← Quay lại trang sách

BURMIXTR([53])

Cách trang viên của tôi chừng mười dặm, tôi có một người quen là Arkađi Pavlưts Pênôskin. Ông ta là một địa chủ trẻ tuổi, một sĩ quan cận vệ đã xuất ngũ. Khu vực của ông ta có nhiều muôn thú để săn bắn, nhà ông ta xây theo đồ án của một kiến trúc sư người Pháp, người nhà ông ta mặc kiểu Anh, những bữa cơm ăn trưa ông ta thết khách bao giờ cũng rất ngon, ông ta tiếp khách nhã nhặn, nhưng người ta vẫn không thích đến thăm ông ta. Ông ta là người biết suy xét và có óc thực tế và lẽ tự nhiên là ông đã được hưởng một nền giáo dục chu đáo, ông ta đã từng ra làm việc, đã được rèn giũa nhiều trong sự tiếp xúc với giới thượng lưu, còn bây giờ ông ta tổ chức việc làm ăn rất có kết quả. Nói theo lời của chính Arkađi Pavlưts thì ông ta là người nghiêm khắc nhưng công bằng, chăm lo đến hạnh phúc của những người dưới quyền và trừng phạt họ cũng là vì phúc lợi của họ. "Cần phải đối xử với họ như với trẻ con - ông ta nói về việc đó - Lũ người ngu dại, mon cher, il faut prendre cela en considération ( [54] )". Còn bản thân ông ta, khi xảy ra cái mà ông ta gọi là sự cần thiết đáng buồn, ông ta thường tránh những động tác gay gắt và kịch liệt, ông ta không thích to tiếng, ông ta chỉ xỉa tay trỏ thẳng vào kẻ phạm lỗi nói một cách bình tĩnh: "Tôi đã cầu xin anh kia mà bạn thân mến của tôi", hay: "Anh làm sao thế, bạn của tôi, hãy tu tỉnh lại đi". Và khi đó ông ta chỉ hơi nghiến răng, miệng hơi nhệch đi. Ông ta tầm vóc thấp bé, dáng người thanh lịch, rất đẹp trai, tay và móng tay chăm chút rất cẩn thận, môi và má ửng lên một màu hồng khỏe mạnh. Ông ta cười giòn giã và vô tư lự, nheo nheo cặp mắt sáng màu hạt dẻ với vẻ niềm nở. Ông ta mặc đẹp và trang nhã. Ông ta đặt mua sách, tranh vẽ, các báo Pháp, nhưng không ham đọc: ông ta phải gắng lắm mới đọc hết được cuốn "Người Do thái lang thang"( [55] ). Ông ta chơi bài rất nghề. Nói chung, ông ta được coi là một trong những người quý tộc có học thức nhất và đối với các gia đình đang kén rể trong tỉnh chúng tôi thì ông ta là một chàng rể đáng ước mong nhất.

Các bà phát điên lên vì ông ta và đặc biệt khen ngợi phong cách của ông ta. Ông ta cư xử khéo tuyệt vời, thận trọng như con mèo, và chưa từng dính vào một chuyện lôi thôi nào, tuy rằng khi có dịp, ông ta cũng tỏ rõ tài năng và thích làm cho kẻ nhút nhát phải chưng hửng và ngậm miệng. Ông ta khinh miệt những kẻ thiếu tư cách, sợ tổn hại đến thanh danh. Nhưng, lúc cao hứng, ông ta tự xưng là môn đệ của Epiquya, tuy nói chung ông ta coi thường triết học, gọi nó là món ăn bốc khói mờ mịt của trí tuệ Đức, đôi khi chỉ là trò vớ vẩn. Ông ta cũng thích nhạc. Khi chơi bài, ông ta hát lẩm bẩm nhưng rất tình cảm. Ông ta vẫn nhớ một số đoạn trong "Luxia" và "Xômnambula ( [56] ), nhưng bao giờ cũng lên giọng hơi cao quá. Mùa đông ông ta đi Pêtecxbua. Nhà ông ta ngăn nắp lạ thường. Ngay cả những người đánh xe cũng chịu ảnh hưởng của ông ta, và chẳng những ngày nào cũng lau chùi vòng cổ ngựa, chải áo armiak , mà còn rửa mặt sạch sẽ nữa. Thực ra thì kẻ hầu người hạ trong nhà Arkađi Pavlưts có lối nhìn hơi gườm gườm, nhưng  nước Nga chúng ta thì không thể phân biệt được vẻ cau có với vẻ buồn ngủ. Arkađi Pavlưts nói bằn giọng mềm mỏng và dễ nghe, chốc chốc lại ngừng lời dường như thích thú để cho từng tiếng lọt qua bộ ria mép lồng bồng tuyệt đẹp của mình. Ông ta cũng hay dùng những câu tiếng Pháp như: "Mais c'est impayable" ( [57] ), "Mais comment donc!" ( [58] ) v.v...

Mặc dầu vậy, tôi cũng không thích đến ông ta lắm và nếu như không có gà rừng và gà gô thì có lẽ tôi với ông ta sẽ hoàn toàn quên nhau. Ở nhà ông ta bạn cảm thấy một mối lo ngại khó hiểu, ngay cả tiện nghi cũng không làm cho bạn vui sướng. Buổi tối, khi người hầu phòng tóc uốn quăn, mặc bộ y phục đầy tớ màu xanh da trời, cúc áo có in huy chương, xuất hiện trước mắt bạn và bắt đầu xum xoe tháo ủng cho bạn thì bạn cảm thấy khó chịu.

