← Quay lại trang sách

NHỮNG NGƯỜI HÁT HAY

Thôn Kôlôtôpka nhỏ bé trước kia thuộc quyền sở hữu của một bà địa chủ mà người quanh vùng đều gọi bằng cái biệt hiệu là Xtơruganikha ( [116] ), vì bà ta tính tình táo tợn và nóng nảy (hiện giờ không còn biết tên thực bà ta là gì nữa); ngày nay thôn đó là của một người Đức ở Pêtecxbua mà tôi không rõ là ai. Thôn nằm trên sườn một quả đồi trơ trụi. Một cái khe khủng khiếp xẻ dọc quả đồi suốt từ trên xuống dưới. Khe há hốc miệng như vực thẳm, nham nhở và lở lói, lượn ngoằn ngoèo chính giữa đường thôn, và ngăn cách hai phần của hai thôn nghèo, ngăn cách còn nghiệt ngã hơn cả dòng sông (sông thì ít nhất cũng có thể bắc một chiếc cầu để đi qua được). Mấy cây thuỳ liễu khẳng khiu mọc trên sườn khe phủ cát, rụt rè men xuống phía dưới. Đáy khe khô và vàng như đồng, ở đó có những tảng đá phấn cực lớn. Cảnh chẳng có gì là vui, điều đó khỏi phải nói, ấy thế mà mọi người quanh vùng đều biết rõ con đường đến Kôlôtôpka: họ thích đến đấy và thường đến luôn.

Ngay từ đầu khe, chừng mấy bước cách chỗ khe bắt đầu bằng một kẽ nứt hẹp, có một căn nhà gỗ nhỏ, vuông vức, tách biệt với các nhà khác. Nhà lợp rạ, có ống khói, một khung cửa sổ độc nhất như một con mắt tinh tường nhìn ra khe. Vào những chiều mùa đông, khi trong nhà sáng ánh đèn, người ta nhìn thấy con mắt này từ xa qua sương giá mờ đục, và đối với nhiều người nông dân, nó nhấp nháy như một ngôi sao chỉ đường. Phía trên cửa sổ ra vào của ngôi nhà có đóng tấm ván màu xanh da trời; nhà này là một quán rượu, tên là quán "Tụ khách". Quán có bán rượu nho, có lẽ không rẻ hơn giá thông thường, nhưng người ta năng đến quán này nhiều hơn hẳn so với các quán khác cùng loại trong vùng. Duyên do là vì ông chủ quán rượu Nikôlai Ivanưts.

Nikôlai Ivanưts trước là một gã trai vóc người cân đối, tóc xoăn, nay là một người đàn ông to béo lạ thường, tóc đã hoa râm, mặt húp lên, mắt nhỏ nom vừa hiền hậu vừa ranh mãnh, trán nung núc những mỡ, chằng chịt những nếp nhăn nhỏ như sợi chỉ. Ông ta ở Kôlôtôpka đã hơn hai mươi năm -  Nikôlai Ivanưts là một người tháo vát và nhanh trí, như phần lớn những người chủ quán rượu. Tuy không đặc biệt lịch thiệp và hay nói, nhưng ông ta có tài lôi cuốn khách và giữ khách cho quán của mình: khách cảm thấy vui vẻ khi ngồi trước quầy bán hàng của ông, dưới luồng mắt điềm tĩnh và niềm nở nhưng tinh tường của ông chủ có thái độ phớt đời. Ông ta là người có lương tri; ông rất am hiểu cả lối sống của địa chủ cũng như của nông dân và tiểu thị dân. Khi khách hàng của mình gặp cảnh ngộ khó khăn, ông có thể góp với họ một lời khuyên xác đáng, nhưng vốn là người thận trọng và ích kỷ, ông thích đứng ngoài nhiều hơn, và chỉ bằng cách dùng những lời ám chỉ xa xôi, dường như tình cờ buột miệng thốt ra, ông đưa các khách hàng của mình lên con đường đúng đắn; hơn nữa, ông cũng chỉ làm như thế với những khách hàng mà ông yêu mến. Ông am hiểu tất cả những gì là quan trọng hay thú vị đối với người Nga như: ngựa, gia súc, gỗ làm nhà, gạch, bát đĩa, vải vóc, đồ da, các bài hát và các điệu vũ. Khi cửa hàng không có khách, ông thường ngồi lù lù như một bao bột trên mặt đất trước của nhà, đôi chân mảnh khảnh thu gọn dưới người, và ông trao đổi mấy lời dịu dàng với tất cả khách qua đường. Trong đời mình, ông đã được thấy nhiều điều, hàng chục người quí tộc nhỏ hay đến quán mua vôtka "tinh chất" thì nay đã qua đời,  vậy mà ông vẫn còn sống, ông biết tất cả những việc xảy ra trong vòng trăm dặm xung quanh, nhưng không bao giờ ông bép xép, thậm chí không tỏ ra rằng ông biết cả những điều mà viên cảnh sát sáng suốt nhất cũng không hề ngờ tới, ông cứ lặng thinh như không, thỉnh thoảng cất tiếng cười và khua động những chiếc cốc. Những người xung quanh kính trọng ông: viên quan tam phẩm Siêrêpêtenkô, một địa chủ có chức tước cao nhất hạt, lần nào cũng hạ cố chào ông mỗi khi đi xe qua căn nhà nhỏ của ông. Nikôlai Ivanưts là người có ảnh hưởng: ông đã bắt một tên ăn cắp ngựa nổi tiếng phải hoàn lại con ngựa mà y cuỗm ở nhà một người quen của ông; có lần, nông dân một làng bên không chịu nhận người quản lý mới, và ông đã làm cho họ biết nghe theo lẽ phải v.v... Tuy nhiên, không nên nghĩ rằng ông làm việc đó vì yêu lẽ công bằng, vì sốt sắng với những người ở gần mình: không, ông chỉ cố gắng ngăn ngừa tất cả những gì có thể phá tan sự yên ổn của ông bằng cách này hay cách khác. Nikôlai Ivanưts có vợ, có con. Vợ ông, một người đàn bà tiểu thị dân hoạt bát, mũi nhọn, mắt lanh, thời gian gần đây cũng trở nên phục phịch như chồng. Ông hoàn toàn tin cậy vợ trong tất cả mọi việc, và tay hòm chìa khoá giao cả cho vợ. Bà ta sợ những kẻ say rượu hay làm om sòm, bà ta không ưa họ: họ chẳng đem lại mối lợi gì chỉ khỏe gây ồn ào. Bà ưa những người thầm lặng, cau có nhiều hơn.

