LÊBÊĐIAN
Các bạn đọc thân mến của tôi, một trong những cái lợi chủ yếu của việc đi săn là ở chỗ nó buộc ta luôn luôn chuyển chỗ, mà đối với người nhàn rỗi thì điều đó thật thú vị. Thực ra đôi khi (nhất là vào kỳ mưa), chẳng có gì là vui thú lắm khi ta đi lang thang trên các nẻo đường làng gặp bất cứ người nông dân nào cũng giữ lại và hỏi: "Này, ông ơi, chúng tôi muốn đến Morđôpka thì đi đường nào?" Rồi đến Morđôpka thì hỏi thăm một mụ đàn bà đần độn (những người có sức lao động đều ra đồng làm việc hết cả): từ đây đến những nhà trọ trên đường cái lớn có xa không, làm thế nào đến đấy được và sau khi vượt qua được mười dặm đường thì chẳng thấy nhà trọ đâu, mà lại lọt vào một xóm đổ nát hoang tàn của địa chủ, tên là xóm Khuđôbupnốp, khiến cho cả một bày lợn đang đầm mình ngập đến tận tai trong đám bùn nâu sẫm ở giữa đường phải kinh hoàng vì hoàn toàn không ngờ người ta sẽ đến quấy rầy chúng. Cũng chẳng vui gì khi phải qua những cây cầu nhỏ run rẩy, phải cho xe xuống khe, phải băng qua những con suối đáy lầy ở chỗ có thể lội qua được. Chẳng lấy gì làm vui thú khi suốt mấy ngày ròng rã cứ phải cho xe đi trên cái biển xanh lục của những con đường lớn, hay - cầu Chúa tránh cho điều này, - có khi còn sa lầy mấy tiếng đồng hồ trước cái cột tính dặm đường sặc sỡ, một mặt ghi con số 22, mặt kia ghi con số 23. Chẳng vui vẻ gì khi hàng tuần phải ăn trứng, sữa, và thứ bánh mì bằng bột lúa mạch mà người ta vẫn tán dương. Nhưng tất cả những cái bất tiện và rủi ro ấy được bù lại bằng những cái lợi và những khoái lạc khác nhau. Nhưng chúng ta hãy đi vào chính câu chuyện.
Do tất cả những điều đã nói trên, tôi chẳng cần gì phải giải thích cho bạn đọc rõ là bằng cách nào mà năm năm trước, tôi đã đến được Lêbêđian đúng vào lúc hội chợ đang náo nhiệt. Bọn đi săn chúng ta, vào một buổi sáng kia, có thể rời khỏi một chốn ít nhiều thuộc phạm vi tài sản của cha ông, ra đi với ý định chiều hôm sau sẽ trở về, và dần dà, vì mải miết bắn dẽ gà, cuối cùng ta đã đến một nơi được Chúa ban ơn lành trên bờ sông Petsora. Mà tất cả những người ham thích súng và chó săn đều say mê một loài vật cao quí nhất trên đời là ngựa.
Vậy là tôi đã đến Lêbêđian, dừng lại trong một khách sạn, thay quần áo và đi xem hội chợ. (Một gã bồi bàn cao kều, gày đét khoảng hai mươi tuổi, có cái giọng ngọt ngào phát âm qua mũi, đã kịp cho tôi biết rằng một vị đại nhân, công tước N. đảm nhiệm việc bổ sung ngựa cho một trung đoàn, hiện nghỉ tại khách sạn của họ, ngoài ra còn có nhiều vị tai to mặt lớn khác đã đến đây, tối đến có các nghệ sĩ Digan ca hát và ở nhà hát có diễn "Pan Tvarđôpxki" ( [88] ), còn ngựa thì rất đắt nhưng toàn là ngựa tốt).
Trên bãi hội chợ, xe tải dàn thành từng dãy dài bất tận, sau xe là ngựa đủ các nòi: ngựa có nước kiệu hay, ngựa của trại nuôi ngựa giống, ngựa Bitiuc, ngựa kéo xe tải, ngựa trạm, và ngựa thường của nông dân. Có những con béo tốt và mượt mà, được chọn lựa theo màu lông, lưng phủ những tấm đệm màu sắc khác nhau; chúng bị buộc sát vào những thanh ngang cao ở gầm xe và sợ sệt liếc mắt về phía sau nhìn những cây roi của các chủ buôn ngựa, những cây roi quá quen thuộc đối với chúng.