Giá như thay cho con người mặt tái nhợt và gày nhom này, trước mặt bạn đột nhiên xuất hiện đôi gò má rộng lạ kỳ và cái mũi tẹt không thể tưởng được của một gã trai lực lưỡng, vừa bị chủ bắt phải rời bỏ cái cày, nhưng đã kịp làm cho chiếc áo kafơtan bằng vải Nam Kinh mà chủ mới ban cho bị bật đường may tới một chục chỗ, thì có lẽ bạn sẽ vui sướng không lời nào nói hết được và bạn vui lòng chịu đựng sự nguy hiểm là người hầu này có thể vặn bật cả chân bạn ra cùng với chiếc ủng...

Mặc dù tôi không ưa Arkađi Pavlưts, nhưng có lần tôi đã phải ngủ đêm ở nhà ông ta. Hôm sau sáng sớm tôi đã bảo thắng ngựa vào chiếc xe bốn bánh của tôi, nhưng ông ta không chịu để tôi đi mà không dùng bữa sáng theo kiểu Anh với ông ta và kéo tôi vào phòng làm việc của mình. Người ta đem lên cho chúng tôi nước chè, thịt băm viên, trứng lòng đào, bơ, mật ong, phó mát v.v... Hai người hầu đi găng tay trắng tinh nhanh nhẹn và lăng xăng săn đón những ý muốn nhỏ nhặt nhất của chúng tôi. Chúng tôi ngồi trên chiếc đi văng Ba Tư. Arkađi Pavlưts mặc chiếc quần sarôvar ( [59] ) rộng bằng lụa, chiếc áo ngắn bằng nhung đen, đầu độ cái mũ fê ( [60] ) có ngù xanh, đi đôi dép Tàu màu vàng hở gót. Ông ta uống trà, cười, xem xét móng tay của mình, hút thuốc, kê gối vào bên sườn và nói chung ông ta rất hào hứng. Sau bữa ăn sáng no nê, Arkađi Pavlưts có vẻ thích thú ra mặt. Ông ta tự rót một cốc rượu nho đỏ, đưa lên môi và bỗng cau mày.

- Tại sao rượu không hâm nóng? - Giọng khá gay gắt, ông ta hỏi một trong hai người hầu.

Người hầu luống cuống, đứng như bị chôn chân xuống đất và tái mét đi.

- Tôi hỏi anh cơ mà, anh bạn thân mến! - Arkađi Pavlưts nói tiếp, giọng điềm tĩnh, mắt vẫn nhìn người kia.

Người hầu khốn khổ ngập ngừng đứng nguyên tại chỗ, xoắn chiếc khăn ăn và không nói được một lời. Arkađi Pavlưts cúi đầu xuống và lừ mắt nhìn anh ta, vẻ trầm ngâm.

- Pardon, mon cher - ông ta thốt lên, miệng mỉm cười dễ mến, thân mật chạm tay vào đầu gối tôi rồi lại nhìn chằm chằm vào người hầu. - Thôi đi đi - ông ta nói thêm sau một lúc im lặng, nhướn cao lông mày và kéo chuông. Một người to béo, da bánh mật, tóc đen, trán thấp, mắt hoàn toàn bị che lấp bước vào phòng.

- Về Fêđor thì... anh ra lệnh xử trí - Arkađi Pavlưts nói thấp giọng và hoàn toàn tự chủ.

- Dạ vâng - Người to béo đáp và quay ra.

- Voilà, mon cher, les désagréments de la campagne ( [61] )- Arkađi Pavlưts nói một cách vui vẻ  Nhưng ông đi đâu vậy? Khoan, ngồi đây lát nữa đã.

- Không - Tôi đáp - Tôi đến lúc phải đi rồi.

- Lại đi săn! Ôi chao, những ông bạn mê săn bắn của tôi! Nhưng ông đi đâu bây giờ?

- Cách đây bốn mươi dặm, đến Riabôvô.

- Riabôvô à? A, lạy Chúa tôi, nếu vậy thì tôi sẽ đi với ông. Riabôvô chỉ cách Sipilôpka của tôi có năm dặm, mà đã lâu tôi không về Sipilôpka: chưa lúc nào rảnh mà đi được. Như thế này thì tiện quá hôm nay ông sẽ đi săn ở Riabôvô, tối ông đến tôi.

Ce sera charmant ( [62] ). Chúng ta sẽ cùng ăn tối với nhau, tôi sẽ đem theo người nấu bếp, ông nghỉ đêm ở chỗ tôi. Tuyệt, tuyệt! - ông ta nói thêm, không đợi câu trả lời của tôi. Cést arrangé ( [63] ). Này, ai đấy?

Bảo thắng xe ngựa cho tôi đây, mà nhanh nhan lên nhé. ông chưa từng đến Sipillôpka à? Tôi mạ muội mời ông nghỉ tại nhà tay burmixtr của tôi, tô biết ông dễ tính và vẫn nghỉ đêm trong nhà chứa c ở Riabôvô...Ta sẽ đi, chúng ta cùng đi!

Và Arkađi Pavlưts cất tiếng hát một bài tình ca Pháp.

