HAI ĐỊA CHỦ
Bạn đọc thân mến, tôi đã có vinh dự giới thiệu với các bạn một số người láng giềng của tôi. Bây giờ, nhân câu chuyện (đối với bọn nhà văn chúng tôi thì bao giờ chả là nhân câu chuyện), xin cho phép tôi giới thiệu thêm với các bạn hai địa chủ nữa. Tôi thường đi săn ở khu vực của họ, họ là những người rất đáng kính, có đầu óc đứng đắn và được mọi người ở một số huyện trong tỉnh kính trọng.
Trước hết, xin miêu tả với các bạn viên thiếu tướng xuất ngũ Viatsêxlap Inlariônôvits Khvalưnxki. Các bạn hãy hình dung một người cao lớn và trước kia thân hình cân đối, bây giờ đã hơi phị ra, nhưng hoàn toàn không suy yếu, thậm chí không mệt mỏi, một người đứng tuổi, đang độ sung sức như người ta thường nói. Thực ra, những đường nét trên mặt ông ta xưa kia rất đều đặn nay đã hơi biến đổi, tuy vẫn còn dễ coi, má xị xuống, những nếp nhăn chi chít toả thành hình nan quạt xung quanh mắt, răng đã khuyết mất đôi ba cái, như Xaađi đã nói, nếu tin theo lời cam kết của Puskin ( [83] ). Mái tóc màu vàng nhạt, hay ít ra là tất cả chỗ tóc còn nguyên vẹn đã biến thành màu hoa cà nhờ thứ thuốc bôi tóc mua ở chợ bán ngựa Rômen do một gã Do Thái mạo nhận là người Armêni bán cho. Nhưng Viatsêxláp Inlariônôvits đi đứng nhanh nhẩu, cười vang giòn, thường hay dập đinh thúc ngựa vào nhau làm phát ra tiếng kêu lanh lảnh, hay xoắn ria mép, sau nữa, ông ta vẫn tự nhận mình là người chiến sĩ kị binh già, tuy ai nấy đều biết là những ông già thực sự thì không bao giờ coi mình là ông già. Ông ta thường hay mặc áo dài xẻ cúc đến tận cổ, cà vạt thắt cao, cổ áo sơ mi hồ bột, còn bên dưới là chiếc quần màu xám có đốm hoa, may theo kiểu võ phục. Mũ thì ông ta đội trùm lên trán, để phơi tất cả gáy ra ngoài. Ông ta rất tốt bụng, nhưng có những quan niệm và thói quen rất lạ lùng. Chẳng hạn, trong cách đối xử với những người không giàu hay không phải là quan chức, ông ta không thể nào coi họ ngang với mình.
Khi nói chuyện với họ, ông ta thường nhìn họ bằng con mắt liếc ngang, đồng thời tì mạnh một bên má vào cái cổ áo trắng cứng đơ, hay đột nhiên chiếu rọi vào họ một cái nhìn sáng sủa và bất động, nhưng chẳng nói chẳng rằng, chỉ có toàn bộ da đầu dưới tóc giần giật. Thậm chí ông ta phát âm chệch tiếng đi chẳng hạn, ông ta không nói: " Cảm ơn, Paven Vaxilits" hay " Xin mời lại đây, Mikhailô Ivanưts", mà nói " cớm ân, Panlơ Axilits ", hay " Xơn mài lại đơi, Mikhan Vanưts ". Với những người thuộc các tầng lớp dưới của xã hội, ông ta đối xử càng lạ lùng hơn: ông ta hoàn toàn không nhìn họ, và trước khi nói cho họ biết ý muốn của mình hay ra lệnh, ông ta nhắc lại mấy lần liền, vẻ lo ngại và tư lự: "Anh tên là gì?... Anh tên là gì?" Ông ta nhấn mạnh tiếng "là gì" một cách gay gắt khác thường, còn những tiếng khác thì ông ta nói rất nhanh, khiến cho toàn bộ giọng nói của ông ta khá giống với tiếng kêu của con cun cút đực. Ông ta lúc nào cũng bận rộn và keo kiệt ghê gớm, nhưng vẫn là một ông chủ tồi: người