Có những con ngựa của địa chủ, do những người quí tộc ở thảo nguyên trong vòng một hai trăm dặm quanh đây gửi đến, chúng được một người đánh xe già lão và hai ba người chăn ngựa ngờ nghệch trông coi, chúng lắc lư những cái cổ dài, giậm chân, gặm những cây cột cho đỡ buồn. Những con ngựa Viatka đốm lang đứng ép sát vào nhau. Những con ngựa chạy nhanh, mông rộng, đuôi lượn sóng, chân xù lông ở đầu móng, có đốm, hoặc đen tuyền, hoặc màu hồng đứng im không nhúc nhích, oai nghiêm như sư tử. Những người am hiểu về ngựa trân trọng dừng lại trước chúng. Những người đủ các cấp bậc, lứa tuổi và hình dáng đứng xúm xít trên những ngõ lối do xe cộ tạo nên: các tay lái ngựa mặc kafơtan màu xanh và đội mũ cao, láu lỉnh nhìn người qua lại và chờ khách mua; những gã Digan mắt ốc nhồi, tóc xoăn, chạy đi chạy lại như điên, xem răng ngựa, nâng chân và đuôi ngựa lên, la thét, chửi mắng, làm môi giới, rút thăm hay lăng xăng cạnh một sĩ quan đội mũ cát két, mặc áo khoác nhà binh có cổ lông hải ly, đó là những sĩ quan chuyên trách việc sắm ngựa cho quân đội.
Một người Côdăc lực lưỡng cưỡi ngựa trên lưng con ngựa thiến gày, cổ dài như cổ hươu và rao bán ngựa kèm "đủ lệ bộ", tức là cả yên cương. Những người nông dân mặc áo khoác lông cừu xoạc nách, hăm hở len qua đám đông, ùa nhau hàng chục người nhảy lên chiếc xe thắng con ngựa cần "thử", hay đứng riêng ra một chỗ, nhờ một người Digan khôn khéo giúp đỡ, mặc cả với nhau đến mệt lử cả người, vỗ vào tay nhau để giao ước tới một trăm lần liền, mỗi người đều khăng khăng giữ cái giá mình muốn, trong khi đó thì đối tượng tranh cãi của họ, một con ngựa cà khổ, lưng đắp cái chiếu quăn mép, chỉ hấp háy mắt như chuyện này không dính gì đến nó... Mà thật vậy, đối với nó thì ai đánh nó mà chả vậy. Những địa chủ trán rộng, ria nhuộm màu, vẻ mặt đường hoàng, đội mũ confederat ( [89] ), mặc áo dạ dài xỏ một ống tay, ôn tồn nói chuyện với những người lái buôn bụng phệ đội mũ lông và đi găng tay màu lá mạ. Các sĩ quan của các trung đoàn khác nhau bàn bạc ngay tại đấy. Một người lính kỵ mặc áo giáp, thân hình dài nghêu, gốc gác là người Đức, lạnh lùng hỏi người lái buôn thọt: "Ông đòi bao nhiêu về con ngựa màu hung này?" Một người lính khinh kỵ tóc vàng nhạt, tuổi chừng mười chín, tìm chọn một con ngựa phụ cho con ngựa gày có nước chạy đặc biệt của mình. Một người đánh xe ngựa trạm đội chiếc mũ thấp cắm lông công mặc áo armiak nâu, đi đôi bao tay da thọc vào dải dây lưng hẹp màu lá mạ, đang tìm con ngựa kéo khỏe.
Những người đánh xe tết đuôi cho ngựa của mình, nhấp nước lên bờm ngựa và góp với chủ những lời khuyên kính cẩn. Những người đã mua bán xong vội vã vào tiệm ăn hay quán rượu, tuỳ theo túi tiền của mình. Tất cả đều bận rộn, la hét, chen chúc nhau, cãi cọ và làm lành với nhau, chửi mắng và cười, lội trong bùn ngập đến gối. Tôi muốn mua ba con ngựa kha khá cho chiếc xe briska của tôi: những con ngựa hiện dùng đã bắt đầu xuống sức. Tôi tìm được hai con, nhưng chưa kịp chọn con thứ ba. Sau bữa ăn trưa mà tôi sẽ không miêu tả ở đây (ngay Ênê ( [90] ) cũng đã biết rằng nhắc đến những nỗi đau xót đã trải qua là việc khó chịu như thế nào), tôi đến cái gọi là tiệm cà phê, nơi mà chiều chiều, những người mua ngựa cho quân đội, các chủ sở ngựa giống và khách bốn phương vẫn tụ họp tại đây. Trong phòng bi da tràn ngập khói thuốc lá mầu chì, có chừng hai chục người. Ở đây có những địa chủ trẻ tuổi suồng sã, mặc áo khinh kỵ và quần màu xám, tóc mai để dài và ria bôi dầu bóng uốn vểnh lên, họ đưa mắt nhìn quanh, với vẻ quí phái và dạn dĩ. Những người quí tộc khác mặc áo dài kiểu Côdắc, cổ ngắn lạ thường, mắt húp lên, khịt mũi một cách khổ sở ngay ở đấy. Những người lái buôn ngồi tách riêng ra một chỗ; các sĩ quan nói chuyện thoải mái với nhau. Công tước N. đang chơi bi da, ông ta mới chừng hai mươi tuổi, mặt vui vẻ và hơi khinh khỉnh, mặc áo xẻ vạt mở phanh, áo sơ mi màu đỏ và quần nhung rộng chèn ống. Ông ta chơi với viên thiếu uý phục viên Victo Khơlôpakôp.