- Có lẽ ông không biết điều này đâu - ông ta đứng lắc lư nói tiếp - Nông dân ở đấy làm cho tôi theo lối nộp tô hàng năm. Hiến pháp mà, biết làm thế nào được? Nhưng họ nộp tô chu tất lắm. Thú thực là tôi muốn chuyển họ sang chế độ tạp dịch từ  lâu, nhưng đất ít quá! Tôi cũng rất ngạc nhiên không hiểu họ làm thế nào lần hồi sống qua ngày được Nhưng c'est leur affaire ( [64] ). Tay burmixtr của tôi thật là cừ, une forte tête ( [65] ), một chính khách! Rồi ông sẽ thấy... Thật là hay cho tôi lắm!

Không còn làm thế nào từ chối được nữa. Đáng lẽ khởi hành lúc chín giờ sáng thì hai giờ chiều chúng tôi mới đi. Những người đi săn sẽ hiểu sự sốt ruột của tôi. Arkađi Pavlưts thích tự nuông chiều mình khi có dịp - ấy là nói theo lời của chính ông ta - và ông ta đem theo vô số quần áo lót, thực phẩm, áo dài, nước hoa, gối và những vật dụng linh tinh đủ loại. Với ngần ấy thứ, một người Đức tiết kiệm và tự chủ có thể dùng được một năm. Mỗi lần xe xuống dốc, Arkađi Pavlưts lại nói với người đánh xe những lời vắn tắt, nhưng gay gắt, qua đó tôi có thể kết luận là người quen của tôi khá nhát gan. Tuy nhiên, chuyến đi rất bình yên. Duy có lúc qua cây cầu nhỏ mới sửa chữa, chiếc xe tải có người nấu bếp ngồi trên đó bị đổ, và bánh xe sau đè phải bụng anh ta.

Khi thấy Karem ( [66] ) của nhà mình bị ngã, Arkađi Pavlưts sợ hãi thực sự và lập tức ra lệnh hỏi xem hai tay anh ta còn lành lặn không? Được trả lời là tay anh còn lành nguyên, ông ta yên tâm ngay. Do tình hình như thế, chúng tôi đi khá chậm. Tôi ngồi cùng xe với Arkađi Pavlưts, và cuối chuyến đi, tôi cảm thấy buồn thiu người, nhất là suốt mấy tiếng đồng hồ, người quen của tôi hoàn toàn mất tự chủ và bắt đầu tỏ ra quá sỗ sàng. Cuối cùng, chúng tôi đến nơi, có điều không đến Riabôvô, mà đến thẳng Sipilôpka, không rõ vì sao lại như thế. Hôm ấy, dù sao tôi cũng không thể đi săn được nữa, vì vậy tôi đành cắn răng thuận theo số phận của mình.

Người nấu bếp đến trước chúng tôi mấy phút và hẳn là đã kịp cắt đặt và báo trước cho những kẻ cần báo, vì chúng tôi vừa vào đến cổng rào thì trưởng ấp ( [67] ) (con trai burmixtr) đã ra đón chúng tôi.

Đấy là một nông dân lực lưỡng, tóc hung, cao chừng một xagien , cưỡi trên lưng ngựa, đầu để trần, mặc chiếc armiak mở phanh ngực. "Xôfrôn đâu?" - Arkađi Pavlưts hỏi. Trưởng ấp nhanh nhẹ xuống ngựa, cúi rạp xuống chào ông chủ và nói "Kính mừng ngài, thưa ngài Arkađi Pavlưts" - rồi ngẩng đầu lên, lắc mạnh cho tóc khỏi xoã và thưa bẩm rằng Xôfrôn đi Pêrôp, nhưng đã cho người gọi về. "Được, đi theo ta" - Arkađi Pavlưts nói. Để giữ lễ, trưởng ấp dắt con ngựa né sang bên, nhảy lên ngựa và cho ngựa đi nước kiệu sau xe, tay cầm mũ. Xe chúng tôi đi trong làng. Chúng tôi gặp mấy nông dân ngồi trên những xe tải trống đi về phía ngược lại. Họ từ sân đập về và vừa ngồi trên xe vừa hát, toàn thân nảy chồm chồm, chân đu đưa trong không khí. Nhưng thấy xe chúng tôi và thấy trưởng ấp, họ liền im bặt, bỏ những chiếc mũ trùm mùa đông ra (bấy giờ là mùa hè) và hơi nhóm lên như chờ lệnh. Arkađi Pavlưts gật đầu chào lại tử tế. Sự xôn xao lo lắng truyền lan khắp làng, điều đó trông thấy ngay. Những người đàn bà mặc váy bằng và kẻ ô vuông tự dệt lấy quăng những mẩu củi vào những con chó kém sáng ý hay quá sốt sắng. Một ông lão thọt có bộ râu mọc ngay từ dưới mắt lôi con ngựa đang uống nước chưa xong ra khỏi giếng, thụi cho nó một quả vào sườn không rõ về tội gì và lập tức cúi chào chủ. Những thằng bé mặc sơ mi dài vừa la gào vừa chạy vào nhà, nằm úp bụng lên ngưỡng cửa cao, thõng đầu xuống, chổng chân lên và bằng cách đó, nhào qua cửa rất mau lẹ vào những gian phòng tối om và không ló mặt ra nữa. Ngay cả những con gà mái cũng chạy nhao vào cái khe dưới cổng. Một con gà trống hăng hái ngực nom như khoác tấm áo gi lê bằng xa tanh đen, đuôi đỏ cong lên đến tận mào, toan đứng lại trên đường và đã định cất tiếng gáy, nhưng bỗng xấu hổ và cũng bỏ chạy. Nhà của burmixtr ở tách biệt với các nhà khác, giữa một vườn đay xanh tươi um tùm. Chúng tôi dừng lại trước cổng. Ông Pênôskin đứng lên, bỏ áo mưa trên người ra bằng một cử chỉ rất đẹp và ra khỏi xe, niềm nở nhìn quanh. Vợ burmixtr cúi sát đất chào chúng tôi và tới hôn tay ông chủ. Arkađi Pavlưts để cho bà ta tha hồ hôn tay và bước lên thềm. Ở phòng ngoài, vị trưởng ấp đứng trong góc tối và cũng cúi xuống chào nhưng không dám đến hôn tay chủ. Trong cái gọi là nhà lạnh, ở mé bên phải phòng ngoài, có hai người đàn bà khác đã loay hoay bận rộn. Họ mang từ đấy ra đủ các đồ cũ bỏ đi, những bình gỗ thông những chiếc áo da đã cứng đơ, những âu đựng bơ, cái nôi với một đống giẻ và một đứa trẻ còn đỏ hỏn, họ dùng chổi tắm quét rác. Arkađi Pavlưts đuổi tất cả bọn họ ra và ngồi trên chiếc ghế dài ngay dưới những ảnh thánh. Những người đánh xe bắt đầu mang vào nào là hòm, tráp và những đồ dùng khác cố làm giảm tiếng thình thịch của những chiếc ủng nặng nề của mình.