được ông ta chọn làm người quản lý là một gã Tiểu Nga, nguyên là tào trưởng kỵ binh, một kẻ đần độn lạ thường. Tuy nhiên, trong việc quản lý kinh tế nông nghiệp chưa có ai trong chúng ta đã ăn đứt được một ông quan to ở Petecxbua: ông quan này sau khi xem tờ trình của viên quản lý, thấy nói rằng các nhà sấy lúa bó của ông ta thường hay bị cháy, vì thế hại mất nhiều lúa, ông ta liền ra một lệnh hết sức nghiêm khắc: từ nay trở đi, cho đến khi lửa tắt hẳn, không được mang lúa bó vào nhà sấy. Cũng chính ông quan ấy đã toan cho trồng thuốc phiện trên tất cả đồng ruộng của mình, có lẽ là do sự tính toán rất đơn giản: thuốc phiện đắt hơn lúa mạch, vì vậy trồng cây thuốc phiện có lợi hơn. Chính ông ra lệnh cho những người đàn bà nông nô dưới quyền mình phải đội kôkôsnic ( [84] ) làm theo mẫu từ Pêtecxbua gửi về. Thực tế, cho đến nay, trong các khu vực đất đai của ông ta, phụ nữ nông dân vẫn đội kôkôsnic ...có điều là đội ngoài kiska ( [85] )... Nhưng ta hãy trở lại với Viatsêxlap Inlarinôvits. Viatsêxlap Inlarinôvits rất háo sắc, và hễ gặp một người đẹp trên đường phố thị trấn hạt nhà là ông ta lập tức bám theo, nhưng liền ngay đó ông ta bắt đầu đi khập khiễng, đấy là điều rất đáng chú ý. Ông ta thích chơi bài, nhưng chỉ chơi với những người địa vị thấp kém hơn ông ta. Họ thưa gửi với ông ta: "Thưa đại nhân", còn ông ta tha hồ doạ nạt và quát tháo họ. Nhưng, khi có dịp chơi bài với quan tổng đốc hay một quan chức nào khác thì ông ta thay đổi thật kì diệu: ông ta mỉm cười gật gật đầu, nhìn vào mắt họ, cái nhìn ngọt lịm như mật ong... Dù có thua, ông ta cũng không than phiền. Viatsêxlap Inlariônưts ít đọc sách báo, khi đọc ông ta luôn luôn động đậy ria mép và lông mày, thoạt tiên động đậy ria mép, rồi động đậy lông mày, dường như thả một làn sóng lướt trên mặt từ dưới lên trên. Cái chuyển động sóng ấy thể hiện đặc biệt rõ trên mặt Viatsêxlap Inlariônưts khi ông ta có dịp (tất nhiên là trước mặt khách) lướt mắt trên những cột báo "Journal des Débats" . Trong các cuộc bầu cử, ông ta đóng vai trò khá quan trọng, nhưng bao giờ cũng khước từ cái vinh dự làm lãnh tụ của giới quí tộc, vốn tính hà tiện, ông ta sợ tốn kém. "Thưa các ngài" - ông ta thường nói với những người quí tộc đến dò ý ông ta, và nói với giọng đầy vẻ bề trên, đầy ý thức độc lập - Rất cám ơn các ngài đã dành cho tôi cái vinh dự ấy, nhưng tôi đã quyết định dùng thời giờ nhàn rỗi để được nghỉ ngơi một mình". Nói xong những lời ấy, ông ta quay đầu mấy lần về bên phải và về bên trái, rồi áp cằm và má lên chiếc cà vạt với vẻ tự hào. Hồi trẻ tuổi, ông ta đã là tuỳ tùng của một nhân vật quan trọng nào đó, khi nói đến người này, bao giờ ông ta cũng gọi cả tên và phụ danh. Nghe nói đâu như ông ta không chỉ đảm đương nhiệm vụ tuỳ tùng, mà hình như còn làm những việc khác, chẳng hạn ông ta mặc lễ phục đầy đủ, thậm chí cài cúc chu đáo và xông hơi nước cho cấp trên trong nhà tắm. Nhưng không thể tin bất cứ lời đồn nào.
