bảo vào đây. Khoan, khoan đã...Hãy đi xem xem cái ông quý tộc kia còn ngủ hay đã dậy rồi.

Người thường trực thận trọng vào phòng tôi.

Tôi gối đầu lên cái túi đi săn dùng thay gối và nhắm mắt.

- Vẫn ngủ - Người thường trực trở lại văn phòng, nói khẽ.

Người béo lầu bầu mấy tiếng qua kẽ răng.

- Này, bảo Xiđor vào đây - Cuối cùng ông ta thốt lên.

Tôi lại nhóm lên. Người mới đến bước vào - đó là một gã mujich trạc ba mươi tuổi, tầm vóc cao lớn, khoẻ mạnh, má đỏ hồng, tóc vàng hoe, bộ râu cằm nhỏ và xoăn. Anh ta cầu nguyện một lúc trước  ảnh thánh, rồi cúi chào ông chủ sự văn phòng, hai tay cầm cái mũ và ưỡn thẳng người.

- Chào anh Xiđor - Người béo nói, vẫn gẩy bàn tính lách cách.

- Chào ông Nikôlai Êrêmêits.

- Này, đường sá thế não?

- Đường tốt, ông Nikôlai Êrêmêits ạ. Hơi bẩn tí thôi (Người nông dân nói thong thả và nhỏ nhẹ).

- Vợ anh khoẻ chứ?

- Cũng tàm tạm!

Người nông dân thở dài và đưa một chân ra phía trước. Nikôlai Êrêmêits giắt bút vào mái tai và hỉ mũi.

- Sao, anh đến có việc gì đấy? - ông ta vừa hỏi vừa cho chiếc khăn tay bằng vải kẻ ô vuông vào túi.

- Ông Nikôlai Êrêmêits ạ. Chúng tôi được lệnh phải lấy thợ mộc đi làm nhà.

- Thế sao, các anh không có ai biết làm mộc à?

- Chúng tôi mà lại không có thợ mộc thế nào được, ông Nikôlai Êrêmêits: vùng chúng tôi là vùng trồng rừng kia mà. Nhưng lúc này đang vụ làm, ông Nikôlai Êrêmêits ạ.

- Vụ làm? Thế đấy, các anh sẵn lòng làm việc cho người khác, nhưng lại không làm việc cho bà chủ của mình... Đằng nào cũng vậy thôi mà!

- Làm gì thì cũng là làm, đúng thế, ông Nikôlai Êrêmêits ạ... cơ mà...

- Sao?

- Tiền công thì quá...

- Thôi, so kè làm gì? Rõ ràng là các anh đâm ra hư hỏng rồi. Tệ lắm đấy!

- Ông Nikôlai Êrêmêits ạ, mà cũng cần nói thêm là công việc có khi chỉ một tuần là xong, nhưng chúng tôi sẽ bị giữ lại đến một tháng. Khi thì vật liệu không đủ, khi thì bị sai đi dọn lối đi trong vườn.

- Thôi, so kè làm gì? Chính bà chủ đã hạ cố ra lệnh thì tôi với anh không còn gì để bàn bạc nữa.

Xiđor im lặng và bắt đầu đứng đổi chân này sang chân kia.

Nikôlai Erêmêits ngoẹo đầu sang bên và chăm chú gẩy bàn tính.

- Anh em nông dân... chúng tôi... ông Nikôlai Êrêmêits... - Cuối cùng, Xiđor lên tiếng, ngập ngà ngập ngừng... - anh em bảo... đem đến... nhờ lượng ông... đây là... (Anh ta cho bàn tay hộ pháp vào khoang ngực áo armiak và lôi ra một bọc gói bằng chiếc khăn tay có hoa đỏ).

- Ờ cái anh này, làm trò gì thế, ngớ ngẩn, điên rồi chắc? - Ông béo vội vã ngắt lời người nông dân -  Đi đi, đến nhà tôi - ông ta nói tiếp, gần như xô đẩy người nông dân ra, khiến anh ta ngạc nhiên - Về nhà tôi, bảo vợ tôi... bà ấy sẽ pha trà cho anh, tôi sẽ về ngay, đi đi... Đừng ngại, tôi bảo mà, đi đi.

