CÁI CHẾT
Tôi có một người láng giềng là chủ gia đình trẻ tuổi và là người đi săn trẻ tuổi. Một buổi sáng tháng bảy đẹp trời, tôi cưỡi ngựa đến ông ta và rủ ông ta cùng đi săn gà rừng. Ông ta đồng ý. "Nhưng chúng ta sẽ đến Zusa, qua những khu khai khẩn nhỏ của tôi. Nhân tiện tôi sẽ xem xét Tsaplưghinô: "ông biết khu rừng sồi của tôi chứ? Ở đấy tôi đang cho đốn cây lấy gỗ". – "Vâng, thì đi". Ông ta bảo thắng ngựa, mặc chiếc áo dài màu lục có cúc đồng in hình đầu lợn lòi, đeo cái túi đi săn thêu sợi len thô và cái bình nước bằng bạc, khoác khẩu súng mới của Pháp lên vai, quay đi quay lại trước gương với vẻ thích thú và gọi con chó Expêrăngxơ( [109] ) của mình (con chó này do bà chị họ tặng ông, bà ta là một bà gái già có tấm lòng rất đáng quí nhưng trên đầu lại không có tóc). Ông ta đem theo viên đêxiatxki ( [110] ) tên là Arkhip, người này là một nông dân béo lùn, mặt vuông, gò má cao, và một viên quản lý mới thuê, người vùng Ban tích, đấy là một thanh niên trạc mười chín tuổi, gầy, tóc vàng nhạt mắt cận, vai trễ, cổ dài, tên là Gôtliba fôn der Côc.
Chính người bạn láng giềng của tôi cũng mới có tài sản cách đây ít lâu. Ông ta được thừa hưởng gia tài của bà thím là Karđôn Katarêva, vợ một viên tham sự hàm ngũ phẩm. Bà này người to béo lạ thường, ngay khi nằm trong giường cũng vẫn cứ thở dốc lên từng hồi dài nghe đến thảm thiết.
Chúng tôi vào "khu khai khẩn nhỏ". "Các ông chờ tôi ở khoảnh rừng thưa này" - Arđaliôn Mikhailưts (người bạn láng giềng của tôi) nói với những người cùng đi. Anh chàng người Đức cúi chào, xuống ngựa, lấy trong túi ra một quyển sách nhỏ, hình như là tiểu thuyết của Jôhăng Sôpenhaoơ ( [111] ), và ngồi xuống dưới một bụi cây. Arkhip vẫn phơi mình ngoài nắng và suốt một giờ không nhúc nhích. Hai chúng tôi đi vòng quanh các bụi cây và không tìm thấy một ổ gà rừng nào cả. Arđaliôn Mikhailưts tuyên bố rằng ông ta định vào rừng.
Ngày hôm ấy, không hiểu sao chính tôi cũng không tin vào kết quả cuộc đi săn: tôi lẽo đẽo theo sau ông ta. Chúng tôi trở lại quãng rừng thưa. Người Đức đánh dấu trang sách, đứng lên, bỏ quyển sách vào túi và trèo lên lưng con ngựa cái hạng bét đuôi cộc của mình và cũng phải khó khăn mới trèo lên được vì con ngựa này, hễ cứ hơi chạm đến nó là nó lại hí ầm lên và đá hậu. Arkhip giật mình bừng tỉnh, giật cả hai nhánh dây cương cùng một lúc, đu đưa hai chân bên sườn ngựa và cuối cùng đã bắt được con ngựa đang bàng hoàng và gần như muốn khuỵu dưới sức nặng của ông ta phải cất bước. Chúng tôi đi.