Vả chăng, chính tướng Khvalưnxki cũng không thích nói đến những chuyện có liên quan đến chức vụ của mình, đó là điều khá kỳ lạ: hình như ông ta chưa từng tham gia chiến tranh. Tướng Khvalưnxki ở trong căn nhà nhỏ, sống một mình. Ông ta chưa từng biết hạnh phúc vợ chồng, cho nên, đến tận bây giờ, ông ta vẫn được coi là người đang kén vợ, và ông có nhiều lợi thế trong việc này.
Nhưng, người trông coi việc nhà cho ông ta là một người đàn bà khoảng ba mươi nhăm tuổi, mắt đen, lông mày đen, đẫy đà, tươi tắn, mép có lông tơ trông như ria, ngày thường thì mặc áo dài hồ bột, chủ nhật thì lồng thêm cả những ống tay áo bằng vải lượt. Viatsêxlap Inlariônưts nom rất bảnh trai trong những bữa tiệc trưa linh đình mà các địa chủ khác mở ra để chiêu đãi các quan đầu tỉnh và các quan chức khác; ở đây, có thể nói là ông ta như cá gặp nước. Thông thường, trong những dịp như thế, nếu không ngồi bên phải quan đầu tỉnh thì ông ta cũng ngồi cách đấy không xa. Lúc mới vào tiệc, ông ta còn giữ vẻ trang trọng để tỏ rõ phẩm cách của mình: ông ta hơi ngả người về phía sau, nhưng không quay đầu, chỉ liếc ngang nhìn những cái gáy tròn trĩnh và những cổ áo dựng đứng của khách khứa ở phía dưới. Nhưng đến cuối bữa ăn, ông ta vui lên, bắt đầu mỉm cười, hướng về mọi phía (đầu bữa ăn, ông ta chỉ hướng về phía quan đầu tỉnh), đôi khi, thậm chí ông ta còn nâng cốc chúc mừng phái đẹp, món trang sức cho hành tinh chúng ta, nói theo lời ông ta. Tướng Khvalưnxki cũng tỏ ra chững chạc tại các buổi lễ tiết long trọng và công khai, tại các cuộc thi, các cuộc hội họp và triển lãm; ở những chỗ đường rẽ, những chỗ qua sông và những chỗ khác tương tự, người của Viatsêxlap Inlariônưts không làm ồn và không la hét. Trái lại, khi dẹp đám đông hay gọi xe ngựa, họ nói bằng giọng trầm dễ nghe phát ra từ trong cổ họng: "Nào, xin các ông để cho tướng Khvalưnxki đi qua với chứ!", hay: "Xe của tướng Khvalưnxki...". Sự thực thì cỗ xe của tướng Khvalưnxki nom khá cổ lỗ; những người hầu của ông ta mặc đồng phục khá cũ (có lẽ không cần nói rằng y phục của những người đó may bằng vải xám có đường viền đỏ). Ngựa cũng khá già yếu và đã từng hầu hạ chủ gần trót đời, nhưng Viatsêxlap Inlariônưts không có tham vọng phô trương sự sang trọng của mình, và cho rằng ở cấp bậc của ông ta, loè bịp mọi người là không nên.