Thiếu uý phục viên Victo Khơlôpakôp là một người nhỏ nhắn, gày gò, nước da rám nắng, trạc ba mươi tuổi, tóc đen, mắt màu hạt dẻ, mũi tẹt và hếch, ông ta rất chăm đến dự các cuộc bầu cử, và các cuộc hội chợ. Khi đi, ông ta cứ nhảy nhảy lên, vung vẩy đôi tay béo tròn coi đến hiên ngang, mũ thì đội lệch về một bên, còn hai ống tay của chiếc áo dài nhà binh lót trong bằng vải chúc bâu xanh nhạt thì xắn cao hẳn lên. Ông Khơlôpakôp có tài làm quen với những kẻ giàu có, tinh nghịch ở Pêtecxbua, hút thuốc, uống rượu, chơi bài với họ, xưng hô thân mật với họ. Vì lẽ gì mà ông ta được họ ưa thích, điều đó khá khó hiểu. Ông ta không thông minh, cũng không buồn cười: ông ta không làm hề được. Thực ra, họ đối xử với ông ta vừa thân mật vừa thờ ơ, như đối xử với một gã trai tốt bụng nhưng trống rỗng. Họ chơi bài với ông ta vài ba tuần, rồi đột nhiên không chào hỏi gì ông ta nữa, còn bản thân ông ta cũng không chào hỏi họ. Thiếu uý Khơlôpakôp có một đặc điểm là suốt một năm, đôi khi đến hai năm, ông ta thường xuyên dùng một câu nói duy nhất, dù đúng lúc hay không đúng lúc câu nói này tuyệt nhiên không có gì thú vị, nhưng có trời biết là tại sao nó làm cho tất cả mọi người đều buồn cười. Tám năm trước, cứ mở miệng là ông ta nói: "Xin bày tỏ với ông tấm lòng kính ái của tôi, xin muôn vàn cảm tạ", và những người che chở cho ông ta lúc bấy giờ lần nào cũng cười ngất và bắt ông ta nhắc lại câu "niềm kính ái của tôi"; rồi ông ta bắt đầu dùng một câu phức tạp: "Không, về cái ấy thì ông... ket-cờ-xe, cái ấy là thế này kia" và ông ta cũng thành công xuất sắc như trước. Hai năm sau, ông ta nghĩ ra câu pha trò mới: " Vu chớ nóng nảy, vu là người của Chúa nhưng bọc lốt da cừu" v... v... Thì đã làm sao? Như các bạn thấy đấy, nhờ những câu pha trò đơn giản ấy mà ông ta được ăn uống, có quần áo mặc (ông ta đã phá tán hết gia sản của mình từ lâu và bây giờ chỉ sống nhờ vào bạn bè). Xin các bạn chú ý rằng ông ta tuyệt không có một cái gì khác đáng mến. Sự thực thì ông ta có tài hút một trăm mồi thuốc một ngày bằng loại ống điếu Jukôp, còn chơi bi da, ông ta giơ chân phải cao quá đầu và vừa ngắm bắn vừa hăm hở ngọ nguậy cây gậy trên tay, kể thì không phải ai cũng thích có những ưu điểm như thế. Ông ta uống rượu khá giỏi... mà ở nước Nga chúng ta, hơn người về mặt này không phải chuyện dễ... Tóm lại, thành công của ông ta là điều hoàn toàn bí ẩn đối với tôi... Tôi chỉ biết một điều: ông ta là người thận trọng, không bao giờ bới móc chuyện người khác, không hề nói xấu ai...
"Không biết hiện nay ông ta có câu cửa miệng nào mới mẻ đây?" - Tôi nghĩ khi nhìn thấy Khơlôpakôp.
Công tước bắn hòn bi trắng.