Tôi quen thuộc khu rừng của Arđaliôn Mikhalưts từ thuở ấu thơ. Cùng với ông gia sư người Pháp, Mr. Désiré Fleury, một người hết sức tốt (nhưng suýt nữa đã phá hoại vĩnh viễn sức khỏe của tôi vì tối nào cũng bắt tôi uống thuốc Lơroa), tôi thường đến Tsaplưghinô luôn. Cả rừng gồm hai ba trăm cây sồi và cây tần bì khổng lồ. Những thân cây thẳng tắp, hùng vĩ nổi bật lên một màu đen trang nghiêm trên cái nền xanh, trong ánh sáng của những cây hồ đào và thanh lương trà. Chúng vươn lên cao vút, dáng hình cân đối, nổi rõ trên nền trời xanh tươi sáng và xoè những cành to ngoằn ngoèo về mọi phía, làm thành một cái lều tròn lơ lửng giữa trời. Diều hâu, chim ưng, vọ vừa rít lên vừa bay lượn trên những ngọn cây im lìm, những con gõ kiến sặc sỡ gõ côm cốp vào vỏ cây dầy. Điệu hót du dương của chú sáo đen bất ngờ vang lên trong tùm lá rậm tiếp theo tiếng hót uyển chuyển của ả vàng anh. Phía dưới, trong các bụi cây, chim sâu, chim yến, chim bông lau ríu rít hát ca. Những con mai hoa nhanh nhảu chạy trên những con đường nhỏ. Một chú thỏ rừng lông trắng len lén men theo bìa rừng, thận trọng nhảy "cà nhắc". Một chú sóc lông đỏ nâu thoăn thoắt nhảy từ cây nọ sang cây kia và bỗng nhiên dừng lại, dựng cao đuôi trên đầu. Trong cỏ, gần những tổ kiến treo cao, dưới bóng râm nhạt màu của những lá dương xỉ có răng cưa xinh đẹp, của đồng thảo và lan chuông nở hoa, nhiều loại nấm ăn được và nấm độc trắng, đỏ, vàng nâu đua nhau mọc lên. Dâu rừng khoe màu đỏ thắm trên các bãi cỏ giữa những bụi cây rộng lớn... Còn bóng rợp trong rừng mới tuyệt làm sao! Đang giữa trưa nắng rực mà trong rừng là đêm thực sự: yên tĩnh, mùi hương rừng, không khí tươi mát... Tôi đã từng sống những giờ phút vui vẻ ở Tsaplưghinô, vì vậy bây giờ vào khu rừng quá quen thuộc đối với mình, thú thực là tôi không khỏi cảm thấy buồn rầu. Mùa đông ác hại, không có tuyết của năm 40 không hề thương tiếc những người bạn cũ của tôi: những cây sồi và những cây tần bì. Giờ đây chúng khô héo trơ trụi, duy có đôi chỗ còn giữ lại được một màu xanh ốm yếu. Chúng cúi đầu buồn rầu, từ trên đỉnh cao vút nhìn xuống khoảnh rừng non "kế nghiệp chúng, nhưng không thay thế được chúng"( [112] ). Một số cây vẫn còn lá ở phía dưới, chúng giơ những cành gẫy đã hết sức sống lên trời, như trách móc và bày tỏ nỗi thất vọng. Ở một số cây khác, từ đám lá: còn khá rậm, tuy không sum suê như trước, có những cành chết khô, to giập thòi ra. Một số cây đã bong vỏ. Cuối cùng, có những cây đã đổ và mục ruỗng như những xác chết trên mặt đất. Ai có thể thấy được rằng rồi đây sẽ không thể tìm được bóng rợp rừng Tsaplưghinô?! Nhìn những cây đang chết dần này, tôi tự hỏi: các ngươi cảm thấy thế nào, có lẽ các ngươi hổ thẹn và đau xót chăng?...Tôi sực nhớ đến thơ của Kôntsôp:
Lời lẽ cao cả,
Sức mạnh uy hùng
Biến đâu rồi nhỉ
Đâu chí dũng vua?
Khí hùng cây lá
Nay đâu rồi cả?
- Thế là thế nào, Ai đaliôn Mikhalưts? - Tôi hỏi sao người ta không đốn những cây này từ năm 41? Bây giờ thì không được giá bằng một phần mười trước kia.
Ông ta chỉ nhún vai.
- Hỏi bà thím tôi thì hơn. Những người buôn đã đem tiền đến, nằn nì mãi cơ đấy.
- Mein Gott! Mein Gott – fon der Côc hầu như cứ đi một bước lại kêu lên – Tếc thật! Tếc thật –
- Tếc cái gì kia? - Người bạn láng giềng của tôi nói.
- Nghĩa là đáng têêc quá, tôi muốn nói như thế.
Anh ta tiếc nhất là những cây sồi nằm trên mặt đất. Thật vậy, người chủ cối xay có thể mua những cây đó với giá cao. Đêxiatxki Arkhip thì hoàn toàn thản nhiên và không buồn phiền chút nào. Trái lại, thậm chí ông ta có vẻ thích thú nhảy qua những cây bị hạ và quất roi vào chúng.
Chúng tôi len lỏi đi về chỗ đốn cây; bỗng nhiên, tiếp theo tiếng đổ rầm rầm của cái cây bị hạ, có một tiếng kêu thét vang lên và tiếng người nói lao xao. Lát sau, một nông dân trẻ tuổi, mặt tái mét đầu tóc rối bù từ trong rừng lao ra, chạy về phía chúng tôi.
- Gì thế? Chạy đi đâu? - Arđaliôn Mikhailưts hỏi.
Anh ta lập tức dừng lại.
- A, thưa ông Ardaliôn Mikhailưts, tai họa rồi!
- Cái gì?
- Thưa ông, Măcxim bị cây đè.