Khvalưnxki không có tài ăn nói, hay có lẽ ông ta không có dịp trổ tài hùng biện, bởi vì chẳng những ông ta không chịu nổi sự tranh cãi, mà nói chung ông ta không chịu nổi sự phản đối và mọi cuộc trò chuyện dông dài, đặc biệt là ông ta hết sức tránh nói chuyện với thanh niên. Như vậy quả là đúng đắn hơn, nếu không thì với lớp người hiện nay, dễ xảy ra chuyện không hay: họ sẽ không vâng lời và sẽ không kính trọng ông ta nữa. Trước mặt các nhân vật cao cấp, Khvalưnxki giữ thái độ im lặng nhiều hơn, còn đối với những kẻ địa vị thấp kém hơn mà có lẽ ông ta khinh thường, nhưng lại là chỗ quen biết, thì ông ta có lối nói nhát gừng và gay gắt, luôn luôn dùng những câu đại loại như: "Này, ông nói không ra đâu vào đâu cả"; hay "Thưa ông, cuối cùng thì tôi buộc lòng phải nói để ông rõ"; hay "Xét cho cùng thì ông nên biết là ông đang nói chuyện với ai". Các trạm trưởng bưu chính, các bồi thẩm và những người coi trạm đổi ngựa đặc biệt sợ ông ta. Ông ta không tiếp ai ở nhà mình, và nghe nói ông ta sống rất bủn xỉn. Tuy vậy, ông ta vẫn cứ là một địa chủ rất tuyệt diệu. "Một cựu chiến binh, một người không vụ lợi, trọng nguyên tắc, " vieux grognard" ( [86] ) - những người láng giềng nói về ông ta như vậy. Chỉ có một ông biện lý ở tỉnh là dám mỉm cười khi nghe người ta nói đến những phẩm chất tốt đẹp đáng trọng của tướng Khvalưnxki, nhưng lòng ghen tị có từ cái gì đâu kia chứ?...
Nhưng thôi, bây giờ ta nói đến ông địa chủ kia.
Marđari Apônlônưts Xtêgunôp không giống Khvalưnxki chút nào. Có lẽ ông ta chưa từng làm việc nhà nước và chưa bao giờ được coi là người đẹp trai. Marđari Apônlônưts là một ông già thấp lùn, béo sệ, hói tóc, có hai cằm, hai tay nhỏ nhắn mềm mại và bụng to. Ông ta rất mến khách và hay bông đùa. Ông ta sống theo sở thích riêng, như người ta thường nói. Mùa đông và mùa hè, ông ta mặc áo choàng vải bông kẻ sọc. Ông ta chỉ có một điểm giống với tướng Khvalưnxki: ông ta cũng không vợ. Ông ta có năm trăm nông nô. Marđari Apônlônưts quản lý tài sản của mình khá nông nổi. Mười năm trước, để khỏi lạc hậu với thời đại, ông ta mua của Butenôp ở Matxcơva một cái máy đập, đem về cất kỹ trong nhà kho và lấy thế làm hài lòng. Chỉ khi gặp ngày hè đẹp trời, ông ta mới bảo thắng chiếc xe ngựa nhẹ, ra đồng xem lúa và hái hoa mua. Marđari Apônlônưts sống hoàn toàn theo lối cổ. Nhà ông ta cũng làm theo kiểu cổ, ở phòng ngoài cũng có mùi nước kvax, mùi nến mỡ và mùi da, ở góc bên phải phòng ngoài có cái tủ con đựng ống tẩu và khăn lau. Trong phòng ăn có những bức chân dung gia đình, ruồi, một chậu phong lữ to và những chiếc dương cầm tồi tàn. Trong phòng khách có ba chiếc đi văng, ba cái bàn, hai tấm gương và chiếc đồng hồ rè rè, mặt tráng men đã sạm đen, kim bằng đồng đen có chạm trổ. Trong phòng làm việc có cái bàn chất đầy giấy tờ, những tấm bình phong màu xanh nhạt dán những bức tranh cắt từ những cuốn sách của thế kỷ trước, hai cái tủ đựng những cuốn sách hôi xì, đầy mạng nhện và bụi đen, một chiếc ghế bành cồng