- Ba mươi - không - Người tính điểm hét to; đấy là một người gày yếu như mắc bệnh lao, mặt ủ ê và có quầng thâm dưới mắt.
Công tước bắn hòn bi vàng vào cái lỗ ở rìa bàn tiếng bi đập giòn vang.
- Chà! - Người lái buôn to béo thốt lên một tiếng làm cho cả cái bụng phệ của mình rung lên. Ông ta ngồi trong một góc, bên chiếc bàn con lung lay một chân, kêu lên một tiếng và bỗng e sợ. Nhưng may thay, không ai nhận thấy ông ta. Ông ta thở phào một cái và vuốt râu.
- Ba mươi sáu - không - Người tính điểm hô to bằng giọng mũi.
- Này, ông thấy cú ấy thế nào, người anh em - Công tước hỏi Khơlôpakôp.
- Thế nào ấy à? Ai chả biết là rracaliôn , đúng là rrracaliôn .
Công tước phì cười.
- Sao, sao? Nhắc lại đi!
- Rrrracaliôn ! - Viên thiếu uý giải ngũ nhắc lại với vẻ đắc ý "Thì ra cái tiếng pha trò mới của ông ta như thế đấy?" - Tôi nghĩ.
Công tước bắn hòn bi đỏ vào lỗ.
- Ồ, không! Công tước ạ, không đúng rồi - một viên sĩ quan nhỏ bé tóc vàng nhạt bỗng lầm bầm, anh ta có cặp mắt đỏ, mũi nhỏ xíu, khuôn mặt choắt ngái ngủ nom như trẻ con - ông chơi không đúng...lẽ ra phải...không đúng!
- Sao kia? - Công tước nói qua vai hỏi anh ta.
- Lẽ ra nên... bắn nẩy hai lần ( [91] ).
- Thật ư? - Công tước lầu bầu qua kẽ răng.
- Thưa công tước, tối nay ngài đến chỗ bọn Di gan chứ ạ? - Gã trai ngượng ngập vội đỡ lời - Xteska sẽ hát...Iliuiska.
Công tước không đáp.
- Rrracaliôn , người anh em ạ - Khơlôpakôp nheo mắt trái một cách ranh mãnh, thốt lên.
Công tước phá lên cười.
- Ba mươi chín - không. - Người tính điểm tuyên bố.
- Vẫn không... xem tôi bắn hòn vàng đây này.
Khơlôpakôp ngọ nguậy cây gậy trên tay, ngắm đích và bắn trượt!
- Ô, rrracaliôn - ông ta bực tức kêu lên.
Công tước lại cười ầm lên.
- Thế nào, thế nào, thế nào?
Nhưng Khơlôpâkôp không muốn nhắc lại tiếng đó: cũng phải làm bộ làm tịch tí chút chứ.
- Ông đã bắn trượt - Người tính điểm nói - xin bôi phấn vào gậy... Bốn mươi - không.
- Thưa các ông - Công tước lên tiếng, nói với tất cả mọi người, nhưng không nhìn riêng ai cả. - Các ông biết chứ, hôm nay Verjembitxkaia được mời đến nhà hát đấy.
- Đúng thế, đúng thế, nhất định rồi - Mấy người tranh nhau reo lên, rất thích thú vì có dịp đáp lời công tước.
- Verjembitxkaia là một cô đào cừ khôi, hơn Xôpnhiakôvaia nhiều - Một người gày còm, có ria mép, đeo kính, từ góc nhà nói vọng ra bằng một giọng e é. - Khổ thân ông ta? Trong thâm tâm, ông ta rất buồn do Xôpnhiakôvaia, vậy mà công tước không ban cho ông ta lấy một cái nhìn.
- Bô-ồi, ê bồi, cho ống điếu đây! - Một người cao lớn, mặt thanh tú, dáng quí phái, chắc hẳn là một tay cờ gian bạc bịp, thốt lên, cái nơ cổ lồng bồng che cả miệng.
Người bồi chạy đi lấy ống điếu, và lúc trở về, y trình với công tước là người đánh xe trạm Baklaga xin gặp.
- A! Thế thì bảo anh ta đợi đấy và đem vôtka đến cho anh ta.
- Xin vâng.
Sau này, người ta kể với tôi rằng Baklaga là biệt hiệu của một tay đánh xe ngựa trẻ tuổi, đẹp trai và được nuông chiều hết sức. Công tước yêu anh ta, cho anh ta ngựa, đua ngựa với anh ta, thường cùng anh ta chơi bời suốt đêm... Còn chính công tước - một người trước kia ngông cuồng và hoang phí nổi tiếng - thế mà bây giờ có lẽ ta không nhận ra được nữa... ông ta xức nước hoa thơm lừng, y phục gọn ghẽ và nom kiêu hãnh biết bao! Ông ta chăm lo đến công vụ biết bao, và nhất là ông ta khôn khéo ghê!