- Sao lại thế? Cai thầu Măcxim ấy à?
- Ông cai thầu, thưa ông. Chúng tôi đốn cây tần bì, còn ông ta đứng xem...ông ta đứng xem mãi, rồi ra giếng lấy nước: ông ta muốn uống nước. Bỗng nhiên, cây tần bì gẫy răng rắc và đổ thẳng vào ông ta. Chúng tôi thét gọi ông ta: chạy đi, chạy đi, chạy đi... Lẽ ra ông ta nên nhảy sang bên, đằng này ông ta lại chạy thẳng... chắc là ông ta hoảng. Cây tần bì đè những cành trên cùng lên ông ta. Còn tại sao nó đổ nhanh như thế thì có trời biết. Chắc là lõi bị mục ruỗng.
- Thế là Măcxim bị tai nạn giết chết rồi à?
- Chết vì tai nạn thưa ông.
- Chết hẳn chưa?
- Không, thưa ông, vẫn còn sống, nhưng tay chân bị dập gẫy. Con chạy đi tìm thày lang Xêlivertưs.
Arđaliôn Mikhailưts bảo viên đêxiatxki phóng ngựa về làng tìm Xêlivertưs, còn ông ta thì phi nước kiệu lớn về chỗ đốn cây...Tôi phóng ngựa theo ông ta.
Chúng tôi thấy anh chàng Măcxim đáng thương nằm trên mặt đất. Chừng mười người nông dân đứng quanh anh ta. Chúng tôi xuống ngựa. Anh ta hầu như không rên, chỉ thỉnh thoảng mở to mắt, nhìn xung quanh như có vẻ ngạc nhiên và cắn cặp môi thâm tím... Cằm anh ta run run, tóc bết vào trán, ngực phập phồng không đều: anh ta sắp tắt thở. Bóng râm mờ nhạt của cây bồ đề non lay động trên mặt anh ta.
Chúng tôi cúi xuống gần anh ta. Anh ta nhận ra Alđaliôn Mikhailưts.
- Thưa ông - anh ta nói lí nhí - xin ông cho người đi tìm...cha đạo...Chúa trời...trừng phạt tôi...chân, tay...dập gãy hết...hôm nay...ngày chủ nhật...mà tôi...tôi đây...tôi không cho mọi người nghỉ.
Anh ta im lặng một lát. Hơi thở tắc lại.
- Còn tiền của tôi... đưa cho vợ tôi... cho vợ tôi...trừ đi những khoản...có Ônhixim biết đấy...tôi nợ những ai.
- Chúng tôi đã cho đi gọi thày thuốc, Măcxim ạ - Người bạn láng giềng của tôi nói - Có lẽ anh chưa đến nỗi phải chết đâu.
Anh ta toan mở mắt ra, và gắng gượng nhướn cao lông mày mi mắt.
- Không, tôi chết mất. Đây kìa...nó đang đến, nó đấy...Các bạn ơi, thứ lỗi cho tôi, nếu có điều gì...
- Chúa sẽ tha lỗi cho anh, Măcxim Anđrêits - Những người nông dân đồng thanh lên tiếng, giọng trầm trầm, và bỏ mũ. - Anh thứ lỗi cho chúng tôi.
Anh ta bỗng lắc mạnh đầu một cách tuyệt vọng, ưỡn ngực lên với vẻ buồn rầu và lại hạ mình xuống.
- Nhưng không thể để anh ta chết ở đây được - Arđaliôn Mikhailưts kêu lên - Nào, chạy ra xe lấy cái chiếu vào đây, chúng ta sẽ đưa anh ta vào nhà thương.
Hai người chạy vội về chiếc xe tải.
Hôm qua... tôi đã mua... của Êfim... ở Xưtsôpxki... - Người sắp chết lắp bắp -... con ngựa...đã đặt trước tiền...- con ngựa của tôi....cho vợ tôi...cũng...
Anh ta được đặt lên chiếu...Toàn thân anh ta run bật lên như con chim trúng đạn và ưỡn thẳng ra.
- Tắt thở rồi - Những người nông dân lầm bầm.
Chúng tôi lẳng lặng lên ngựa và đi.
Cái chết của Măcxim đáng thương khiến tôi phải suy nghĩ. Người nông dân Nga chết thật kỳ lạ! Trạng thái của người đó trước khi qua đời không thể gọi là dửng dưng hay ngây dại. Người đó chết như đang làm một nghi lễ: lạnh lùng và giản đơn.