Trong lúc đó, Arkađi Pavlưts hỏi trưởng ấp về mùa màng, về việc gieo hạt và những chuyện làm ăn khác. Trưởng ấp trả lời khá xuôi, nhưng hơi uể oai và vụng về, vừa nói vừa cài cúc áo bằng những ngón tay dường như tê cóng. Y đứng ở cửa và chốc chốc lại né sang bên, nhìn về phía sau để nhường lối cho một người hầu nhanh nhẩu. Phía sau đôi vai vạm vỡ của trưởng ấp, tôi đã nhìn thấy vợ burmixt đánh một người đàn bà nào ở phòng ngoài, đánh không hề có tiếng động. Bỗng có tiếng xe ngựa lọc cọc và xe dừng lại trước bậc thềm: burmixtr vào.

Nhà chính khách này - ấy là nói theo lời Arkađi Pavlưts - thân hình thấp bé, vai rộng, tóc bạc và mập mạp, mũi đỏ, mắt nhỏ màu xanh da trời, râu xoè rộng như cái quạt. Tiện đây xin nói thêm là từ khi có nước Nga đến giờ, chưa ai đưa ra được một dẫn chứng về một người đã phát phì và trở nên giàu mà lại không có bộ râu xoè rộng. Có người suốt đời mang bộ râu thưa, nhọn hoắt ở phía dưới, ấy thế mà bỗng nhiên một hôm nào đó ta thấy toàn thân ông ta được bao bọc trong bộ râu toả rộng như vầng hào quang - không biết ở đâu đâm ra mà lắm vậy? Chắc là burmixtr đã đánh chén ở Pêrôp: mặt lão húp híp lên và người sặc mùi rượu nho.

- Thưa ngài, cha của chúng con, ngài thật là nhân đức - Lão nói như hát và mặt lộ vẻ cảm kích đến nỗi tưởng chừng như sắp ứa nước mắt - cuối cùng ngài đã hạ cố đến với chúng con... Cha ơi, cho con hôn tay cha nào, con hôn tay cha - Lão nói thêm và đã chề môi ra để chực sẵn. Arkađi Pavlưts cho lão được toại nguyện.

- Này Xôfrôn, công việc của người anh em thế nào? - ông ta hỏi bằng giọng dịu dàng.

- Chao ôi, thưa cha - Xôfrôn kêu lên - Côn việc tồi tệ lắm ạ! Thưa cha, cha của chúng con, cha thật là nhân đức, cha hạ cố về đây làm cho cả làng đều được thấy ánh sáng của cha, làm cho chúng con sung sướng đến chót đời. Sáng danh Chúa thưa cha Arkađi Pavlưts, thực là sáng danh Chúa trên trời. Mọi việc sẽ ổn thoả nhờ ân đức của cha.

Đến đây Xôfrôn im lặng một lát, nhìn chủ, và dường như lại bị lôi cuốn theo cảm hứng đang bốc lên (lại thêm men rượu đã ngấm), lão xin hôn tay lần nữa và cất tiếng hát càng hăm hở hơn trước.

- Chao ôi, cha của chúng con, người nhân đức vô cùng... và... biết nói gì hơn nữa! Thề có Chúa Trời, con sung sướng quá đến mê mụ đi... Chúa chứng giám, con nhìn mà không tin ở mắt mình nữa... ôi, cha của chúng con!...

Arkađi Pavlưts nhìn tôi, nhếch mép cười và hỏi: "N'est ce pas que c ést touchant?" ( [68] ).