Các con Nikôlai Ivanưts còn nhỏ. Mấy đứa đầu chết cả, nhưng những đứa còn sống thì giống bố mẹ: nhìn những khuôn mặt xinh xẻo, thông minh của những đứa trẻ khỏe mạnh ấy, ta thấy vui lòng.

Vào một ngày tháng bảy nóng nực kinh người, tôi lê bước chậm chạp cùng với con chó của tôi leo lên con đường dốc dọc sườn khe Kôlôtôpka, đi về phía quán Tụ khách. Mặt trời rực lửa trên bầu trời, như điên khùng giận dữ; hơi nóng bốc ngùn ngụt; không khí đầy một thứ bụi ngột ngạt. Những con quạ lông đen lóng lánh dưới ánh mặt trời, chúng há hốc mỏ nhìn khách qua đường với vẻ ai oán, như cầu mong họ thông cảm. Chỉ riêng lũ chim sẻ là không ủ ê tí nào, chúng xù lông, càng líu ríu hăng hơn trước và đánh nhau ở các bờ rào, nhất loạt bay vù lên từ con đường cái bụi bặm, lướt đi như những đám mây xám trên các ruộng đay xanh rờn. Cơn khát giày vò tôi. Gần đây không có nước: ở Kôlôtôpka, cũng như ở nhiều làng khác trong thảo nguyên, vì không có mạch nước và giếng, nông dân vẫn uống một thứ bùn lỏng trong ao... Nhưng ai dám gọi là cái chất lỏng kinh tởm ấy là nước? Tôi muốn đến Nikôlai Ivanưts uống một cốc bia hay cốc nước kvax.

Thực tình mà nói, không có mùa nào trong năm mà Kôlôtôpka có vẻ vui tươi. Nhưng nó gợi cho ta  cảm giác buồn đặc biệt khi vầng mặt trời tháng bảy rực chói chiếu xuống những tia sáng nghiệt ngã, thiêu đốt cả những mái nhà lợp rạ màu nâu xơ xác, cả cái khe sâu này, cả cái bãi cỏ cháy xém, bụi mù với những con gà mái gày guộc, chân dài đi vẩn vơ một cách thất vọng, cả cái khung tường nhà màu xám làm bằng những thân cây hoàn diệp liễu với những lỗ hổng thay cho cửa sổ (đây là di tích của toà nhà địa chủ trước kia, bây giờ là chỗ bỏ hoang, xung quanh mọc đầy cây gai, cỏ dại và ngải), cả cái ao đen như bị thiêu cháy, mặt nước đầy lông ngỗng, bị khoanh lại trong cái bờ con đắp bằng bùn đã gần khô cứng, bên mé ao có một con đập xiêu vẹo, và cạnh đó, trên một mảnh đất bị xéo nát nhừ, tơi vụn như tro, những con cừu cái thở hồng hộc và hắt hơi liên hồi vì nắng nực, chen sát vào nhau một cách buồn rầu, và cúi đầu thật thấp với vẻ nhẫn nhịn, chán nán, dường như chờ cho cái nóng quái quỷ này sẽ qua đi. Tôi lê bước mệt mỏi tới gần nhà Nikôlai Ivanưts, và lẽ tự nhiên là tôi khiến cho bọn trẻ phải ngạc nhiên ngây ra nhìn không chớp mắt, khiến cho lũ chó tức tối sủa khản cả tiếng và sủa dữ dội đến nỗi tưởng chừng chúng phải đứt cả ruột gan, rồi sau chúng ho lấy ho để và đâm ra ngạt thở. Vừa đúng lúc ấy, trên ngưỡng cửa quán rượu bỗng xuất hiện một người đàn ông cao lớn, đầu không mũ, mặc chiếc áo khoác bằng vải len lông quăn,  thắt dải dây lưng màu xanh trễ xuống dưới bụng. Người này nom có vẻ là đầy tớ nhà địa chủ; mái tóc dầy đốm bạc chởm lên tua tủa phía trên khuôn mặt khô gầy và nhăn nheo. Y gọi một người nào không rõ, hối hả vung hai tay làm hiệu, và rõ ràng là tay vung xa quá mức y muốn. Nom biết ngay là người này đã chếnh choáng hơi men.

- Đi nào, đi đi? - Y nói lắp bắp, gắng gượng nhướn cao cặp lông mày rậm - Đi đi, Morgats, đi nào! Chán với đằng ấy, người anh em ạ, cậu cứ bò ra đường thôi, thực đấy. Không tốt, người anh em ạ Mọi người đang đợi cậu, vậy mà cậu cứ bò ra...Đi đi nào.