Xiđor ra.

- Cái thằng... đến vụng về? - ông chủ sự văn phòng lẩm bẩm nói theo, lắc đầu và lại gẩy bàn tính.

Bỗng ở ngoài đường và ở bậc tam cấp vang lên những tiếng la hét: "Kupria! Kupria! Không thể hất cẳng Kupria được?!! Lát sau, một người vào văn phòng, người này tầm vóc thấp, nom như ho lao, mũi dài lạ thường, mắt to không động đậy, dáng vẻ đầy kiêu hãnh. Gã mặc chiếc áo dài xẻ vạt cũ rách màu tím nhạt, cổ áo bằng vải bông, cúc áo nhỏ xíu. Trên vai, gã vác bó củi. Năm sáu gia nhân nhà địa chủ xúm quanh gã và tất cả đều hò hét: "Kupria! Không thể hất cẳng Kupria được! Kupria đã được lấy làm thợ nhóm lò, làm thợ nhóm lò!". Nhưng người mặc áo dài xẻ vạt có cổ bằng vải bông không mảy may chú ý đến những lời la lối om xóm của các bạn mình và tuyệt nhiên không đổi nét mặt. Gã bước những bước đều đều đến bếp lò, quẳng bó củi xuống, vươn thẳng người lên, lấy trong túi sau ra một hộp thuốc lá, trợn trừng mắt và nhồi vào mũi một dúm ngạc ba tán nhỏ trộn với tro( [78] ).

Thấy tốp người ồn ào kéo vào, người béo cau mày và toan đứng lên, nhưng hiểu rõ sự tình, ông ta mỉm cười và chỉ bảo họ đừng hò hét, ở phòng bên có một người đi săn đang ngủ.

- Người đi săn nào? - Hai người đồng thanh hỏi.

- Một ông địa chủ.

- Mặc cho họ làm ầm - Người mặc áo cổ bông xoè hai bàn tay ra, nói - Tôi cần cóc gì! Đừng động đến tôi là được rồi. Tôi đã được lấy làm thợ đốt lò...

- Làm thợ đốt lò? Làm thợ đốt lò! - Đám đông sung sướng hoà theo.

- Bà chủ đã ra lệnh! - Gã nhún vai nói tiếp - Còn các người cứ chờ đấy... Các người sẽ được giao việc chăn lợn. Còn về chuyện ta là thợ may, thợ may giỏi, ta đã học những người thợ tài tình nhất ở Matxcơva và đã may cho các vị tướng... thì cái đó không ai lấy đi được của ta. Tại sao các người lại có vẻ mạnh bạo thế kia?... Tại sao? Các người đã vượt ra ngoài uy quyền của địa chủ rồi sao? Các người là những kẻ ăn chực, những kẻ sống bám, có thế thôi.

Ta đã được tự do, ta sẽ không chết đói đâu, ta không thể chết được. Hãy cho ta giấy phép ( [79] ), ta sẽ nộp đủ tô và sẽ làm chủ vừa lòng. Còn các người thì sao, các người sẽ chết, sẽ chết như những con ruồi, có thế thôi!

- Khoác lác chưa - Một gã trai ngắt lời Kuprian, gã này mặt rỗ, tóc màu vàng hoe, quần áo tơi tả thắt chiếc cà vạt đỏ. - Thì anh vẫn có giấy phép đấy chứ, nhưng các ngài chủ vẫn chưa hề nhìn thấy một xu tô của anh, mà anh cũng không kiếm được cho bản thân mình lấy một xu: anh đã phải gắng hết sức mới lê được chân về nhà và từ bấy đến nay vẫn chỉ trần có chiếc kafơtan cà khổ.

- Nhưng làm thế nào được, Kônxtantin Narkizưts! - Kuprian phản đối - Khi con người ta đã yêu say đắm thì cuộc đời hỏng rồi, vứt đi rồi. Cậu hãy sống vào cảnh ngộ như tớ đã rồi hàng chê trách tớ, Kônxtantin Narkizưts ạ.