- Vâng, thưa cha - lão burmixtr lắm lời nói tiếp - Cha định thế nào ạ? Thưa cha, cha làm cho con rầu lòng quá, cha đến mà không cho con biết trước. Cha sẽ nghỉ đêm ở đâu ạ? Ở đây không được sạch sẽ, nhiều rác rưởi.

- Không sao, Xôfrôn, không sao - Arkađi mỉm cười đáp - ở đây tốt rồi.

- Nhưng thưa cha, tốt đối với ai kia chứ? Đối với bọn nông dân chúng con thì tốt. Nhưng Người...Người là cha chúng con, cha nhân từ của chúng con, cha của chúng con!... Xin cha thứ lỗi cho kẻ ngu ngốc này, con hoá điên rồi, thề có Chúa, con mê mụ cả đi rồi.

Trong lúc đó, bữa ăn tối đã được đưa lên.

Arkađi Pavlưts bắt đầu dùng bữa. Lão già đuổi con trai ra, viện cớ người gã có mùi mồ hôi ngột ngạt.

- Thế nào, phân vùng phân thửa xong rồi chứ ông già? - ông Pênôskin hỏi, rõ ràng là ông ta muốn giả giọng nông dân và nháy mắt với tôi.

- Xong cả rồi ạ, thưa cha, tất cả là nhờ ân đức của cha. Hôm kia chúng con đã ký giấy tờ. Cánh Khlưnôp lúc đầu làm bộ làm tịch... thưa cha, đúng là làm bộ làm tịch. Họ đòi hỏi... đòi hỏi... có trời biết được là họ đòi hỏi gì. Thật là bọn người ngu ngốc, thưa cha, một lũ đần độn. Còn chúng con thì thưa cha, nhờ phúc cha, chúng con đã đứng lên cảm tạ và làm cho ông trọng tài Mikôlai Mikôlait vừa lòng. Mọi việc chúng con đều làm theo lệnh cha, thưa cha. Cha truyền lệnh thế nào chúng con cứ theo thế mà làm, và bất cứ việc gì chúng con cũng hỏi Êgo Đmitơrits.

- Êgo đã thưa với ta - Arkađi nói với vẻ oai vệ.

- Chính thế, thưa cha, Êgo Đmitơrits chu đáo lắm, thật thế đấy ạ.

- Như vậy là bây giờ ông hài lòng chứ, hả?

Xôfrôn chỉ đợi có thế.

- Dạ, thưa cha, cha nhân đức của chúng con  Lão lại cất giọng hót...- Xin cha khoan thứ cho con...Ngày đêm chúng con cầu Chúa cho cha...Dĩ nhiên là đất hơi ít một chút...

Pênôskin ngắt lời lão.

- Thôi được, thôi được. Xôfrôn ạ, tôi biết ông là kẻ đầy tớ sốt sắng với tôi... Này, thế việc đập lúa ra sao?

Xôfrôn thở dài.

- Thưa cha, việc đập lúa thì không được khá lắm ạ. Nhưng thưa cha Arkađi Pavlưts, cho phép con được trình với cha một việc nhỏ như thế này (Lão dang hai tay ra, đến gần Pênôskin, cúi xuống và nheo một mắt). Có một tử thi trên đất nhà.

- Thế là thế nào?

- Chính con cũng không hiểu ra sao nữa, thưa cha, cha của chúng con. Chắc là có kẻ thù rắp tâm gây chuyện rắc rối cho ta. May là cái xác lại ở gần chỗ giáp giới với đất của kẻ khác. Nhưng, khốn nỗi lại ở trên đất của ta. Con lập tức sai người kéo nó sang đất kẻ kia trong lúc còn có thể làm được việc đó rồi con cắt người gác và ra lệnh cho họ: im lặng. Rồi để ngừa trước, con báo cho ông cảnh sát trưởng: tôi thấy như thế, như thế. Đồng thời con khoản đãi và tạ ơn ông ta... Thưa cha, cha thấy thế nào ạ? Như vậy là tai vạ đổ lên đầu kẻ khác; một cái xác chết chứ có phải chuyện chơi đâu, tội gì mà mất hai trăm rúp trong khi chỉ một cái bánh bột lúa mạch là ổn thỏa.

Ông Pênôskin cười ngất về mưu mẹo của tay burmixtr của mình và mấy lần, ông ta vừa nói với tôi vừa nghiêng đầu về phía lão già: " Quel gaillard , phải không?"( [69] ).

Lúc ấy, ngoài trời đã tối hẳn. Arkađi Pavlưts ra lệnh thu dọn bàn và mang cỏ khô vào. Người hầu trải khăn giường, đặt gối, chúng tôi đi nằm. Xôfrôn lui ra, sau khi đã nhận lệnh về công việc phải làm ngày mai. Lúc sắp ngủ, Arkađi Pavlưts còn nói thêm với tôi đôi ba điều về những phẩm chất tuyệt vời của người mujich Nga và luôn thể nói thêm rằng từ hồi Xôfrôn quản lý công việc đến giờ, nông dân Sepilôpka chưa hề thiếu tô lấy một đồng xu...Người gác gõ tấm ván lệnh( [70] ); một đứa bé có lẽ chưa kịp thấm nhuần ý thức về bổn phận tự hy sinh, khóc thét lên ở chỗ nào đó trong nhà. Chúng tôi ngủ thiếp đi.