Mấy năm trước, ở một làng lân cận khác, có một người nông dân chết cháy trong nhà sấy lúa bó. (Đáng lẽ anh ta cứ nằm chết trong nhà sấy, nhưng một người tiểu thị dân đi qua đã lôi được anh ta ra, khi ấy anh ta cũng đã gần chết. Người qua đường kia đầm mình vào một thùng nước, rồi lấy đà chạy, xô bật tung cánh cửa dưới cái mái hiên đang cháy đùng đùng). Tôi vào nhà người nông dân. Trong nhà tối tăm, bí hơi, khói. Tôi hỏi: người bị nạn nằm đâu; "Ở kia, thưa ông, trên bệ bếp lò" - người đàn bà vẻ mặt đau đớn trả lời tôi với giọng du dương như hát. Tôi đến gần. Gã mujich nằm đắp tấm áo khoác lông cừu, thở nặng nhọc. "Thế nào, anh cảm thấy trong người ra sao?" Người ốm cựa quậy trên bếp lò, muốn nhóm dậy, nhưng khắp người đầy thương tích: anh ta sắp nộp mình cho thần chết. "Cứ nằm, cứ nằm, cứ nằm... Thế nào, sức khỏe anh ra sao?" - "Yếu lắm, ông thấy đấy" - anh ta nói. "Đau lắm không?". Anh ta không nói gì. "Anh có muốn uống trà không?" - "Không cần". Tôi lùi ra xa, ngồi xuống chiếc ghế dài. Tôi ngồi mười lăm phút, nửa tiếng: trong nhà im ắng như có tang. Một con bé trạc năm tuổi náu trong góc nhà, sau cái bàn, dưới những ảnh thánh, ăn bánh mì. Bà mẹ thỉnh thoảng lại đe nó. Ở phòng ngoài, người đi lại gõ cửa, nói chuyện; người em dâu băm bắp cải. "Này, Acxinhya!" Cuối cùng, người bị nạn thốt lên. "Gì cơ?" - "Cho tôi nước kvax" Acxinhya đem nước kvax cho anh ta. Lại im lặng. Tôi thì thầm hỏi: "Làm lễ ban thánh thể cho anh chưa?" - "Làm rồi ạ". Như vậy là đâu vào đấy cả; người này đang chờ chết, có thế thôi. Tôi không chịu được và đi ra...
Ngoài ra, tôi còn nhớ, có lần tôi tạt vào nhà thương làng Kraxnôgôriê, thăm anh y tá Kapitôn, một người ham mê săn bắn mà tôi quen.
Bệnh xá này đặt ở một gian đầu chái của căn nhà trước kia của địa chủ. Chính bà địa chủ đã tổ chức bệnh xá này, nghĩa là bà đã ra lệnh đóng lên trên cửa một tấm biển xanh đề chữ trắng: "Bệnh xá Kraxnôgôriê", và chính tay bà trao cho Kapitôn một quyển sổ bìa cứng rất đẹp để ghi tên những người bệnh. Trên tờ đầu của quyển sổ ấy một trong những kẻ ăn nhờ và là thủ hạ của bà địa chủ nhân đức đã viết những vần thơ sau:
Dans ces beaux lieux, où reigne l'allgégresse, Ce temple fut ouvert par la beauté;
De vos seigneurs admirez par la tendresse
Bons habitants de Ksasnogorié ( [113] )
Và một ông khác viết thêm ở dưới:
Et moi aussi, J'aime la nature!
Jean Kobyliatnikoff ( [114] )
Ông y sĩ bỏ tiền túi ra sắm sáu cái giường và cầu Chúa ban ơn lành, bắt đầu chữa bệnh cho con dân của Chúa. Ngoài ông ta, trong nhà thương còn hai người nữa: anh thợ khắc gỗ Paven đã gần hóa điên và người đàn bà có tật một tay, tên là Mêlikitrixa, làm công việc nấu bếp. Cả hai người này chế thuốc, phơi lá thuốc và sắc thuốc. Chính họ cũng kìm giữ những người bệnh lên cơn sốt quá cao, hay phá phách. Người thợ khắc điên dại lúc nào cũng có vẻ cau có và ít lời. Đêm đêm, anh ta hát bài "Thần Vệ nữ mỹ lệ" và thấy người nào đi qua, anh ta cũng đến gần cầu xin người đó cho phép cưới cô gái Malanhya nào đó đã qua đời từ lâu. Người đàn bà có tật một tay đánh anh ta và bắt anh ta phải chăn những con gà tây. Có một lần, tôi ngồi chơi ở chỗ anh y sĩ Kapitôn. Chúng tôi vừa bắt đầu nói chuyện về chuyến đi săn gần đây nhất của chúng tôi thì bỗng nhiên, một chiếc xe thắng con ngựa béo lạ thường đi vào sân (chỉ có người chủ cối xay bột mới có thể có ngựa béo như thế). Ngồi trong xe là một nông dân mập mạp, mặc chiếc armiak mới, có bộ râu cằm nhiều màu. "A, Vaxili Đmitơrits" - Kapitôn gọi to qua cửa sổ "mời ông vào chơi"..."