Nhưng khói thuốc lá bắt đầu làm tôi cay mắt.
Sau khi nghe nốt câu nói cuối cùng của Khơlôpakôp và tiếng cười rộ của công tước, tôi về phòng trọ của mình, ở đấy người hầu đã trải chỗ nằm cho tôi trên chiếc đi văng nhồi lông, hẹp và lõm, có lưng tựa cao lum khum.
Hôm sau, tôi đi xem ngựa ở các sân nhà, bắt đầu từ chỗ để ngựa của người lái buôn nổi tiếng Xitnhikôp. Tôi qua cửa rào vào cái sân rải cát. Chính ông chủ đứng trước cửa chuồng ngựa mở toang. Đấy là một người đứng tuổi, cao và béo mặc chiếc áo tu lúp ( [92] ) lông thỏ, cổ bẻ nhưng dựng lên. Thấy tôi, ông ta thong thả đi lại gặp, hai tay cầm mũ giơ cao trên đầu và nói như hát:
- À, kính chào ông. Ông đến xem ngựa phải không ạ?
- Vâng, tôi đến xem ngựa.
- Xin cho phép hỏi, ông muốn xem loại nào?
- Ông cho xem tất cả những con ông có.
- Xin mời ông.
Chúng tôi vào chuồng ngựa. Mấy con chó trắng từ đống cỏ khô chạy ra và tới gần chúng tôi vẫy đuôi. Một con dê già râu dài lánh ra chỗ khác với vẻ bất bình. Ba người coi ngựa mặc những chiếc áo lông bền chắc, nhưng vấy mỡ, lẳng lặng chào chúng tôi. Bên phải và bên trái, có chừng ba mươi con ngựa béo tốt và sạch sẽ tuyệt vời đứng trong những căn chuồng cao khác thường. Những con bồ câu bay từ thanh chắn ngang này sang thanh chắn khác và cất tiếng gù.
- ông cần ngựa kéo hay để gây giống ạ? - Xitnhikôp hỏi tôi.
- Vừa để kéo xe, vừa để gây giống.
- Vâng, vâng, chúng tôi hiểu.
- Người buôn ngựa nói rành từng tiếng - Pêchya, cho ông khách xem con Gornôxtai.
Chúng tôi ra sân.
- Đưa ghế trong nhà ra cho ông chứ ạ? Không cần ạ?... Xin tuỳ ông.
Móng ngựa nện lộp cộp trên ván gỗ, tiếng roi quất giòn vang, và Pêchya, tuổi chừng bốn mươi, mặt rỗ và nước da ngăm đen từ chuồng ngựa chạy ra, dắt theo con ngựa giống lông xám vóc dáng khá cân đối, cho nó chồm ngược lên, đưa nó chạy hai vòng quanh sân và khéo léo đặt nó đứng ở một chỗ dễ nhìn nhất. Gornôxtai vươn dài người, phì một tiếng rin rít như tiếng còi, hất cao đuôi, lúc lắc mõm và liếc nhìn chúng tôi.
"Một con chim có học!" - Tôi nghĩ.
- Thả dây cương, thả dây cương dài ra - Xitnhikôp nói và nhìn tôi chằm chằm.
- Ông thấy thế nào ạ? - Cuối cùng, ông ta hỏi.
- Cũng khá, hai chân trước không vững lắm.
- Chân rất tuyệt! - Xitnhikôp phản đối với vẻ quả quyết - còn mông thì... ông nhìn xem... như cái bếp lò, có thể nằm lên đó mà ngủ được.
- Cổ chân dài quá.
- Dài gì mà dài, ông coi lại xem! Cho chạy đi, Pechya, cho chạy đi một quãng, và nước kiệu, nước kiệu... đừng cho phi nhanh.
Pêchya lại cho Gornôxtai chạy trong sân. Tất cả chúng tôi đều im lặng.