kềnh, chiếc cửa sổ kiểu Ý và cái cửa lớn ăn ra vườn, nhưng đóng kín mít. Tóm lại, mọi cái đều bình thường. Marđari Apônlônưts có rất nhiều kẻ hầu người hạ, và tất cả đều mặc theo lối cổ: áo kafơtan dài màu xanh có cổ cao, quần dài không rõ là màu gì, gilê ngắn màu vàng nhạt. Nói với khách, họ "thưa cha" chứ không gọi khách là "ông". Công việc làm ăn của ông ta do một burmixtr xuất thân từ nông dân quản lý, còn việc nhà thì giao cho một bà già đầu chít khăn nâu, mặt nhăn nheo và tính tình keo bẩn. Ở chuồng ngựa của Marđari Apônlônưts có ba mươi con ngựa các cỡ khác nhau. Khi đi đâu, ông ta dùng chiếc xe ngựa do thợ nhà đóng lấy, nặng tới một trăm năm mươi put . Khách khứa được ông ta tiếp rất niềm nở và thết đãi chu đáo, nghĩa là: do tính chất làm mê người của bếp ăn Nga, ông ta khiến họ mất hết khả năng làm bất cứ việc gì, trừ việc chơi bài cho đến tối. Bản thân ông ta cũng chẳng bao giờ làm bất cứ việc gì và thậm chí không đọc cả "Người đoán mộng"( [87] ). Nhưng ở nước Nga chúng ta còn khá nhiều địa chủ như vậy. Thế thì xin hỏi: vì cớ gì tôi nói đến ông ta và nói để làm gì? Thay cho câu trả lời, xin cho phép tôi, kể với các bạn một trong những lần tôi đến chơi Marđari Apônlônưts.
Tôi đến thăm ông ta vào mùa hè, lúc bẩy giờ tối. Buổi cầu kinh tối vừa xong, và viên giáo sĩ trẻ tuổi, nom rất rụt rè, có lẽ mới rời ghế trường dòng, ngồi trong phòng khách cạnh cửa, ngay ở rìa chiếc ghế dài. Như thường lệ, Marđari Apônlônưts tiếp tôi hết sức ân cần: ông ta vui sướng thực sự với từng vị khách, nói chung ông ta là người hết sức tốt. Giáo sĩ đứng lên và cầm lấy mũ.
- Khoan đã, khoan đã, thưa cha... - Marđarit Apônlônưts nói, nhưng vẫn không buông tay tôi - Tôi đã bảo đem vôtka đến cho cha.
- Tôi không uống rượu - Giáo sĩ nói ấp úng, vẻ bối rối và đỏ mặt tía tai.
- Sao lại câu nệ thế? Chức sắc như cha mà không uống rượu là thế nào? - Marđari Apônlônưts nói - Iuska! Iuska! Đem vôtka lên để cha dùng.
Iuska, một ông già cao gày, khoảng tám mươi tuổi bưng vào một cốc vôtka đặt trên cái khay nhỏ sơn màu thẫm, chi chít những vệt hồng màu da thịt để hở.
Giáo sĩ bắt đầu từ chối.
- Uống đi cha, đừng kiểu cách, không tốt - ông địa chủ trách móc.
Vị giáo sĩ trẻ tuổi đáng thương đành vâng lời.
- Thôi, bây giờ cha muốn về thì về.
Giáo sĩ cúi chào.
- Thôi được, tốt lắm, cha đi đi... Con người tuyệt diệu - Marđari Apônlônưts vừa nói tiếp vừa nhìn theo ông ta - Tôi rất bằng lòng về ông ta chỉ phải cái là còn trẻ. Lúc nào cũng theo đúng mọi điều răn, rượu nho cũng không uống. Nhưng còn ông thì thế nào, ông bạn của tôi?... Sao, thế nào? Ta ra ban công để ông xem, buổi chiều đẹp tuyệt.
Chúng tôi ra ban công, ngồi xuống và bắt đầu nói chuyện. Marđari Apônlônưts nhìn xuống phía dưới và đột nhiên xúc động ghê gớm:
- Những con gà mái của ai kia? Gà mái của ai kia? - Ông ta hét lên - Gà của ai mà vào vườn thế kia? Iuska? Iuska! Đi xem ngay xem gà của ai vào vườn thế kia?... Gà của ai? Đã bao nhiêu lần ta cấm rồi, đã bao nhiêu lần ta bảo mà!