Sáng hôm sau, chúng tôi dậy khá sớm. Tôi toan đi Riabôvô, nhưng Arkađi Pavlưts muốn đưa tôi đi xem đất đai của mình, và nài tôi ở lại. Chính tôi cũng muốn tận mắt thấy rõ những phẩm chất ưu việt của nhà chính khách Xôfrôn. Burmixtr đến.Lão mặc chiếc áo armiak xanh lơ, thắt lưng màu đỏ. Lão nói ít hơn hôm qua nhiều, nhìn chủ bằng cặp mắt tinh nhanh và chăm chú, trả lời rành rọt và xác đáng. Chúng tôi cùng ra sân đập với lão. Con trai Xôfrôn, tay trưởng ấp tầm vóc khổng lồ mà mọi đặc điểm bên ngoài đều cho thấy rõ là một kẻ rất đần, cũng đi theo tôi. Cùng đi với chúng tôi còn có viên zemxki ( [71] ) Fêđôxêits, trước đã từng đăng lính, y có bộ ria mép khổng lồ và khuôn mặt lạ lùng hết sức: dường như cách đây đã lâu lắm rồi, có một chuyện gì khiến y ngạc nhiên quá đỗi và từ bấy đến nay, y vẫn chưa trấn tĩnh được. Chúng tôi đi xem sân đập, nhà để lúa bó chưa đập, nhà sấy lúa, nhà kho, cối xay gió, vườn rau, vườn đay. Quả thực, mọi cái đều gọn gàng ngăn nắp không chê vào đâu được; duy có những bộ mặt rầu rĩ của nông dân khiến tôi có phần băn khoăn. Ngoài sự ích lợi, Xôfrôn còn chăm lo đến vẻ dễ ưa: tất cả các rãnh nước đều trồng hoa kim tước hai bên bờ; giữa các đống rơm trên sân đập y cho làm những con đường nhỏ rải cát; trên cối xay gió, y cho đặt một cái chỉ chiều gió hình con gấu há rộng mõm, thè ra cái lưỡi đỏ; ở mặt trước khu nuôi bò xây bằng gạch, y làm một cái mi tường ( [72] ) gần giống kiểu Hy Lạp, phía dưới có hàng chữ trắng lớn "Xây tại làng Sipilôpka năm một ngàn tám trăm bốn mươi. Nhà nuôi bò."

Arkađi Pavlưts hoàn toàn sung sướng, ông ta dùng tiếng Pháp trình bày với tôi những cái lợi của chế độ tô hàng năm, nhưng ông ta nói thêm rằng chế độ tạp dịch có lợi cho địa chủ hơn, tuy nhiên, điều đó cũng chẳng đáng kể làm gì. Ông ta bắt đầu khuyên bảo burmixtr về việc trồng khoai như thế nào, trữ thức ăn cho gia súc lớn ra sao v.v... Xôfrôn chăm chú nghe lời chủ, đôi khi bẻ bác lại, nhưng không tâng bốc Arkađi Pavlưts là bố, là ân nhân nữa và luôn luôn nhấn đi nhấn lại rằng đất của họ hơi ít, cần mua thêm. "Được thôi, mua đi - Akađi Pavlưts nói - đứng tên tôi, tôi không phản đối!" Nghe những lời đó, Xôfrôn không đáp lại, chỉ vuốt râu. "Bây giờ thì nên vào rừng đi thôi". - ông Pênôskin nói. Người ta lập tức dắt những con ngựa cưỡi đến cho chúng tôi. Chúng tôi vào rừng.

Trong chuyến đi đó, chúng tôi tìm thấy một chỗ sâu kín, nhiều thú săn đến nỗi Arkađi Pavlưts phải khen ngợi Xôfrôn và vỗ vai lão. Về vấn đề trồng rừng, ông Pênôskin theo quan niệm Nga và lập tức kể cho tôi nghe câu chuyện mà theo lời ông, là rất ngộ nghĩnh: một địa chủ tính hay bông đùa và để làm cho người coi rừng của mình hiểu ra lẽ phải, ông ta đã vặt ngót nửa bộ râu của người đó nhằm chứng minh rằng đốn cây không làm cho rừng càng mọc dày rậm hơn lên... Tuy nhiên, về những mặt khác, cả Xôfrôn và Arkađi Pavlưts đều không phải là không ủng hộ những phương pháp mới. Khi trở về làng, burmixtr dẫn chúng tôi đến xem cái quạt hòm mới ở Matxcơva gửi về theo đơn đặt mua của lão. Cái quạt hoạt động tốt, nhưng nếu Xôfrôn biết rằng một chuyện khó chịu như thế nào đang chờ đợi lão trong cuộc dạo chơi cuối cùng này thì có lẽ lão sẽ cùng chúng tôi ngồi nhà cho xong.

Đây là câu chuyện đã xảy ra. Khi ra khỏi nhà kho, chúng tôi thấy cảnh tượng như thế này. Cách cửa mấy bước, cạnh một vũng nước bẩn có mấy con vịt cái vùng vẫy một cách vô tư lự, hai người nông dân đang quì gối: một người già tuổi trạc sáu mươi, người kia mới chừng đôi mươi, cả hai đều mặc sơmi vải thô vá chằng vá đụp, chân không giày và buộc dây thừng thay thắt lưng. Zemxki Fêđôxêits lăng xăng rối rít cạnh họ, và có lẽ y sẽ bảo được họ đi chỗ khác nếu như chúng tôi ở lại trong nhà kho thêm lát nữa, nhưng thấy chúng tôi, họ vươn người thật thẳng và lì ra như phỗng. Trưởng ấp cũng đứng đấy, miệng há hốc, hai nắm tay vung lên, nhưng lưỡng lự không biết làm gì. Arkađi Pavlưts cau mày, bậm môi và tới gần những kẻ cầu xin. Cả hai người lặng cúi rạp xuống chân ông ta.