- Nhưng anh mê một ả như thế nào kia chứ? Một con quái!

- Không, đừng nói thế, Kônxtantin Narkizưts.

- Kìa, anh thuyết ai thế Tôi đã nhìn thấy cô ả rồi. Năm ngoái, ở Matxcơva, chính tôi đã nhìn thấy.

- Năm ngoái thì quả thực là nàng có hơi xấu đi chút ít - Kuprian nói.

- Không, thưa các vị, thôi đi - Một người lên tiếng, giọng đượm vẻ miệt thị. Người này cao, gày còm, mặt lấm tấm mụn, tóc uốn và bôi dầu, chắc là  hầu phòng - Hãy để Kuprian Afanaxits hát cho chúng ta nghe bài ca của anh ấy. Nào bắt đầu đi, Kuprian Afanaxits!

- Đúng, đúng! - Những người khác hùa theo - Hoan hô Alêcxanđra! Đưa Kuprian vào tròng khéo lắm, không chê vào đâu được... Hát đi, Kupria!...Alêcxanđra giỏi lắm (khi muốn biểu lộ thái độ trìu mến, những người hầu trong nhà địa chủ thường dùng đuôi từ giống cái để nói về đàn ông). Hát đi!

- Đây không phải chỗ hát - Kuprian gạt phăng đi - Đây là văn phòng của chủ...

- Nhưng cậu cần quái gì? Có lẽ cậu muốn ngấp nghé cái chân nhân viên văn phòng chắc? - Kônxtantin đáp và cất tiếng cười thô lỗ - Hẳn thế rồi!

- Tất cả chúng ta đều ở dưới quyền chủ - Anh chàng đáng thương nói.

- Thấy chưa, thấy hắn ngấp nghé cái gì chưa, thấy hắn là người thế nào rồi chứ? u! u! a!

Tất cả đều cười phá lên, có những người nhảy lên. Một thằng bé trạc mười lăm tuổi cười lớn hơn cả có lẽ nó là con nhà quý tộc đi với đám gia nhân: nó mặc chiếc gilê có cúc đồng, thắt chiếc cà vạt màu tím hoa cà, và bụng đã xệ ra.

- Này, nói thực đi, Kupria - Nikôlai Êrêmêits nói với vẻ hài lòng, có lẽ ông ta khoái chí và trở nên  dễ tính - Làm thợ đốt lò chán lắm phải không? Một công việc hoàn toàn vô nghĩa nhỉ?

- Sao ông lại nói thế, ông Nikôlai Êrêmêits? - Kuprian lên tiếng - Bây giờ ông làm chủ sự văn phòng của chúng tôi, đúng thế. Chuyện đó không còn phải bàn cãi gì nữa. Nhưng cũng có thời ông bị ghét bỏ và cũng đã ở trong túp nhà tồi tàn của người nông dân.

- Này, cẩn thận đấy, đừng có đi quá trớn - ông béo ngắt lời anh ta một cách nóng nẩy. - Đồ thộn ạ, người ta đùa thì phải biết chứ. Ngu như bò ấy, đáng lẽ phải cảm động và biết ơn vì người ta đã hoài thời giờ nói chuyện với thằng ngớ ngẩn như mình.

Tôi cũng vui miệng nói chơi thế thôi, ông Nikôlai Êrêmêits ạ, thứ lỗi cho tôi...

- Vui miệng, nói chơi.

Cửa mở ra, và một thằng nhỏ chạy vào.

- Ông Nikôlai Êrêmêits, bà chủ cho đòi ông.

- Có những ai ở đấy? - ông ta hỏi thằng bé.

- Acxinhya Nikitisna và một thương gia ở Vênhiôp.

- Ta đến ngay đây. Còn các anh - ông ta nói tiếp với giọng quả quyết - Tốt hơn hết là xin mời các anh xéo khỏi đây cùng với anh thợ nhóm lò mới  của các anh. Kẻo không, ông người Đức mà tạt vào đây là ông ta sẽ kêu với bà chủ ngay cho mà xem.