- Ừ, thì tôi đi, tôi đi đây - Một giọng run run vang lên và từ sau nhà, một người thấp béo, thọt chân đi ra ở phía bên phải. Anh ta mặc chiếc áo dài bằng dạ khá tươm, xỏ một ống tay. Cái mũ cao, chóp nhọn, đội sụp xuống tận lông mày khiến cho khuôn mặt tròn béo phính của anh ta có vẻ ranh mãnh, giễu cợt. Cặp mắt nhỏ màu vàng của anh ta luôn luôn đưa đẩy, nụ cười dè dặt, gượng gạo không lúc nào rời cặp môi mỏng, còn cái mũi nhọn và dài hếch về phía trước một cách xấc xược như cái cần bánh lái. - Tôi đi đây, ông anh quí hoá ạ - Anh ta vừa nói vừa khập khiễng đi về phía quán rượu - anh gọi tôi làm gì? Ai đợi tôi kia chứ?

- Gọi cậu làm gì à? - Người mặc áo khoác vải  len nói với vẻ trách móc - Cậu thật là kỳ quái, chú em Morgats ạ: người ta gọi cậu đến quán rượu, vậy mà cậu còn hỏi: để làm gì? Những người chờ cậu toàn là người tử tế cả: Iaska - Thổ Nhĩ Kỳ, Đi, đi - Barin và tay chủ thầu ở Jizđra. Iaska với tay chủ thầu đánh cuộc: họ đặt cuộc một số rượu bia, xem ai thắng ai, nghĩa là ai hát hay hơn... cậu hiểu chứ?

- Iaska sẽ hát à? - Người tên là Morgats hăm hở thốt lên - Anh không nói dối chứ, Ôbanđui?

- Tôi không nói dối - Ôbanđui đáp với vẻ tự hào - Còn cậu nói không nghĩ thì có! Iaska đặt cuộc thì chắc chắn là hắn sẽ hát chứ còn gì nữa, cậu thật là con bò, cậu là thằng xỏ lá, Morgats ạ!

- Nào thì ta đi, chàng ngốc ạ. - Morgats nói.

- Này, ít ra cậu cũng hôn tôi đi chứ, anh bạn thân thiết của tôi - Ôbanđui dang rộng hai tay nói lắp bắp.

- Ái chà, anh chàng kỳ quái dở trò nhõng nhẹo - Mogarts đáp với vẻ khinh bỉ, dùng khuỷu tay đẩy người kia, và cả hai khom mình, vào khung cửa thấp.

Cuộc chuyện trò mà tôi nghe được kích thích sự tò mò của tôi. Đã nhiều lần tôi nghe nói về Iaska - Thổ Nhĩ Kỳ, một người nổi tiếng hát hay nhất vùng, vậy mà bỗng nhiên tôi có dịp được nghe anh ta thi tài với một nghệ sĩ điêu luyện khác. Tôi rảo bước đi vào quán.

Trong số bạn đọc của tôi, chắc không mấy người đã có dịp ghé vào các quán rượu nông thôn.

Nhưng cánh đi săn chúng tôi thì còn có chỗ nào mà không tạt vào. Sự bài trí trong các quán đó rất đơn giản. Thông thường, nó gồm một phòng ngoài tối tăm và căn buồng sáng ngăn đôi bằng một tấm vách, không một khách hàng nào có quyền bước vào phía sau tấm vách ấy. Vách có đục một lỗ hổng dài rộng ở phía trên cái bàn gỗ sồi. Cái bàn ấy, hay quầy hàng, là nơi bán rượu nho. Những chai rượu lớn đủ các cỡ có gắn xi để trên giá, ngay trước lỗ hổng. Ở phần trước của căn buồng, nơi dành cho khách, có những chiếc ghế dài, hai ba chiếc thùng rỗng và một cái bàn gắn sát vào góc nhà. Các quán rượu nông thôn phần lớn là khá tối tăm, và trên các bức tường bằng gỗ súc, hầu như không bao giờ bạn thấy những bức tranh rẻ tiền tô màu rực rỡ, loại tranh mà không mấy nhà nông dân không có.

Khi tôi vào quán Tụ khách, ở đấy đã có một đám khá đông.

Như thường lệ, Nikôlai Ivanưts đứng sau quầy hàng, che lấp gần hết chiều rộng của cái lỗ hổng. Ông ta mặc chiếc áo sơ mi vải hoa sặc sỡ, nụ cười uể oải hiện rõ trên đôi má mũm mĩm, bàn tay béo trắng của ông rót hai cốc rượu nho cho những người bạn mới đến: Morgats và Ôbanđui. Phía sau ông, trong góc nhà cạnh của, người ta nhìn thấy bà vợ  mắt sắc của ông. Đứng giữa phòng là Iaska - Thổ Nhĩ Kỳ, một chàng trai hai mươi ba tuổi, mặc chiếc kafơtan bằng vải Nam Kinh màu xanh. Anh ta có vẻ là một người thợ ở xưởng và nom hiên ngang, tuy có lẽ anh không thể hãnh diện là mình có sức khỏe tuyệt vời. Đôi má hõm, cặp mắt to màu xám đượm vẻ bồn chồn, cái mũi thẳng với hai lỗ mũi thanh tú luôn luôn động đậy, vầng trán hớt trắng trẻo với mái tóc xoăn màu hung sáng, chải lật về phía sau, cặp môi dày, nhưng đẹp và giàu sức biểu hiện - toàn bộ khuôn mặt anh cho thấy rõ anh là một người dễ xúc cảm và nhiệt tình. Anh đang hồi hộp: mắt chớp chớp, hơi thở không đều, hai tay anh run lên như trong cơn sốt, mà đúng là anh lên cơn sốt thật, cơn sốt lo âu, bất ngờ, quen thuộc với tất cả những người phải nói hay hát trước đám đông.