Iuska chạy đi.
- Bậy bạ thật - Marđari Apônlônưts nhắc lại - kinh khủng!
Bây giờ tôi nhớ rằng ba con gà mái bất hạnh - hai con đốm và một con trắng trên đầu có túm lông, vẫn ung dung tiếp tục đi dưới những gốc táo, thỉnh thoảng lại biểu lộ tình cảm của mình bằng những tiếng cục cục kéo dài. Bỗng nhiên Iuska đầu không mũ, tay cầm gậy cùng ba gia nhân khác đã đến tuổi thành niên nhất tề xông tới. Một cảnh tượng buồn cười diễn ra. Những con gà mái kêu ầm ĩ, vỗ cánh nhảy, kêu té tát; bọn gia nhân chạy, vấp ngã; ông chủ trên ban công la hét như điên: "Bắt lấy, bắt lấy! bắt lấy, bắt lấy! bắt lấy, bắt lấy, bắt lấy!... Gà của ai, gà của ai thế?" Cuối cùng, một người đầy tớ bắt được con gà có túm lông bờm, đè nó xuống dưới ngực mình, và đúng lúc ấy, từ ngoài đường, một con bé nhảy qua hàng rào vườn. Con bé chừng mười một tuổi, đầu tóc rối bù, tay cầm cành cây khô.
- À, thế thì biết là gà nhà ai rồi! - Ông chủ reo lên với vẻ đắc chí - Gà của tên đánh xe Ermin! Hắn đã sai con bé Natanka nhà hắn đi đuổi gà kia...chắc hắn tránh không sai Parasa đi - ông ta hạ giọng nói thêm và mỉm một nụ cười hàm nhiều ý nghĩa - Này, Iuska! Mặc lũ gà mái đấy: bắt con bé Natanka cho ta.
Lão Iuska thở không ra hơi, chưa kịp chạy đến chỗ con bé đang hoảng hồn thì mụ quản gia không biết từ đâu ra đã chộp lấy tay con bé đáng thương và phát vào lưng nó mấy cái...
- Thế, phải thế mới được - ông chủ lên tiếng tán trợ - hay, hay, hay! hay, hay, hay!... Gà thì tịch thu, Apđôchya - ông ta lớn tiếng nói thêm và mặt mày rạng rỡ, quay về phía tôi - Cuộc săn bắt thú đấy chứ, ông bạn? Tôi toát cả mồ hôi, ông xem đây này, và Marđari Apônlônưts cười phá lên.
Chúng tôi vẫn ở trên ban công. Buổi chiều quả là đẹp lạ thường. Người ta mang trà đến cho chúng tôi.
- Ông Marđari Apônlônưts này - Tôi gợi chuyện - ông cho biết những nhà ở ngoài kia, ở bên đường, phía sau khe, có phải là nhà của các nông nô thuộc quyền ông không?
- Đúng đấy... nhưng sao kia?
- Sao ông lại làm thế ông Marđari Apônlônưts? Như vậy là có tội. Ông cho họ ở những túp nhà tồi tàn, chật chội, xung quanh không nhìn thấy một cái cây nhỏ nào, thậm chí không có lấy một cái ao con, giếng thì có độc một cái, mà cũng không dùng được. Chẳng lẽ ông không tìm được chỗ nào khác ư?... Nghe nói ông còn lấy của họ những ruộng trước vẫn trồng đay phải không?
- Thế khi phải phân địa giới thì ông sẽ làm thế nào nào? - Marđari Apônlônưts trả lời tôi - Cái công việc ấy nó cưỡi lên người tôi ở chỗ này này (ông ta trỏ lên gáy mình). Tôi chẳng thấy việc phân địa giới ấy sẽ đem lại lợi ích gì. Còn về việc tôi tước đoạt ruộng đay của họ và không đào cho họ một cái ao ở đấy thì tôi biết lắm chứ, ông bạn ạ. Tôi là con người giản dị, tôi hành động theo lối cũ. Theo tôi thì chủ là chủ, nông dân là nông dân... Thế đấy.