ông chủ cối xay bột ở Lưbôpsinxki" - Anh ta nói nhỏ với tôi. Người nông dân thở ậm ạch, trèo ra khỏi xe, đi vào văn phòng anh y sĩ, đưa mắt tìm ảnh thánh và làm dấu chữ thập. "Thế nào, Vaxili Đmitơrits, có gì mới lạ không? Có lẽ ông không được khỏe lắm thì phải: mặt nom kém sắc". "Đúng đấy, Kapitôn Timôfêits ạ, trong người tôi nó làm sao ấy. Mới đây, tôi mua một cỗ thớt cối xay ở thành phố, tôi cho lên xe chở về nhà, và tôi cố chuyển chúng xuống sân, có lẽ tôi đã gắng sức quá nhiều, trong bụng tôi không hiểu sao cứ ợ hơi lên, như có cái gì nứt vỡ... thế là từ hôm ấy đến nay, người cứ không khỏe. Hôm nay lại đặc biệt khó chịu" – "Hừm, - Kapitôn thốt lên và hít thuốc lá - Vậy là bệnh thoát vị trong bụng. Chứng bệnh đó xảy ra đã lâu chưa?" - "Hôm nay là ngày thứ mười rồi" - "Ngày thứ mười à?" (Anh y sĩ hít không khí qua kẽ răng và lắc đầu). Cho tôi nắn bụng ông xem nào. Ông Vaxili Đmitơrits ạ - Cuối cùng anh ta thốt lên - Tôi tiếc cho ông, ông thật là người tốt, vậy mà lại gặp chuyện không hay; ông mắc bệnh trầm trọng đấy; ở lại đây với tôi. Tôi sẽ gắng hết sức nhưng không dám bảo đảm gì hết!" - "Nguy ngập đến thế kia à?" - người chủ nhà xay ngạc nhiên, lẩm bẩm. – "Đúng thế, ông Vaxili Đmitơrits ạ, nguy đấy. Nếu ông đến tôi sớm hơn hai ngày thì không hề gì, chữa dễ như bỡn còn bây giờ thì trong bụng ông có bộ phận gì bị viêm; chưa biết chừng là hoại thư cũng nên" - "Không thể thế dược, Kapitôn Timôfeits ạ" - "Thì tôi đã bảo ông thế mà" - "Nhưng sao lại thế được!" (Y sĩ nhún vai). - "Tôi lại phải chết vì cái bệnh vớ vẩn ấy ư?'! - "Tôi không nói như vậy, nhưng ông nên ở lại đây". Người nông dân nghĩ ngợi mãi, nhìn sàn, rồi nhìn chúng tôi, gãi gáy và cầm lấy mũ. "Ông đi đâu, Vaxili Đmitơrits?" - "Đi đâu à? Bệnh tình nguy như thế thì về nhà chứ còn đi đâu nữa? Cần thu xếp công việc, nếu sự tình đã đến nước như thế" - "Ông sẽ làm hại ông đấy, Vaxili Đmitơrits ạ. Tôi cũng ngạc nhiên không hiểu sao ông còn đến được đấy. Ở lại đi" - "Không, anh bạn Kapitôn Timôfits ạ, nếu phải chết thì chết ở nhà thôi. Chứ nếu tôi chết ở đây thì có trời biết ở nhà sẽ xảy ra những chuyện gì? - "Chưa thể biết chắc là bệnh tình sẽ xoay chuyển thế nào, Vaxili Đmitơrits ạ... Cố nhiên là nguy hiểm, rất nguy hiểm, không còn phải bàn gì nữa... Chính vì thế ông nên ở lại (Người nông dân lắc đầu). "Không, Kapitôn Timôfêits ạ, tôi không ở lại đâu... nhưng anh kê cho tôi một đơn thuốc thì có" – "Chỉ riêng thuốc thôi thì không ăn thua đâu" – "Tôi đã bảo là tôi không ở lại đâu mà" - "Thôi thì tùy ông...nhưng sau đừng có trách".
Y sĩ xé một tờ giấy trong quyển sổ, kê đơn thuốc, rồi khuyên nên làm những gì. Người nông dân cầm tờ giấy, đưa cho Kapitôn đồng năm mươi cô pếch, rồi đi ra và lên xe. "Thôi, vĩnh biệt, Kapitôn Timôfêits, đừng nghĩ không tốt về tôi, và đừng quên những đứa bé mồ côi, nếu chẳng may..." – "Này, dừng lại, Vaxilit". Người nông dân chỉ lắc đầu, dùng dây cương quất ngựa và đánh xe ra khỏi sân. Tôi ra đường và nhìn theo ông ta. Đường lầy lội và nhiều ổ gà. Người chủ nhà xay cho xe đi một cách thận trọng, thong thả, khéo léo điều khiển ngựa và cúi chào những người gặp trên đường.