Ông béo sửa lại mái tóc, đưa bàn tay gần như hoàn toàn bị ống tay áo trùm kín lên che miệng, ho một tiếng, cài cúc áo và khệnh khạng bước ra, lên gặp bà chủ. Lát sau, cả tốp người cùng với Kupria cũng đi nốt. Chỉ còn lại người quen cũ của tôi là anh chàng thường trực. Anh ta toan gọt chiếc bút lông ngỗng, nhưng lại cứ ngồi thế mà ngủ. Mấy con ruồi lập tức lợi dụng dịp may và bâu vào miệng anh ta. Một con muỗi đậu lên trán anh ta, chúng đều chân và thong thả cắm vòi vào da thịt mềm của anh ta. Cái đầu tóc hung có râu quai trước kia lại thò vào của, ngó quanh ngó quẩn một lúc rồi vào văn phòng cùng tấm thân khá xấu xí.

- Fêđiuska? Này Fêđiuska! Lúc nào cũng ngủ! - Cái đầu thốt lên.

Người thường trực mở mắt và rời ghế đứng dậy.

- Nikôlai Êrêmêits lên gặp bà chủ à?

- Lên gặp bà chủ, ông Vaxili Nikôlais ạ.

"A! a! - Tôi nghĩ - tay thủ quĩ chính đây".

Viên thủ quĩ chính bắt đầu đi lại trong phòng.

Nhưng ông ta đi rón rén hơn là bước bình thường, và như vậy, nói chung ông ta giống con mèo cái. Trên vai ông ta lủng liểng tấm áo chèn cũ, đuôi áo rất đẹp. Một tay ông ta để trên ngực, tay kia luôn  luôn nắm lấy chiếc cà vạt bằng lông ngựa thắt cao và chặt, đầu ngọ nguậy một cách chật vật. Ông ta đi ủng da dê, không cót két, và bước rất nhẹ.

- Hôm nay ông địa chủ Iaguskin hỏi ông - Người thường trực nói thêm.

- Hừm, hỏi à? Ông ta bảo gì?

- Ông ta bảo tối nay ông ta sẽ tới Tiutiurep và sẽ chờ ông. Ông ta bảo ông ta có việc cần bàn với Vaxili Nikôlaits, nhưng bàn việc gì thì ông ta không nói: ông ta bảo Vaxili Nikôlaits biết đấy.

- Hừm? - Viên thủ quĩ chính thốt lên và tới gần cửa sổ.

- Này, Nikôlai Êrêmêits có trong văn phòng không? - Có tiếng nói oang oang ở phòng ngoài, và một người cao lớn, có lẽ là đang cáu, khuôn mặt không cân đối nhưng giàu sức biểu hiện và đầy vẻ can đảm, y phục khá chỉnh tề, bước qua ngưỡng cửa.

- Ông ấy không có đây à? - Anh ta đảo mắt nhìn nhanh khắp xung quanh và hỏi.

- Nikôlai Êrêmêits ở chỗ bà chủ - Viên thủ quĩ đáp - ông cần gì xin cứ nói với tôi, ông Paven Anđrêits ạ: ông có thể nói với tôi... ông cần gì?

- Tôi muốn gì à? Ông muốn biết tôi cần gì à?

(Viên thủ quĩ gật đầu với vẻ đau đớn. Tôi muốn cho  y một bài học, cái tên bụng phệ vô lại ấy, tên ton hót đê tiện ấy!).

Paven gieo mình xuống ghế.

- Ông làm sao thế, ông làm sao thế, Paven Anđrêits? ông hãy bình tâm lại... ông không biết xấu hổ ư? Ông đừng quên là ông nói đến ai, ông Paven Anđrêits ạ? - Viên thủ quĩ lắp bắp.

- Nói ai à? Y được đưa lên làm chủ sự văn phòng thì tôi cũng chẳng coi ra mùi gì! Mà họ cũng rõ khéo kén người! Như vậy có thể nói là thả dê vào vườn rau, đúng như vậy đấy!

- Đủ rồi, đủ rồi, Paven Anđrêits, đủ rồi! Thôi đi nói nhảm nhí gì thế?