Đứng sau anh là một người đàn ông trạc bốn mươi tuổi, vai rộng, gò má rộng, trán thấp, mắt nhỏ như mắt người Tata, mũi ngắn và tẹt, cằm vuông, tóc đen, bóng, cứng như rễ tre. Khuôn mặt màu đồng hun loáng ánh chì, đặc biệt là cặp môi tái nhợt của ông ta có một vẻ biểu hiện mà ta có thể nói là hung dữ, nếu như nó không đượm vẻ trầm tư như thế. Ông ta hầu như không động đậy và chỉ đưa mắt nhìn quanh một cách chậm chạp, như con bò đực bị đóng ách. Ông ta mặc chiếc áo dài cũ sờn có cúc đồng trơn nhẵn; chiếc khăn quàng lụa cũ kỹ màu  đen quấn quanh cổ ông ta. Tên ông ta là Điki - Barin ( [117] ). Ngồi ngay trước mặt ông ta, trên chiếc ghế dài kê dưới những ảnh thánh là người đua tài với Iaska: tay chủ thầu Jizđra. Đấy là một người đàn ông mập mạp, tầm vóc vừa phải, khoảng ba mươi tuổi, mặt rỗ, tóc xoăn, mũi tẹt và hếch, cặp mắt nhỏ màu hạt dẻ nom linh lợi, râu cằm lưa thưa.

Anh ta chốc chốc lại đưa mắt nhìn quanh một cách linh hoạt, hai tay lót xuống dưới đùi, chân đi đôi ủng sang trọng có đường viền đu đưa một cách vô tư lự và đập nhịp xuống sàn. Anh ta mặc chiếc armiăc mới, mỏng mảnh bằng dạ xám, có cổ bằng vải bông, bên trong nổi bật lên phần trên của chiếc sơ mi đỏ thắm cài khít quanh cổ. Ở góc đối diện, phía bên phải cửa, một gã mujich ngồi bên bàn, gã mặc áo xvitka chật ních, cũ kỹ, vai rách một miếng lớn. Ánh sáng mặt trời tuôn thành luồng vàng nhạt qua các ô kính bụi bậm của hai chiếc cửa sổ nhỏ, và dường như không thể thắng nổi bóng tối quen thuộc của căn phòng: mọi vật đều được chiếu sáng một cách dè sẻn, dường như chỉ nhận được những vệt sáng. Vì thế trong phòng gần như mát lạnh, và cảm giác nóng bức, ngột ngạt lập tức biến mất khi tôi vừa bước qua ngưỡng cửa, thật chẳng khác nào như tôi trút được một gánh nặng.

Việc tôi đến đây thoạt đầu có làm cho mấy người khách của Nicôlai Ivanưts hơi bối rối, điều đó tôi có thể nhận thấy được. Nhưng, thấy ông ta chào tôi như một người quen, họ yên tâm và không để ý đến tôi nữa. Tôi hỏi mua bia và ngồi vào một góc phòng, cạnh người đàn ông mặc chiếc xvitka rách. - Nào, làm luôn đi chứ? - Ôbanđui bỗng kêu ré lên sau khi đã nốc một hơi hết cạn cốc rượu nho, và hai tay vung lên một cách kỳ lạ điểm nhịp cho câu tán thán của mình, có lẽ không có những cái vung tay ấy thì không thể thốt lên được một lời nào. - Còn chờ gì nữa? Bắt đầu đi thôi. Thế nào? Iasa?

- Bắt đầu đi, bắt đầu đi thôi. - Nikôlai Ivanưts tán thành.

- Chúng ta bắt đầu đi - Người chủ thầu lên tiếng, giọng thản nhiên và mỉm một nụ cười tự tin - Tôi thì sẵn sàng.

- Cả tôi cũng sẵn sàng - Iakôp lên tiếng với vẻ xúc động.

- Thế thì bắt đầu đi, anh em, bắt đầu đi - Morgats nói, giọng the thé.

Mặc dù ý muốn chung là như vậy, nhưng vẫn không ai chịu đi bước đầu. Người chủ thầu thậm chí không nhổm dậy khỏi ghế. Mọi người đều chờ đợi một cái gì.

- Bắt đầu đi! – Điki - Barin nói gắt lên, vẻ cáu kỉnh.

Iakôp giật mình. Người chủ thầu đứng lên, siết lại dây lưng cho chặt và hắng giọng.

- Ai phải ra mắt trước? - Anh ta hỏi Điki - Barin, giọng hơi lạc đi, còn Điki - Barin vẫn đứng không nhúc nhích ở giữa phòng, dang rộng đôi chân to béo và thọc đôi tay hộ pháp vào túi quần ống rộng, ngập gần đến khuỷu.

- Anh chứ còn ai, anh chủ thầu ạ - Ôbanđui nói lắp bắp - Anh phải bắt đầu trước, người anh em ạ.

Điki-Barin lườm Ôbanđui. Ôbanđui phát ra một tiếng kêu khe khẽ như tiếng chuột chít, ngập ngừng, nhìn vào một chỗ nào trên trần, nhún vai và im bặt.

Rút thăm đi thôi - Điki-Barin nói rành từng tiếng - và đặt một vò rượu bia ( [118] ) làm giải thưởng lên quầy. Nikôlai Ivanưts cúi xuống, vừa thở phì phò vừa bê vò bia dưới sàn lên và đặt lên bàn.

Điki-barin nhìn Iakôp và giục: "Nào!"

Iakôp lục trong túi, lấy một đồng xu và dùng răng đánh dấu đồng tiền. Người chủ thầu lấy ở dưới vạt áo ra một cái túi da mới, thong thả cởi dây, đổ vô số đồng tiền lẻ ra tay, chọn một đồng xu mới. Ôbanđui cầm lấy cái mũ cát két cũ nát của y, vành lưỡi trai đã gẫy và bong một quãng, và lật ngửa mũ ra, Iakôp ném đồng xu của mình vào, người chủ thầu cũng thế.