Sang ngày thứ tư, ông ta chết.
Nói chung, người Nga có thái độ kỳ lạ đối với cái chết của mình. Giờ đây, hình ảnh của nhiều người quen đã qua đời lại hiện lên trong ký ức tôi.
Tôi nhớ đến một người bạn cũ của tôi, anh sinh viên học hành dở dang Avênir Xôrôkôumôp, một con người tuyệt diệu, cao quí vô ngần. Tôi lại thấy khuôn mặt xanh lướt vì ốm lao của anh, mái tóc thưa màu hung nhạt của anh, nụ cười hiền lành của anh, cái nhìn phần chấn của anh, đôi tay dài của anh. Tôi nghe thấy giọng nói yếu ớt, dịu dàng của anh. Anh ở nhà một địa chủ người Đại Nga tên là Gur Kuprianhikôp, dạy hai con ông ta là Fôfa và Zêzya. Anh dạy chúng tiếng Nga, địa lý và lịch sử, kiên nhẫn chịu đựng những câu đùa khó chịu của Gur, những lời khen thô lỗ của viên quản gia, những trò tinh nghịch đểu cáng của những thằng bé độc ác. Bà chủ ngồi buồn sinh nhiễu sự, hay đòi hỏi nọ kia, anh cũng chiều theo những yêu sách đỏng đảnh của bà ta, miệng cười chua xót, song không hề phàn nàn. Nhưng tối đến, sau bữa ăn, khi đã hết mọi nhiệm vụ và công việc, anh hưởng cái thú nghỉ ngơi mới khoan khoái làm sao: anh ngồi trước cửa sổ, trầm ngâm hút ống điếu hay thèm thuồng giở những trang của một tạp chí dầy nhàu nát và nhem nhuốc mà một người thợ đo đất cũng bơ vơ cùng khổ như anh đã đem ở thành phố về. Khi ấy, bất cứ bài thơ hay thiên truyện nào cũng làm anh vui thích, các tác phẩm ấy làm anh ứa nước mắt mới dễ dàng làm sao, anh cười mới thích thú làm sao, tâm hồn trong trắng như trẻ thơ của anh chứa chan lòng yêu mến thành thực đối với mọi người, tâm hồn anh tràn ngập mối đồng tình cao quí với tất cả những gì nhân hậu và đẹp đẽ ở trên đời! Phải nói thực là anh không sắc sảo gì cho lắm; thiên nhiên không phú cho anh trí nhớ tốt hay tính chuyên cần. Ở trường đại học, anh bị coi là một trong những sinh viên kém nhất. Anh hay ngủ gật trong các giờ giảng bài; trong các kỳ thi, anh thường im lặng với vẻ trang nghiêm. Nhưng ai là người đã sáng ngời đôi mắt khi thấy bạn đạt kết quả tốt, ai là người đã sung sướng đến nghẹn thở khi thấy bạn thành công? Đấy là Avênir. Ai là người thường tin tưởng một cách mù quáng vào thiên chức cao cả của các bạn mình, ai thường tán dương họ với vẻ tự hào, thường bảo vệ họ một cách hăm hở? Ai là người không hề biết ghen tị, tự ái, ai là người hy sinh thân mình không hề tính toán, ai là người sẵn lòng phục tùng những người không đáng cởi dây giầy cho mình? Vẫn là anh, vẫn là anh thôi, Avênir tốt bụng của chúng tôi! Tôi nhớ: anh đã từ biệt bạn bè để đi làm gia sư, lòng buồn rười rượi: Những linh cảm tai ác hành hạ anh...Đúng thế, về nông thôn, anh sống thật buồn chán. Ở làng quê, chẳng có ai khiến anh phải lắng nghe một cách sùng kính, chẳng có ai khiến anh phải ngạc nhiên, chẳng có ai để mà yêu mến... Những người thảo nguyên và những địa chủ có học chỉ coi anh là một anh giáo viên quèn: có những người đối xử với anh một cách thô lỗ, những người khác thì dửng dưng. Vả chăng, anh cũng không bắc bậc làm cao, anh thường rụt rè, đỏ mặt, toát mồ hôi, ấp úng...Không khí vùng quê cũng không lấy lại được sức khỏe cho anh: anh hao mòn đi như cây nến, tội nghiệp! Thực ra, căn phòng nhỏ của anh trông ra vườn; anh đào, táo, bồ đề rắc những bông hoa nhẹ xuống bàn, xuống lọ mực và những cuốn sách của anh; trên tường có treo cái túi nhỏ bằng lụa màu thanh thiên để đựng đồng hồ, đó là món quà mà chị gia sư người Đức tốt bụng, nhạy cảm, có mái tóc xoăn màu vàng nhạt và cặp mắt xanh lơ đã tặng anh trong lúc tiễn biệt; đôi khi một người bạn cũ từ Matxcơva ghé thăm anh và làm cho anh vui sướng vì những vần thơ của người khác hay thậm chí vì thơ của chính người đó. Nhưng, sự cô độc, tình trạng nô lệ không thể chịu nổi của cái thân phận gõ đầu trẻ, sự bế tắc không lối thoát, những mùa thu và mùa đông bất tận, bệnh tật dai dẳng... khổ thân Avênia, đáng thương thay!