Trước cái lý lẽ rõ ràng và xác đáng đến thế thì tất nhiên không có cách nào bác lại được.
- Thêm nữa - ông ta nói tiếp - bọn nông dân cũng tồi tệ, xấu thói lắm kia. Đặc biệt có hai gia đình. Ngay hồi ông cụ nhà tôi còn sống - cầu Chúa cho cụ được sung sướng trên thiên đàng, - cụ cũng không nới tay đối với chúng, không nới tay tí nào. Và xin nói với ông, tôi có nhận xét như thế này: bố mà ăn cắp thì con trai cũng là tên ăn cắp. Còn ông nghĩ thế nào thì tuỳ... ôi, dòng máu, dòng máu là một việc hệ trọng. Thú thực với ông, tôi đã đẩy con cháu của hai gia đình ấy vào lính, tuy không đến lượt chúng bị gọi, và tống chúng đi thật xa, mỗi đứa một nơi. ấy vậy mà chúng vẫn không tuyệt nòi, biết làm thế nào được? Bọn chúng đẻ mắn lắm, quân đáng nguyền rủa ấy.
Lúc đó, không khí đã lặng hẳn. Chỉ thỉnh thoảng mới có làn gió lùa tới, và khi lịm dần đi ở gần nhà, gió đưa đến tai chúng tôi tiếng roi đánh nhanh và đều đều từ phía chuồng ngựa vang lên.
Marđari Apônlônưts vừa đưa cái đĩa có rót nước chè lên môi và đã phình rộng hai lỗ mũi - ai nấy đều biết là không một người Nga chính cống nào lại không làm động tác đó khi hít nước chè vào người - thì bỗng nhiên, ông ta dừng lại, lắng tai nghe, gật gù, rồi hớp một ngụm nước, và vừa đặt cái đĩa xuống bàn vừa mỉm cười hết sức hiền hậu, thốt lên như họa theo tiếng roi đánh: "Tsiuki - tsiuki - tsiuk! Tsiuki-tsiuk! Tsiuki-tsiuk"!
- Cái gì thế - Tôi hỏi với vẻ ngạc nhiên.
- Một kẻ nghịch ngợm bị trừng phạt theo lệnh tôi, ông biết gã Vaxya trông coi tủ thức ăn chứ?
- Vaxya nào?
Cái gã lúc chiều phục dịch chúng ta trong bữa ăn ấy mà. Gã có bộ râu quai xồm xoàm ấy.
Cơn phẫn nộ ghê gớm nhất cũng không chống chọi nổi cái nhìn trong sáng và nhu mì của Marđari Apônlônưts.
- Ông làm sao thế, ông bạn trẻ, ông làm sao thế? - Ông ta vừa nói vừa lắc đầu - Sao, tôi là một tên hung nô hay sao mà ông nhìn tôi chằm chằm như thế? Yêu cho roi cho vọt, ông biết đấy.
Mười lăm phút sau, tôi từ biệt Marđari Apônlônưts. Khi xe đi qua làng, tôi thấy Vaxya, người trông coi tủ thức ăn. Anh ta đi trên đường và gặm hồ đào. Tôi bảo người đánh xe dừng ngựa lại và gọi anh ta.
- Này, người anh em, hôm nay anh bị trừng phạt phải không?
- Nhưng làm sao ông biết được? - Vaxya đáp.
- Ông chủ của anh kể với tôi.
- Chính ông chủ à?
- Vì cớ gì ông ấy ra lệnh trừng phạt anh?
- Đáng thôi, thưa ông, đáng thôi ạ. Ở nhà chúng tôi không ai bị trừng phạt vô cớ. Ở nhà chúng tôi không có cái lệ như thế, tuyệt nhiên không. Ông chủ chúng tôi không phải như thế, ông chủ chúng tôi...cả tỉnh cũng không có được ông chủ như thế.
Đi! - Tôi bảo người đánh xe.
"Nước Nga cổ đấy chứ đâu!" - Tôi nghĩ trên đường trở về nhà.