- Các người cần gì? Các người cần xin gì? - Ông ta hỏi, giọng nghiêm khắc và hơi lấy giọng mũi! (Hai người nông dân nhìn nhau và không thốt lên một lời nào, chỉ nheo mắt như chói nắng và thở gấp hơn).

- Gì nào? - Arkađi Pavlưts lại hỏi và lập tức nói với Xôfrôn - ở gia đình nào?

- Gia đình Rôbôlép ạ - Burmixtr trả lời chậm rãi.

- Nào, muốn gì? - Pênôskin lại nói - Các người không có lưỡi hả? Nói đi ngươi cần gì? - Ông ta hất hàm về phía ông già, nói thêm - Đừng sợ, đồ ngốc ạ.

Ông già vươn dài cái cổ nâu sạm, nhăn nheo, méo xệch, cặp môi đã thâm tím, thốt lên bằng giọng khàn khàn: "Thưa ngài, xin ngài che chở cho chúng con!" - và dập trán xuống đất. Người nông dân trẻ cũng dập đầu lạy. Arkađi Pavlưts bệ vệ nhìn gáy họ, ngửa đầu ra sau và hơi dạng chân ra.

- Cái gì? khiếu nại về ai?

- Xin ngài gia ân cho chúng con! Cho con thở cái đã ạ. Chúng con cực nhục quá (ông già nói một cách khó nhọc).

- Ai hành hạ ngươi?

- Chính Xôfrôn Iakôvlits, thưa ngài.

Arkađi Pavlưts im lặng một lát.

- Tên ngươi là gì?

- Thưa ngài, tên là Antip ạ.

- Còn đây là ai?

- Đây là con trai con ạ.

Arkađi Pavlưts lại im lặng và rẽ ria mép.

- Nhưng ông ta hành hạ ngươi cái gì kia chứ? - Pênôskin vừa nói vừa nhìn ông già qua hàng ria mép.

- Thưa ngài, ông ta làm chúng con hết đường sinh sống. Hai đứa con trai của con bị ông ấy đưa đi lính, tuy không đến phiên chúng phải đi, bây giờ ông ấy lại đẩy thằng thứ ba đi. Thưa ngài, hôm qua ông ấy dắt đi mất con bò cái cuối cùng của con và đánh vợ con, cái ông nhân đức ấy đây ạ (ông già trỏ vào trưởng ấp).

- Hừm! - Arkađi Pavlưts thốt lên.

- Ngài là bậc nuôi nấng chúng con, xin ngài đừng để cho chúng con tận đường sinh sống.

Ông Pênôskin cau mày.

- Thế là thế nào, hả? - ông ta hạ thấp giọng, hỏi bumixtr với vẻ bất bình.

- Y say rượu đấy ạ - Burmixtr đáp - Y không làm lụng gì cả. Đã hơn bốn năm nay, năm nào cũng thiếu tô.

- Thưa ngài, Xôfrôn Iakôvlits nộp tô thay con - ông già nói tiếp - ông ấy nộp thay con đã hơn bốn năm nay, và vì thế, ông ấy bắt con làm nô lệ, thưa ngài, và thêm...

- Nhưng tại sao ngươi lại thiếu tô? - ông Pênôskin hỏi với vẻ dậm doạ. (ông già cúi đầu xuống) - Có lẽ ngươi thích uống rượu, thích la cà ở các quán rượu phải không? (ông già toan mở miệng ra). Ta biết các người rồi. - Arkađi Pavlvưts nói một cách nóng nảy - các người cứ việc nốc rượu và nằm ườn trên bếp lò, còn người nông dân đứng đắn phải gánh vác thay cho các người.

- Y còn là kẻ lỗ mãng nữa - Burmixtr nói chen vào.

Cái đó thì đã hẳn. Bao giờ chả thế. Tôi đã nhiều lần để ý thấy như vậy. Suốt năm ăn chơi bừa bãi, nói năng thô tục, rồi bây giờ mới quì mọp dưới chân chủ.

- Thưa ngài - ông già kêu lên với vẻ tuyệt vọng - Ngài làm ơn làm phúc che chở cho chúng con, con  mà lại dám ăn nói lỗ mãng ư? Con trình với ngài như bày tỏ trước Chúa, quả là không còn có thể sống được nữa. Xôfrôn Iakôvlits thù ghét con, còn vì lẽ gì mà ông ấy thù ghét con thì xin để Chúa phán xét? Ông ấy làm con cùng đường sinh sống...đứa con trai cuối cùng... Vậy mà... (một giọt lệ long lanh trên đôi mắt vàng ệch và nhăn nheo của ông già). Lạy đức ông, xin đấng bề trên che chở cho chúng con...

- Không phải chỉ có gia đình nhà con...- Người nông dân trẻ tuổi toan nói.