Tôi đến thăm Xôrôkôumôp trước khi anh mất ít lâu. Anh đã gần như không thể đi được nữa. Địa chủ Gur Kuprianhikôp không đuổi anh ra khỏi nhà, nhưng không cấp lương cho anh nữa và đã thuê một ông giáo khác dạy Ziôzia... Fôfa được lấy vào trường thiếu sinh quân. Avênir thường ngồi cạnh cửa sổ, trong một chiếc ghế bành lưng cao.
Thời tiết thật là tuyệt diệu. Bầu trời thu sáng sủa ngời lên một màu xanh tươi vui phía trên hàng cây bồ đề nâu thẫm đã trụi hết lá. Đất thấm lạnh lâu ngày bắt dầu đổ mồ hôi và tan băng giá dưới ánh mặt trời. Những tia nắng xiên xiên, hồng thắm xuyên qua lớp cỏ nhợt nhạt. Trong không khí, ta cảm thấy như có tiếng lách tách khe khẽ. Tiếng nói của những người làm vang lên rõ mồn một trong vườn. Avênir mặc chiếc áo choàng ở nhà kiểu Bukhar; chiếc khăn quàng màu lá mạ làm cho khuôn mặt gầy kinh khủng của anh có sắc xanh nhợt của xác chết. Anh hết sức vui sướng khi thấy tôi, anh đưa tay ra và vừa nói vừa bắt đầu ho. Để cho anh yên tâm, tôi ngồi lại gần anh... Trên đùi Avênir có quyển vở chép thơ của Kôntxôp, chữ viết rất nắn nót. Anh mỉm cười vỗ tay vào quyển vở.
"Đây mới là nhà thơ" - Anh nói lắp bắp, gắng nén cơn ho, và cất giọng ngâm rất khẽ:
Ấy bởi chim ưng
Cánh đà bi trói
Hay tại đường bay
Bị ngăn hết lối.
Tôi ngăn anh lại: thày thuốc cấm anh nói chuyện. Tôi biết cách làm cho anh vui lòng.
Xôrôkôumôp không bao giờ "theo dõi" khoa học - như người ta thường nói, nhưng anh tò mò muốn biết những trí tuệ vĩ đại bây giờ đã đi đến đâu. Đôi khi anh túm được một người bạn, lôi riêng ra một chỗ và bắt đầu hỏi chuyện: anh nghe, ngạc nhiên, tin từng lời người đó, rồi sau anh thường nhắc lại những lời người đó nói. Triết học Đức có sức hấp dẫn đặc biệt đối với anh. Tôi bắt đầu nói với anh về Hêghen (bạn đọc chắc cũng thấy rằng đây là chuyện đã thuộc về dĩ vãng xa xăm rồi ( [115] ). Avênir gật gù, nhướn cao lông mày, mỉm cười, thì thầm: "Tôi hiểu, tôi hiểu!...A! Hay quá! Hay quá!..." Thú thực là tính hiếu kỳ trẻ con của một người khốn khổ, bơ vơ, bị ruồng bỏ sắp chết làm tôi cảm động đến ứa nước mắt. Cần phải nói rõ rằng trái với tất cả những người mắc bệnh lao, Avênir không tự dối mình.Về bệnh tình của mình...Vậy thì thế nào? Anh không thở dài, không phiền muộn, thậm chí không lần nào ám chỉ đến tình trạng của mình...
Thu hết sức lực, anh bắt đầu nói về Matxcơva, về các bạn, về Puskin, về sân khấu, về văn học Nga; anh nhớ đến những bữa liên hoan của chúng tôi, những cuộc tranh cãi sôi nổi trong nhóm chúng tôi, anh nhắc đến bên hai ba người bạn đã mất với vẻ luyến tiếc...