- Chà, con cáo đã bắt đầu ngoe nguẩy đuôi rồi đấy - Tôi sẽ đợi y. - Paven thốt lên một cách cáu kỉnh và đấm tay xuống bàn - A, y đang đến kia - Anh ta nhìn ra cửa sổ và nói thêm. - Vừa nói đến đã ló mặt tới. Rất hoan nghênh (anh ta đứng lên).

Nikôlai Êrêmêits vào văn phòng. Mặt ông ta hớn hở vì thoả mãn, nhưng thấy Paven, ông ta hơi bối rối.

- Chào ông, Nikôlai Êrêmêits - Paven nói với vẻ nghiêm trang, chậm chạp tiến lại gặp ông ta - Chào ông.

Ông chủ sự văn phòng không trả lời gì cả.

Khuôn mặt của người thương gia xuất hiện ở cửa.

- Sao ông không thèm đáp lời tôi? - Paven nói tiếp - Nhưng không... không - Anh ta nói thêm - Chuyện ấy không đáng kể... Quát tháo, chửi bới không giải quyết được gì. Không, xin vui lòng cho biết, ông Nikôlai Êrêmêits ạ, vì lẽ gì ông trù tôi? Vì cớ gì ông muốn giết tôi? Nào, nói đi, nói đi...

- Đây không phải là chỗ nói rõ với anh về việc ấy - ông chủ sự văn phòng đáp, xem ra có phần lo lắng - và cũng không có thời giờ nữa kia. Nhưng thú thực là có một điều khiến tôi ngạc nhiên: vì sao anh lại dựng chuyện lên là tôi muốn giết anh hay tôi trù anh? Vả chăng, nói cho cùng ra thì tôi trù anh bằng cách nào được kia chứ? Anh có làm việc trong văn phòng của tôi đâu kia chứ?

- Thì đã hẳn! - Paven - Chỉ còn thiếu cái nước ấy nữa thôi. Nhưng ông giả tảng để làm gì, Nikôlai Êrêmêits?... ông hiểu tôi đấy.

- Không, tôi không hiểu.

- Không, ông hiểu.

- Không, quả thực là tôi không hiểu, có Chúa chứng giám!

- Lại còn đưa Chúa ra mà thề thốt kia đấy? Nếu vậy thì tôi xin nói là ông không biết sợ Chúa! Này, vì sao ông không để cho người con gái khốn khổ được yên thân? Ông cần gì ở cô ấy.

- Anh nói về ai vậy, Paven Anđrêits? - ông béo vờ ngạc nhiên.

- Trời? Lại còn không biết sao? Tôi nói về Tatiana. Phải biết sợ Chúa chứ, vì lẽ gì mà ông thù người ta? Phải biết xấu hổ chứ? ông có vợ rồi, con ông cũng cao lớn bằng tôi, mà tôi có làm gì đâu...tôi muốn lấy vợ, tôi xử sự đứng đắn, thẳng thắn.

- Vậy thì tôi có lỗi gì trong việc này, Paven Anđrêits? Bà chủ không cho phép anh lấy vợ: đó là ý muốn của bà. Tôi có dính dáng gì đến đấy?

- Có dính dáng vào đấy ấy à? Thế ông không mưu mô với mụ phù thuỷ già coi giữ kho thực phẩm trong nhà bà chủ ư? Thế các người không ton hót với bà chủ ư? Nói đi, thế các người không dựng đứng lên đủ thứ chuyện để vu cho cô gái thân cô thế cô ư? Chẳng phải là do lòng nhân đức của các người mà cô ấy đang làm thợ giặt lại bị đưa xuống rửa bát hay sao? Rồi cô ấy bị đánh đập và bị nhốt trong bữa ăn chẳng phải là do ân huệ của các người sao? Phải biết xấu hổ, phải biết xấu hổ mới được, một người có tuổi như thế rồi cơ mà! Coi chừng, kẻo mà sẽ bị bán thân bất toại đấy... ông sẽ phải trả lời trước Chúa.

- Cứ chửi đi, Paven Anđrêits, cứ chửi đi... Liệu anh có còn chửi được lâu nữa không?

Paven nổi xung.