- Thôi, cho nó về chỗ - Xitnhikôp nói - Đưa Xôkôn ra cho chúng tôi. Xôkôn là con ngựa Ô đen như bọ hung, nòi ngựa Hoà Lan, mông xệ, mình thon, nom khá hơn Gornôxtai một ít. Nó thuộc loại ngựa mà những người đi săn thường nói là "chúng chém, chúng băm, chúng bắt tù binh", nghĩa là vừa ưỡn ẹo tung hai chân trước sang bên phải và bên trái, nhưng chẳng tiến lên được bao nhiêu. Các thương nhân tuổi trung niên ưa thích những con ngựa như thế: nước chạy của chúng khiến ta liên tưởng đến dáng đi ngang tàng của gã bồi bàn lanh lợi. Loại ngựa này thắng một mình một xe để dạo chơi sau bữa ăn chiều thì tốt: chúng đi rất điệu và gật gật cổ, sốt sắng kéo chiếc xe thô kệch trên có người đánh xe đã ăn no đến đờ đẫn, ông chủ buôn lử khử mắc chứng bệnh ợ chua và bà vợ béo múp míp của ông ta mặc chiếc măng tô lụa màu da trời và trùm chiếc khăn màu tím. Tôi không ưng cả Xôkôn. Xitnhikôp còn cho tôi xem mấy con ngựa nữa. Cuối cùng có một con ngựa giống, lông xám đốm lang, thuộc nòi Vôiêkôp khiến tôi ưng ý. Tôi không thể nén lòng được và thích thú vỗ vào vai nó. Xitnhikôp lập tức làm ra vẻ dửng dưng.
- Thế nào, con này đi khá đấy chứ? - Tôi hỏi (nói về ngựa có nước chạy hay thì người ta lại không dùng tiếng "chạy").
- Đi được - ông chủ buôn trả lời thản nhiên.
- Cho xem thử được không?
- Sao lại không, được lắm chứ. Này, Kuzina, thắng con ngựa này vào xe. Kuzina, một tay luyện ngựa lành nghề, cho xe chạy trên đường, qua trước mặt chúng tôi ba lần.
Con ngựa chạy hay, không lỗi bước, không hất cao mông, chân đưa thoải mái, đuôi hơi nhướn lên một chút và "giữ nguyên vị trí", ít ve vẩy.
- Ông lấy bao nhiêu về con ngựa này?
Xitnhikôp đòi một giá chưa từng thấy. Chúng tôi đã bắt đầu mặc cả ngay trên đường, thì bỗng nhiên, từ góc đường, một cỗ xe ngựa sắp đặt rất khéo phóng ra như bay và dừng phắt lại trước cổng nhà Xitnhikôp. Công tước N. ngồi trên cỗ xe đi săn sang trọng. Khơlôpakôp ngồi ngất nghểu cạnh ông ta. Baklaga điều khiển ngựa... và điều khiển tài tình làm sao! Y có thể cho cỗ xe vọt qua cái vòng tròn như làm xiếc, thằng cha sừng sỏ ấy! Những con ngựa phụ màu hồng, nhỏ nhắn, linh lợi, mắt đen, chân đen nom như những cụm lửa cháy rực, và khi chạy chúng thu mình lại mới gọn làm sao!
Chỉ một tiếng còi là chúng đã lao đi, thoáng chốc đã mất hút! Con ngựa chính màu hồng đậm ung dung cất cao cổ như thiên nga, ngực ưỡn về phía trước, chân như những mũi tên, lúc lắc đầu và nheo mắt kiêu hãnh... Tuyệt! Cỗ xe này xứng đáng để Sa hoàng Ivan Vaxiliêvits ngự du trong ngày hội xuân!
- Kính chào đại nhân? Xin mời ngài! - Xitnhikôp nói to.
Công tước xuống xe. Khơlôpakôp thong thả xuống ở phía bên kia.
- Chào ông anh, có ngựa không?
- Ngài đã chiếu cố đến đây thì nhất định là phải có chứ ạ! Xin mời ngài vào... Pêchya, đưa Pavlin ra đây! Và sửa soạn cho Pôkhôvannưi nữa. - Còn câu chuyện giữa ông với tôi - ông ta lại nói với tôi - thì xin để khi khác chúng ta sẽ bàn nốt...Fômka, mang ghế ra hầu đại nhân.
Từ một chuồng ngựa đặc biệt mà lúc đầu tôi không nhận thấy, người ta đưa con ngựa Pavlin ra. Con ngựa lực lưỡng, lông đỏ nâu nhảy tung bốn vó lên không. Xitnhikôp thậm chí quay mặt đi và nheo mắt.
- Úi chao, rrakaliôn - Khơlôpakôp buột miệng kêu lên - Jem-xà ( [93] )
Công tước bật cười.
Kìm Pavlin lại không phải là dễ. Thoạt tiên nó chạy lung tung trong sân, người coi ngựa không khiến nổi nó. Cuối cùng, người ta dồn được nó sát vào tường. Nó thở phì phì, rung chuyển toàn thân và thu mình lại, vậy mà Xitnhikôp còn vung roi trêu ghẹo nó.