Cậu chọn đi - Điki-Barin nói với Morgats.

Morats nhếch mép cười thoả mãn, hai tay bưng cái mũ và bắt đầu lắc.

Trong phòng phút chốc trở nên lặng phắc như tờ: những đồng xu va vào nhau, phát ra tiếng loảng xoảng khe khẽ. Tôi chăm chú nhìn quanh: mọi gương mặt đều lộ vẻ chờ đợi căng thẳng; Điki -  Barin nheo nheo mắt; thậm chí người nông dân mặc áo xvitka rách ngồi cạnh tôi cũng vươn cổ nhìn với vẻ tò mò. Morgats cho tay vào mũ và lấy được đồng xu của người chủ thầu: mọi người thở phào. Iakôp đỏ mặt, còn người chủ thầu đưa tay vuốt tóc.

- Tôi đã bảo anh mà - Ôbanđui reo lên - Tôi đã bảo mà.

- Thôi, thôi, đừng có rít lên như diều hâu nữa - Điki-barin nói với vẻ khinh miệt - Bắt đầu đi - ông ta hất đầu về phía viên chủ thầu, nói tiếp.

- Tôi phải hát bài gì đây? - Người chủ thầu hỏi, anh ta bắt đầu xúc động.

-  Bài gì cũng được. - Morgats đáp - Nhớ được bài nào hát bài ấy.

- Cố nhiên là tuỳ anh thôi - Nikôlai Ivanưts nói thêm và thong thả khoanh tay trước ngực - Không có gì bó buộc anh cả. Anh muốn hát bài gì cũng được, miễn là hát cho hay; rồi sau đó chúng tôi sẽ lấy công tâm mà xét.

- Tất nhiên là cứ công tâm mà xét - Ôbanđui phụ hoạ và liếm rìa cái cốc rượu đã uống hết.

- Cho tôi lấy giọng tí đã chứ, anh em ạ - Viên chủ thầu nói, đồng thời những ngón tay cứ lần theo cái cổ áo kafơtan.

- Này thôi, đừng có làm mất thời giờ, bắt đầu đi! - Điki-barin quyết định và cúi mặt xuống.

Người chủ thầu nghĩ ngợi giây lát, lắc đầu một cái và tiến về phía trước. Iakôp nhìn chằm chằm vào anh ta...

Nhưng trước khi bắt đầu miêu tả chính cuộc đua tài, tôi thấy cần nói mấy lời về mỗi nhân vật trong truyện ngắn của tôi. Khi tôi gặp họ ở quán Tụ khách, tôi đã biết lai lịch một số người trong bọn họ; số còn lại thì sau này tôi đã dò hỏi được.

Chúng ta bắt đầu từ Ôbanđui. Tên thật của người này là Evgraf Ivanôp. Nhưng khắp các vùng quanh đây, ai cũng gọi y là Ôbanđui, và chính y cũng tự xưng bằng cái biệt hiệu như thế: nó hợp với  y vô cùng. Thật vậy, không còn có biệt hiệu nào thích hợp hơn với những đặc điểm bề ngoài xoàng xĩnh, lúc nào cũng có vẻ lo lắng của y. Đấy là một gã đầy tớ độc thân, quen thói chơi bời, đã bị chính các ông chủ của mình ruồng bỏ từ lâu và không được giao một việc gì, không được một xu tiền lương, nhưng đã khéo xoay xở nên ngày nào cũng được đánh chén nhờ tiền của người khác! Y có vô số người quen vẫn cho y uống trà uống rượu, tuy chính họ cũng không biết vì sao lại đãi đằng y như thế, bởi vì trong lúc tiếp xúc với mọi người, bản thân y chẳng những không có gì lí thú, mà trái lại, y còn làm mọi người chán ngấy vì những lời ba hoa vô duyên, vì cái tính dai như đỉa vì những cử động hấp tấp và tiếng cười sằng sặc thiếu tự nhiên của y. Y không biết hát, không biết vũ. Cả đời y chưa từng nói được câu nào phải lẽ, chứ đừng nói đến những lời khôn ngoan: lúc nào cũng "huyên thuyên xích đế" và nói dối như cuội: đúng là Ôbanđui ( [119] ). Ấy thế mà trong vòng bốn chục dặm xung quanh, không một bữa chén nào thiếu được cái dáng hình cao kều của y lẩn quẩn trong đám khách khứa: người ta đã quen với y và chịu đựng sự có mặt của y như chịu đựng một điều tệ hại không tránh khỏi.  Thực ra họ tỏ thái độ coi thường y, nhưng chỉ có Điki-Barin dẹp được những cơn hứng kỳ cục của y.