Arkađi Pavlưts bỗng nổi cơn thịnh nộ.

- Ai hỏi mày, hả? Người ta không hỏi mày thì mày im đi... Thế là cái gì? Im đi, ta bảo mà! Im mồm?... A, lạy Chúa tôi? Như thế là làm loạn. Không, tên kia? Ta khuyên ngươi chớ có chống lại ta... với ta mà... (Arkađi bước một bước về phía trước, và có lẽ nhớ ra rằng tôi có mặt ở đây, ông ta quay đi và cho hai tay vào túi), Je vous demande bien pardon, mon cher ( [73] ) - ông ta hạ giọng rất thấp, vừa nói vừa mỉm cười gượng gạo – C'est le mauvais côté de la médaille ( [74] )... Thôi, thôi được, - ông ta nói tiếp, không nhìn những người nông dân - Ta sẽ ra lệnh... thôi được, đi đi. (Hai người nông dân không đứng lên). Kìa, ta đã bảo mà. Đi đi, ta sẽ ra lệnh, ta bảo các ngươi mà.

Arkađi Pavlưts quay lưng về phía họ: "Không lúc nào hết chuyện bực mình: - ông ta nghiến răng nói rít lên và bước dài trở vào nhà. Xôfrôn đi theo ông ta. Viên zemxki trợn tròn mắt lên, như sửa soạn nhảy một cái rất xa tới một chỗ nào đó.

Trưởng ấp dọa những con vịt, khiến chúng phải bỏ vũng nước. Những người cầu xin còn đứng một lúc nữa tại chỗ, nhìn nhau rồi uể oải quay trở về, không hề ngoái nhìn lại.

Hai tiếng sau, tôi đã ở Riabôvô và sửa soạn đi săn cùng với Anpađixt, một nông dân quen biết.

Cho đến khi tôi đi, Pênôskin vẫn bực tức với Xôfrôn. Tôi nói chuyện với Anpađixt về nông dân Sipilôpka, về ông Pênôskin, hỏi xem Anpađixt có biết tay burmixtr ở đấy không.

- Xôfrôn Iakôvlits ấy hả?... có chứ!

- Y là người thế nào?

- Con chó chứ không phải là người. Suốt từ đây cho đến tận Kurxk cũng không tìm đâu ra được một con chó như thế.

- Sao vậy?

- Thế này nhé: Sipilôka tiếng là của... tên người ấy là gì nhỉ... à, của Pênôskin, nhưng Xôfrôn mới thật là kẻ làm chủ làng đó.

- Thực ư?

- Y cai quản làng đó như đấy là tài sản riêng của y. Nông dân tất thảy đều mắc nợ y. Họ phải làm việc không công cho y: người thì y sai đi đánh xe tải, người thì y sai đi làm việc nọ việc kia... Y làm tội làm tình họ hết cấp.

- Hình như đất của họ hơi ít thì phải?

- Ít à? Chỉ riêng đất của Khlưnôp mà y thuê cũng đã tám mươi đêxiatin rồi, lại còn một trăm hai mươi đêxiatin của làng tôi nữa. Như thế vị chi là trăm rưỡi đêxiatin rồi. Mà không phải y chỉ kiếm lời về ruộng đất thôi đâu, y buôn bán ngựa, cả gia súc cả nhựa cây, cả bơ, cả đay và các thứ khác... y tinh ranh lắm, quá tinh ranh, và giàu nữa, con vật ấy! Tệ hại nhất là y quen đánh người. Thú vật chứ không phải là người. Tôi đã bảo y là chó má, chó, đúng là chó.

- Thế sao họ không khiếu nại về y?

- Ôi dào! Ông chủ thì ông ấy cần quái gì kia chứ? Tô không thiếu hụt, vậy thì ông ta cần gì? Cứ đi mà khiếu nại - Anpađixt nói thêm, sau một lúc im lặng - Có giỏi cứ khiếu nại đi... Không, y sẽ cho biết tay...ừ, có giỏi thì cứ thử xem...Không, y sẽ làm cho khốn đốn...

Tôi nhớ tới Antip và kể với Anpađixt sự việc mà tôi đã chứng kiến.

- Thì đấy - Anpađixt thốt lên - Bây giờ y sẽ ăn tươi nuốt sống ông già, y sẽ làm cho ông già đừng hòng mà sống nổi nữa. Trưởng ấp sẽ đánh đập ông lão. Khổ thân ông già đáng thương? Vì cớ gì mà ông ta bị y trù như thế...Có lần ông ta cãi cọ với tên burmixtr ở chỗ đông người, chắc là không nín nhịn nổi nữa... chuyện có gì to tát đâu? Thế mà y bắt đầu trả đũa. Bây giờ thì y sẽ róc xương ông ta. Y là con chó dữ mà, đồ chó má, cầu Chúa tha tội cho con, y biết ai là người y có thể chèn lấn được. Những ông già giàu hơn và đông con cháu hơn thì y không đụng đến, con quỉ hói ấy. Còn với ông già này thì y không kiêng nể gì! Chính y đã đẩy các con trai Antip vào lính, tuy không đến phiên họ phải đi, cái thằng bợm già đểu cáng ấy, đồ chó, lạy Chúa tha tội cho con.

Chúng tôi bắt đầu đi săn.

Zantxơbrun, Xilêzi

tháng sáu, 1847.