- Anh nhớ Đasa chứ? - Cuối cùng, anh hỏi thêm - Một tâm hồn vàng ngọc! Một trái tim nồng nhiệt! Và cô ấy yêu tôi thắm thiết làm sao!... Bây giờ cô ấy thế nào rồi? Có lẽ cô ấy đã héo mòn, suy kiệt đi rồi, tội nghiệp cô bé.
Tôi không dám làm người ốm thất vọng. Thật vậy, anh cần gì phải biết rằng Đasa của anh bây giờ đã béo xồ ra, thường đi lại với bọn thương nhân với anh em Kônđaskôp, cô ta luôn luôn tô son điểm phấn, giọng nói chua như mẻ và hay chửi mắng.
Nhưng, nhìn khuôn mặt gầy võ của anh, tôi nghĩ xem có cách nào đưa anh ra khỏi đây không? Có lẽ vẫn còn chữa chạy được cho anh...Nhưng Avênir không để tôi nói nốt ý định của tôi...
- Không, anh ạ, cám ơn anh - Anh nói - ở đâu thì tôi cũng chết thôi. Tôi không thể sống nổi đến mùa đông đâu... Vậy thì quấy quả mọi người làm gì. Tôi đã quen với cái nhà này rồi. Thực ra thì các ông chủ ở đây...
- Họ ác lắm phải không? - Tôi tiếp lời.
- Không, không phải là ác: họ là những khúc gỗ thực sự. Tuy nhiên, tôi không thể than phiền về họ. Quanh đây còn có những người khác: ông Kaxatkin có một cô con gái có học thức, nhã nhặn, hết sức tốt...không kiêu kỳ...
Xôrôkôumôp lại ho.
- Mọi việc đều sẽ không có gì đáng ngại - Anh nghỉ một lát rồi nói tiếp - Nếu như họ cho phép tôi hút một tẩu thuốc! - Anh nháy mắt một cách ranh mãnh, nói thêm - Cám ơn Chúa, tôi sống như thế là đủ rồi, tôi đã quen biết những người tốt...
- Nhưng anh cũng nên viết thư cho người nhà chứ - Tôi ngắt lời anh.
- Viết thư cho người nhà làm gì? Giúp tôi thì họ không thể giúp được gì. Khi nào tôi chết, họ sẽ biết tin. Nhưng thôi, nói chuyện đó làm gì... Tốt hơn hết là anh hãy kể cho tôi nghe anh đã thấy gì ở nước ngoài?
Tôi bắt đầu kể. Anh nhìn như muốn nuốt lấy tôi. Đến chiều tôi đi. Mười ngày sau, tôi nhận được lá thư như sau của ông Krupianhikôp:
"Thưa ngài, Xin trân trọng báo để ngài rõ là người bạn của ngài, ông sinh viên Avênir Xôrôkôumôp, ngụ tại nhà tôi, đã từ trần ngày mồng bốn tháng này, hồi hai giờ chiều, và hôm nay, được làm lễ an táng tại nhà thờ xứ của tôi, phí tổn hoàn toàn do tôi cáng đáng. Ông Avênir yêu cầu tôi chuyển cho ngài những sách vở gửi kèm theo đây. Số tiền ông ấy còn để lại là 22 rúp rưỡi, tôi gửi cho thân quyến của ông ấy cùng với những đồ khác. Ông bạn ngài mất trong tình trạng hoàn toàn tỉnh táo, hết sức thản nhiên, không tỏ ra luyến tiếc gì, ngay cả khi gia đình chúng tôi đến vĩnh biệt ông. Vợ tôi, Klêôpatra Alêcxanđrôpna gửi lời chào ngài. Cái chết của ông bạn ngài không thể không ảnh hưởng đến thần kinh của nhà tôi; còn về phần tôi thì ơn nhờ Chúa, tôi vẫn khỏe.
Nay kính thư.
Người môn hạ trung thành của Ngài.
G.Krupianikôp
Còn nhiều dẫn chứng khác chợt đến trong óc tôi nhưng không thể kể ra hết được. Tôi chỉ xin nêu lên một số trường hợp.
Một bà lão địa chủ sắp chết, tôi cũng có mặt tại đó. Giáo sĩ bắt đầu đọc kinh cầu hồn cho bà ta, bỗng nhiên ông ta nhận thấy bà già thực sự đang từ giã cõi đời, và vội đưa cây thập ác cho bà ta. Bà già bực tức né tránh. "Việc gì phải vội, thưa Cha - Bà ta thốt lên, lưỡi đã líu lại - vẫn còn kịp...". Bà ta nằm nghiêng đầu đi, toan thọc tay xuống dưới gối, và bỗng thở hơi cuối cùng. Dưới gối có đồng một rúp: bà ta muốn trả công cho giáo sĩ về việc đọc kinh cầu hồn cho mình... Đúng, người Nga có thái độ thật kỳ lạ lúc sắp qua đời.