- Mày nhìn đi đâu? Tao đây cơ mà? Hừ? - ông chủ mắng yêu và chính ông ta cũng thích thú ngắm con ngựa của mình.
- Bao nhiêu? - Công tước hỏi.
- Với ngài thì năm nghìn thôi ạ.
- Ba.
- Không được ạ, thưa đại nhân, ngài xem lại cho...
- Bảo ba là ba, rakaliôn - Khôlôpakôp nói xen vào.
Tôi không chờ xem cuộc mua bán ngã giá và bỏ đi ở góc đường cuối ngõ, tôi thấy trên cổng một ngôi nhà màu xám nhạt có dán một tờ giấy lớn. Ở phần trên, người ta dùng bút sắt vẽ một con ngựa đuôi như ống khói, cổ dài vô tận, còn dưới móng ngựa có những dòng như sau viết bằng thứ chữ cổ: "Ở đây có ngựa đủ các màu lông bán tại chợ Lêbêđian. Đây là ngựa ở trại nuôi ngựa giống nổi tiếng trên thảo nguyên của ông Anaxtaxây Ivanưts Tsernôbai, địa chủ vùng Tambôp. Ngựa có vóc dáng rất đẹp, đã được tập luyện hoàn hảo và thuần tính. Vị nào muốn mua xin hỏi ông Anaxtaxây Ivanưts. Nếu ông Anataxây Ivanưts đi vắng, xin hỏi người đánh xe Nazar Kubưskin. Các vị khách hàng, mong các vị đem lại niềm vinh hạnh cho ông già!"
Tôi dừng lại và nghĩ: nào, ta xem ngựa của ông Tsernôbai, chủ trại ngựa giống nổi tiếng trên thảo nguyên một chút.
Tôi toan vào cửa bờ rào, nhưng trái lệ thường, tôi thấy cửa đóng. Tôi gõ cửa.
- Ai đấy? Khách mua ngựa à? - Một người đàn bà the thé.
- Mua ngựa.
- Ông đợi cho một chút, mở cửa ngay đấy ạ.
Cửa rào mở. Tôi thấy một người đàn bà trạc năm mươi tuổi, đầu để trần, chân đi ủng, mặc áo tulup không cài cúc.
- Mời quí ông vào, tôi sẽ đi báo cho Anaxtaxây Ivanưts ngay... Nazar, này Nazar!
- Gì thế - Tiếng nói phều phào của một ông già bảy mươi tuổi vang ra từ trong chuồng ngựa.
- Sửa soạn ngựa đi có người mua.
Bà già chạy vào nhà.
- Có khách hàng, khách hàng! - Nazar lầu bầu đáp lời bà lão - Tôi vẫn chưa rửa đuôi cho ngựa hết lượt.
- Ôi, Arkađia?" - Tôi nghĩ.
- Kính chào ông, rất hân hạnh được đón tiếp tôn ông - Một giọng âm vang, êm ái và chậm rãi vang lên sau lưng tôi. Tôi quay lại: đứng trước mặt tôi là một ông già tầm vóc vừa phải, tóc bạc trắng, mắt xanh tuyệt đẹp, mặc chiếc áo bành tô vạt dài, miệng mỉm cười nhã nhặn.
- Ông cần ngựa ạ? Xin mời tôn ông, xin mời...Nhưng ông vào nhà xơi chén trà đã chứ ạ?
Tôi từ chối và cám ơn.
- Vâng, xin tuỳ ông vậy. Tôn ông thứ lỗi: tôi cứ theo lệ cổ. (Ông Tsernôvai nói thong thả và nhấn rõ âm "ô"!) Tính tôi vốn giản dị, ông biết đấy... Nazar, ơi Nazar! - Ông ta nói dài giọng nhưng không cất cao tiếng.
Nazar hiện ra ở ngưỡng cửa chuồng ngựa. Đấy là một ông già mặt nhăn nhúm, mũi diều hâu, râu cằm nhọn về phía dưới như hình cái nêm.
- Ông cần ngựa nào, thưa quí ông - ông Tsernôbai nói tiếp.
- Loại không quá đắt, kéo xe kibitka .
- Dạ vâng... có đấy ạ, xin mời... Nazar, Nazar, cho quí ông xem con ngựa thiến màu xám, con đứng ở ngoài cùng ấy, và con hồng có đốm ở trán, không thì con ngựa hồng con của Kraxôtka ấy, biết không?
Nazar vào chuồng ngựa.