- Sao? Định doạ ta à? - Anh ta nói với vẻ tức giận - Mi tưởng ta sợ mi chắc? Không, người anh em ạ, mi gặp phải tay không vừa rồi? Ta sợ gì?... Ta đi đâu chẳng kiếm được miếng ăn. Còn mi thì khác! Chỉ ở đây mi mới sống được, mới có dịp đặt điều ton hót, mới ăn cắp được...

- Lên mặt gớm chưa kìa - ông chủ sự văn phòng ngắt lời anh ta, ông ta đã mất kiên nhẫn - một tên lang băm, chỉ là một tên lang băm, dốt đặc về y lý, thế mà cứ nghe lời hắn thì tưởng đâu hắn là một nhân vật quan trọng lắm!

- Phải, lang băm, vậy mà không có tên lang băm ấy thì bây giờ đức ông đây cũng đã rữa xác ra ở bãi tha ma rồi... Ma quỉ đã xui khiến ta chữa cho y khỏi bệnh - Anh ta nói rít lên qua kẽ răng.

- Mi chữa cho ta khỏi bệnh?... Không, mi muốn đầu độc ta thì có, mi cho ta uống nước lô hội ( [80] ) - ông chủ sự văn phòng đáp lại.

- Chứ gì nữa, bệnh của ngươi ngoài nước lô hội không cái gì có thể chữa được, không làm như vậy thì sao?

- Cảnh sát pháp y đã cấm dùng lô hội - Nikôlai nói tiếp - Ta sẽ kiện mi. Mi muốn làm cho ta chết đi, thế đấy. Nhưng Chúa không để cho ngươi được như ý.

- Thôi, thôi, xin các ông... - Viên thủ quĩ toan can.

- Mặc nó với tôi - Viên chủ sự văn phòng quát - Nó muốn đầu độc tôi. Anh có hiểu không?

- Tưởng ta sợ đấy hẳn... Nghe đây, Nikôlai Êrêmêits - Paven nói với vẻ thất vọng - Lần cuối cùng ta cầu khẩn ngươi... ngươi chèn ép ta, ta không chịu nổi nữa rồi. Hãy để chúng ta yên, hiểu chưa? Nếu không, thề có Chúa, một trong hai chúng ta sẽ gặp chuyện chẳng lành, ta nói với ngươi như vậy đấy.

Ông béo cả cười.

- Ta không sợ ngươi - ông ta thét lên - Ngươi có nghe thấy không, thằng trẻ ranh miệng còn hơi sữa kia! Ngay đến bố ngươi ta còn trị nổi nữa là, ta đã bẻ gãy sừng bố ngươi, ngươi hãy lấy đó làm gương, coi chừng đấy!

- Đừng có nói động đến bố ta, Nikôlai Êrêmêits, đừng có nói động đến!

- Gớm chưa! Ngươi là cái thứ gì mà đe nạt được ta?

- Ta bảo mà, đừng có nói động đến!

- Còn ta bảo cho ngươi biết là đừng có đi quá trớn... Dù ngươi cho rằng bà chủ cần ngươi như thế  nào đi nữa, nhưng nếu cần phải lựa chọn giữa ta và ngươi thì ngươi không đứng vững nổi đâu, chú em ạ! Không ai được phép làm loạn, coi chừng đấy! (Paven giận run lên). Còn con bé Tatiana bị trừng phạt là đáng thôi... Rồi xem, nó sẽ còn khốn đốn hơn nữa!

Paven vung hai tay xông lên, và viên chủ sự văn phòng ngã huỵch xuống sàn.

- Xích tay nó lại, cùm nó lại - Nikôlai Êrêmêits rên ri...

Tôi không dám miêu tả đoạn cuối cảnh đó. Mới viết đến đây, tôi cũng đã sợ không biết tôi có xúc phạm đến tình cảm của bạn đọc không.

Ngay hôm ấy, tôi trở về nhà. Một tuần sau, tôi được biết bà Lôxnhiakôva giữ cả Paven và Nikôlai ở lại làm việc cho mình, còn cô Tatiana thì bà ta đuổi đi xa: có lẽ vì không cần đến cô gái ấy nữa.