Morgats không giống Ôbanđui chút nào. Cái tên Morgats cũng thích hợp với anh ta, tuy anh ta không chợp mắt nhiều hơn người khác ( [120] ). Ai cũng biết là dân Nga rất tài đặt biệt hiệu. Mặc dù tôi đã cố gắng dò hỏi kỹ hơn về quá khứ của con người này, đối với tôi, và chắc là đối với nhiều người khác cũng thế, trong đời anh ta vẫn còn những vệt tối hay nói theo ngôn ngữ sách vở, là vẫn còn những chỗ bị bóng tối mờ mịt che phủ. Tôi chỉ biết được rằng trước kia anh ta đánh xe ngựa cho một bà quí tộc già không con, anh ta đã bỏ trốn, đem theo ba con ngựa được giao phó cho anh. Anh ta mất tích suốt một năm ròng, và chắc chắn là qua thực tế, khi thấy rõ những cái bất lợi và khốn đốn của đời sống lang bạt, anh ta tự ý quay về, nhưng đã thọt chân. Anh ta gieo mình xuống dưới chân bà chủ, và mấy năm sau đó, bằng hạnh kiểm gương mẫu, anh đã xóa nhòa được tội lỗi của mình, dần dần lấy được lòng yêu thương của bà chủ, cuối cùng, được bà chủ hoàn toàn tin cậy, cho lên làm quản lý! Sau khi bà chủ mất, không biết bằng cách nào, anh ta được trở lại làm người tự do, đăng ký vào tầng lớp tiểu thị dân, thuê vườn dưa của những người quanh vùng, làm ăn phát tài và bây giờ sống sung túc. Đấy là một người giàu kinh nghiệm, tinh khôn, không độc ác cũng không nhân đức, mà biết tuỳ thời thì đúng hơn. Đây là tay lọc lõi, biết người và biết lợi dụng người khác.

Anh ta vừa thận trọng vừa mau trí như con cáo; anh ta lắm điều như một bà già và không bao giờ buột miệng nói ra một điều không nên nói, nhưng lại có thể khiến bất cứ người nào phải nói ra những điều họ muốn giấu. Tuy nhiên, anh ta không làm ra vẻ ngốc nghếch như một số kẻ ranh mãnh cùng loại thường vẫn làm, vả chăng, anh ta mà giả tảng thì cũng khó: tôi chưa từng thấy cặp mắt nào thấu suốt và thông minh hơn đôi mắt nhỏ xíu, tinh quái của anh ta. Đôi mắt ấy không bao giờ nhìn một cách bình thường, mà bao giờ cũng dò xét, liếc trộm. Đôi khi, hàng mấy tuần liền, Morgats suy tính về một việc gì, có lẽ là một việc bình thường thôi, thế rồi, bỗng nhiên anh ta lao vào một việc hết sức táo bạo; tưởng đâu như anh ta tất phải vỡ đầu vì việc đó... nhưng té ra, mọi việc đều thành công, mọi việc đều trôi chảy. Anh ta sung sướng và tin vào hạnh phúc của mình tin vào điềm triệu. Nói chung, anh ta rất mê tín. Người ta không yêu Morgats, vì anh ta cũng chẳng thiết gì đến ai, nhưng người ta trọng nể anh. Gia đình anh ta chỉ gồm có một đứa con trai mà anh ta  yêu quí như hòn ngọc trên tay, và thằng bé này, được một ông bố như thế giáo dục, chắc là sẽ đi xa trên con đường danh lợi. "Thằng bé Morgatsônôc giống bố như đúc" - ngay cả bây giờ, trong những buổi chiều hè, khi ngồi trên các bệ đất quanh nhà và chuyện trò với nhau, các ông già vẫn thì thầm nói về thằng bé như vậy; tất cả mọi người đều hiểu câu đó nghĩa là thế nào, và không ai thêm một lời nào nữa.

Còn về Iakôp - Thổ Nhĩ Kỳ và người chủ thầu thì không có gì phải nói nhiều. Iakôp được gọi là người Thổ Như Kỳ, bởi vì quả thực anh là con một người đàn bà Thổ Nhĩ Kỳ bị bắt làm tù binh. Về tâm hồn, anh là một nghệ sĩ với nghĩa đầy đủ của từ đó, còn về chức danh thì anh là thợ xeo ở xưởng làm giấy của một thương nhân. Còn về người chủ thầu thì thú thực là tôi vẫn không biết rõ số phận của anh ta. Tôi có cảm giác rằng anh ta là một người tiểu thị dân tháo vát và hăng hái. Nhưng riêng Điki-Barin thì nên nói kỹ hơn một chút.

Ấn tượng đầu tiên mà hình dạng bên ngoài của người này gợi cho ta là cảm giác về một sức mạnh thô bạo khó chịu, nhưng không thể cưỡng lại nổi. Hình dáng ông ta nom thô kệch, "hình nộm rơm" - như người ta thường nói, nhưng nó toát ra một vẻ khỏe mạnh vô song. Điều kỳ lạ là cái hình thù thân gấu của ông ta vẫn không kém vẻ duyên dáng độc đáo, có lẽ cái duyên dáng ấy bắt nguồn từ niềm tin trọn vẹn, điềm tĩnh vào sức mạnh của bản thân mình. Thoạt nhìn, khó quyết đoán ngay là gã Hecquyn này thuộc đẳng cấp nào. Ông ta không giống một gia nhân nhà địa chủ, không giống tiểu thị dân, cũng không giống viên ký lục về hưu đã lâm vào cảnh nghèo túng, cũng không giống một địa chủ quí tộc nhỏ đã phá sản, lại cũng không giống tay luyện chó săn hoặc một kẻ hay gây gổ. Ông ta chỉ là chính bản thân mình thôi. Chẳng ai biết ông ta từ đâu lưu lạc tới vùng chúng tôi. Nghe đồn rằng ông ta xuất thân từ tầng lớp ôtnôvôrets và trước kia đã từng làm việc nhà nước ở một nơi nào không rõ. Nhưng không ai biết đích xác về việc đó cả! Vả chăng, hỏi ai thì hỏi, chứ đừng hòng moi được gì ở ông ta; chưa có người nào ít nói và quàu quạu như người này. Cũng không ai nói rõ được ông ta sống bằng cách gì. Ông ta không làm nghề gì cả, không hay đến thăm ai, không làm quen với ai, nhưng vẫn có tiền. Thực ra, ông ta không nhiều tiền lắm, nhưng vẫn có tiền. Ông ta cư xử không hẳn là khiêm tốn - ở ông ta, nói chung không có gì là khiêm tốn - bảo ông ta trầm lặng thì đúng hơn. Ông ta sống như thể không nhận thấy ai ở xung quanh và tuyệt nhiên không cần đến ai. Điki-Barin là biệt hiệu người ta đặt cho ông ta, tên thật ông ta là Pêrêvlexôp, ông ta có ảnh hưởng lớn đến trong  toàn vùng. Người ta nghe theo ông ta không một chút ngần ngừ và hoàn toàn tự nguyện, tuy ông ta chẳng những không có chút quyền hành nào để ra lệnh cho bất cứ ai, mà thậm chí bản thân ông ta cũng không mảy may tỏ ra có tham vọng muốn bắt những người mà ông ta tình cờ gặp gỡ phải theo ý ông ta. Ông ta nói, thế là người ta phục tùng; sức mạnh bao giờ cũng chiến thắng. Ông ta hầu như không uống rượu, không giao thiệp với phụ nữ và mê ca hát. Con người đó chứa đựng nhiều điều bí ẩn. Tôi có cảm giác rằng trong con người này có những sức mạnh lớn lao đang bực tức nằm yên, dường như biết rằng một khi chúng trỗi dậy, vuột ra ngoài thì chúng tất sẽ phá hủy cả bản thân chúng cũng như tất cả những gì mà chúng chạm đến. Và tôi thực lầm to nếu như tôi cho rằng trong con người này chưa từng xảy ra một vụ nổ như thế, nếu như tôi không nảy ra ý nghĩ rằng chính nhờ được kinh nghiệm dạy dỗ và sau một phen hút chết, mà bây giờ ông ta tự kiềm chế mình hết sức ngặt. Điều mà tôi đặc biệt ngạc nhiên là ở ông ta có sự pha trộn tính hung dữ bẩm sinh, tự nhiên với đức tính cao quí cũng có nguồn gốc bẩm sinh như thế: sự pha trộn như thế tôi chưa từng thấy ở một người nào khác.