- Cứ thế dắt chúng ra, để cả dây tròng cổ! - Ông Tsernôbai hét với theo - Thưa tôn ông - ông ta nói tiếp, nhìn vào mặt tôi bằng cái nhìn sáng sủa và hiền lành - Tôi không như các chủ buôn khác, họ là tầm bậy lắm kia! Họ dùng đủ các thứ cỏ thuốc, muối, bã rượu ( [94] ), xin kiếu họ thôi. Còn hàng của tôi thì mời ông xem, tất cả đều như trên lòng bàn tay, không mánh lới gì.
Ngựa được dẫn ra. Tôi không ưng những con này.
- Thôi, trả chúng về chỗ cũ - Anaxtaxây Ivanưts nói - Cho chúng tôi xem những con khác.
Người ta cho xem những con khác. Cuối cùng tôi chọn được một con khá rẻ. Chúng tôi bắt đầu mặc cả. Ông Tsernôbai không nổi nóng, nói năng rất mực khôn khéo, viện Chúa chứng giám với vẻ trang nghiêm đến nỗi tôi không thể không "đem lại niềm vinh hạnh cho ông già": tôi đặt trước một phần tiền.
- Bây giờ thì thế này - Anaxtaxây Ivanưts nói, - theo lệ cổ, ông cho phép tôi trao ngựa cho ông, tay trao tay... ông sẽ cám ơn tôi về con ngựa đó... Nó đương độ sung sức! Như trái hồ đào non... chưa sứt mẻ tí gì... ngựa thảo nguyên thuần giống! Thắng vào xe loại nào cũng được.
Ông ta làm dấu thánh, đặt tà áo bành tô lên tay mình, cầm lấy cây tròng và trao con ngựa cho tôi. - Bây giờ thì ông làm chủ nó... Nhưng ông vẫn không muốn dùng trà ư?
- Không, đa tạ thịnh tình của ông, tôi cần về nhà.
- Xin tuỳ ông... Thế người đánh xe của tôi sẽ đưa ngựa về theo ông bây giờ chứ ạ?
- Vâng, bây giờ, nếu ông cho phép.
- Xin lĩnh ý, thưa quí ông, xin lĩnh ý... Vaxili, ơ, Vaxili? Đi với quí ông. Đưa ngựa đi và nhận nốt tiền cho ta. Thôi, tạm biệt tôn ông, Chúa phù hộ ông.
Người ta đưa ngựa về nhà cho tôi. Hôm sau mới té ra là con ngựa này đã bị dùng đến kiệt sức và khập khiễng. Tôi định đóng nó vào xe, nó lùi lại, quất nó một roi thì nó bắt đầu giở bướng, đá hậu, và nằm lăn xuống đất. Tôi lập tức đến ông Tsernôbai. Tôi hỏi:
- Ông chủ có nhà không?
- Có nhà.
- Sao ông lại làm thế - Tôi hỏi - ông bán cho tôi con ngựa kiệt sức.
- Kiệt sức à?... A, lạy Chúa!
- Lại còn khập khiễng nữa, đã thế lại bất kham.
- Khập khiễng à? Tôi không biết, chắc người đánh xe ngựa của ông làm hỏng ngựa đấy... còn tôi thì, nói có Chúa trời chứng giám...
- Ông Anaxtaxây Ivanưts ạ, thực tình là ông nên lấy lại ngựa đi thôi.
- Không, thưa tôn ông, xin đừng nóng nảy: dắt ngựa ra khỏi sân là xong việc rồi. Phải xem kỹ đã rồi hãy mua chứ.
Tôi hiểu rõ sự tình, đành phục tùng số phận của mình, tôi phá lên cười và ra về. May thay, tôi không phải trả quá đắt về bài học đó.
Hai ngày sau tôi đi. Một tuần sau, trên đường về tôi lại ghé qua Lêbêđian. Ở hàng cà phê, tôi lại gặp hầu như vẫn những nhân vật ấy và gặp công tước N. đang chơi bi da. Nhưng trong số phận ông Khơlôpakôp đã xảy ra sự thay đổi thường lệ. Một sĩ quan nhỏ bé tóc vàng nhạt đã thay thế ông ta chiếm được ân cố của công tước. Trước mặt tôi, viên thiếu uý xuất ngũ đáng thương lại một lần nữa thử dùng câu nói duyên của mình, hy vọng may ra sẽ được ưa thích như trước, nhưng công tước chỉ mỉm cười thậm chí cau mày và nhún vai. Ông Khơlôpakôp gằm mặt xuống, củ rủ cù rù, lẻn vào một xó nhà và bắt đầu lẳng lặng nhồi thuốc vào ống điếu.