Vậy là, tay chủ thầu bước lên phía trước, lim dim mắt và cất lên giọng kim cao vút. Giọng anh  ta khá dễ ưa và ngọt ngào, tuy có hơi rè. Anh ta hát và lượn giọng như quất một con quay, không ngừng lướt từ giọng cao xuống giọng thấp và không ngừng trở lại những nốt cao mà anh duy trì và ngân dài với vẻ cố gắng đặc biệt, đôi khi chợt ngừng bặt, rồi đột nhiên bắt vào điệp khúc một cách dồn dập, đầy khí phách ngang tàng. Những chỗ lướt của anh đôi khi khá mạnh bạo, đôi khi khá ngộ nghĩnh. Người am hiểu sẽ hết sức thích thú về những nét lướt ấy, và người Đức thì hẳn là sẽ phẫn nộ. Đấy là ténore di grazia, ténor léger ( [121] ) của Nga. Anh ta hát một bài vũ khúc vui, lời ca của nó - theo chỗ tôi nghe được qua vô số những nét hoa mĩ, những phụ âm và những tiếng cảm thán chen thêm vào - là như sau:

Tuổi đời đương độ đào non

Nào ta xới mảnh đất con ta trồng

Đỏ tươi một sắc hoa hồng.

Anh ta hát; mọi người nghe hết sức chăm chú.

Hẳn là anh ta cảm thấy mình đang biểu diễn trước những người am hiểu, cho nên, đúng là anh cố gắng cật lực, như người ta thường nói. Quả thực là ở vùng chúng tôi, người ta rất sành hát, chả thế mà làng Xerghiepxkôê nằm bên đường cái lớn Orion đã nổi tiếng khắp nước Nga về những điệu hát đặc biệt du dương, êm tai của mình. Người chủ thầu hát một lúc lâu mà vẫn chưa gây được cảm xúc thật mạnh cho người nghe; anh thiếu sự ủng hộ của một ban đồng ca. Cuối cùng, ở một chỗ lướt đặc biệt thành công đến nỗi chính Điki-Barin cũng phải mỉm cười, Ôbanđui không nén được và reo lên vì thích thú. Mọi người đều hồi hộp. Ôbanđui  và Morgats bắt đầu lẩm nhẩm hát theo, ngân nga, thỉnh thoảng lại kêu lên: "Giỏi lắm!... Mạnh bạo lên, chú bợm ạ!... Mạnh bạo lên, cứ thế, đồ quỉ ạ!

Cố nữa lên! Hăng nữa lên, chú mày thật là đồ chó má đấy!... Ngươi sẽ tự giết chết linh hồn ngươi, Hêrôt ạ ( [122] )..." Nikôlai Ivanưts đứng bên quầy hàng đầu cũng lắc lư bên nọ sang bên kia, tỏ ý tán thưởng. Ôbanđui  cuối cùng còn giậm chân, nhún nhảy và đưa đẩy vai, còn Iakôp thì mắt rực lên như hai hòn than, toàn thân run lên như tàu lá và mỉm cười như mê dại. Riêng có Điki-Barin là không đổi nét mặt và vẫn như trước, không dời khỏi chỗ.

Luồng mắt của ông ta xoáy chặt vào viên chủ thầu, xem ra có phần dịu dàng hơn, tuy cặp môi vẫn biểu lộ vẻ khinh miệt. Phấn chấn vì thấy mọi người đều tỏ ra thích thú, viên chủ thầu bốc lên như cơn lốc, anh ta bắt đầu biểu diễn những nét lướt nhanh tuyệt hay, tắc lưỡi và đánh trống lưỡi giòn vang, khiến cho yết hầu nhảy lên nhảy xuống hết sức mãnh liệt, đến nỗi cuối cùng, khi đã mệt lả, mặt tái mét, người đẫm mồ hôi, anh ta ngửa cả toàn thân ra sau, thốt lên một tiếng kêu cuối cùng như một hơi thở tắt lịm dần đi, để đáp lại anh, một tiếng reo duy nhất, đồng thanh của mọi người bùng lên như một tiếng nổ dữ dội. Ôbanđui đâm bổ đến ôm lấy cổ anh và riết chặt đôi tay dài xương xẩu, làm anh ta đến nghẹt thở. Khuôn mặt mơ màng của Nikôlai Ivanưts đỏ ửng lên, ông dường như trẻ ra, Iakôp hét lên như người điên: "Cừ lắm! Cừ lắm!", ngay cả gã mujich mặc áo xvitka rách ngồi gần tôi cũng không nén được và đấm tay xuống bàn, kêu lên: "A ha! Hay, quỉ bắt ngươi đi, hay lắm!" và nhổ bọt đánh toẹt một cái.

- Chà, người anh em ạ, cậu làm mọi người thú quá! - Ôbanđui  hét lên, vẫn không buông tha viên chủ thầu đã kiệt sức ra khỏi hai cánh tay mình - Cậu làm mọi người thích thú, đúng thế! Cậu đã thắng cuộc, người anh em ạ, cậu thắng cuộc! Xin chúc mừng: vò rượu về tay cậu! Iaska thua cậu ta...Tôi nói là: thua xa... Cậu hãy tin tôi! (Và y lại ôm ghì viên chủ thầu vào ngực mình).

- Buông anh ta ra, buông ra, rõ hay lôi thôi... - Morgats nói với vẻ bực tức. - Để anh ta ngồi xuống ghế đi, anh cũng thấy là anh ấy mệt rồi đấy... Anh thật là ngớ ngẩn, người anh em ạ, đúng là ngớ ngẩn! Sao cứ dính lấy người ta như cái là chổi tắm ấy!( [123] )

- Nào, để anh ấy ngồi đi, còn tôi sẽ uống mừng sức khỏe anh ấy. - Ôbanđui  nói và tới gần quầy bán rượu - Anh chịu tiền, anh bạn nhé. - Ôbanđui  nói thêm với viên chủ thầu.

Gã chủ thầu gật đầu, ngồi xuống ghế dài, lấy chiếc khăn tay đệm trong mũ ra và bắt đầu lau mặt; còn Ôbanđui  nốc hết cốc rượu với vẻ thèm thuồng, vội vã, và theo thói quen của những người nghiện nặng, y khà một tiếng, vẻ mặt trở nên lo ngại, buồn rầu.

- Hát khá lắm, người anh em ạ, khá lắm - Nikôlai Ivanưts nói với vẻ âu yếm - Bây giờ đến lượt cậu, Iasa ạ: cẩn thận đấy, đừng e sợ. Chúng tôi sẽ xét xem ai hơn, chúng tôi sẽ xét... Còn anh chủ thầu hát hay đấy, thực quả là hay.

- Rư-ứt hay! - Vợ Nikôlai Ivanưts nói và mỉm cười nhìn Iakôp.

- Ha, khớ lắm! - Người ngồi gần tôi khe khẽ phụ họa theo.

- A, tên Zavôrôten Pôlêkha ( [124] ) - Ôbanđui  bỗng gào toáng lên, đến gần người mặc áo rách vai, thọc ngón tay vào chỗ áo rách, rồi nhảy cỡn lên và cất tiếng cười hô hố - Pôlêkha - Pôlêkha! Ha, bađê paniai ( [125] ), Zavôrôten! Đến đây làm gì, gã Zavôrôten kia! - Y gào lên qua tiếng cười. Người nông dân đáng thương bối rối, thậm chí toan đứng lên và bỏ đi cho mau, nhưng cái giọng sang sảng như tiếng chuông đồng của Điki-Barin bỗng vang lên":

- Mi là giống vật gì mà không để cho ai được yên thân như vậy! - ông ta nghiến răng, thốt lên.

- Tôi có làm gì đâu - Ôbanđui  lắp bắp - Tôi có làm gì đâu... đùa tí thôi.

- Thôi được, thế thì im mồm! - Điki-Barin nói - Iakôp, bắt đầu đi.

Iakôp đưa tay lên sờ cuống họng.

- Ông anh ạ, ờ... làm sao... hừm...Thực tình là tôi không biết...ờ...

- Đủ rồi, đừng rụt rè. Phải biết xấu hổ chứ! Sao cứ loanh quanh thế? Hãy hát đúng như lệnh Chúa phán truyền cho anh.

Và Điki-Barin cúi nhìn xuống, chờ đợi.

Iakôp im lặng một lát, đưa mắt nhìn quanh và đưa một tay lên che mặt. Mọi con mắt tự dưng đều đổ dồn vào Iakôp; đặc biệt là trên mặt người chủ thầu, vẻ tự tin quen thuộc và vẻ hân hoan vì thành công vẫn không che lấp được vẻ lo ngại vô tình để lộ ra. Anh ta tựa lưng vào tường, lại đệm hai tay xuống dưới đùi, nhưng không đu đưa hai chân nữa.

Khi Iakôp bỏ tay che mặt ra thì thấy mặt anh tái nhợt như mặt xác chết! Cặp mắt anh để lọt ra những ánh long lanh dưới hàng mi khép lại. Anh thở một hơi dài và cất tiếng hát... âm thanh đầu tiên do giọng hát của anh phát ra nghe yếu ớt và không đều, dường như không phải từ lồng ngực anh thoát ra, mà từ một nơi xa xăm nào vọng tới, ngẫu nhiên bay lọt vào phòng. Cái âm thanh ngân vang, rung động ấy có tác động kỳ lạ đến tất cả chúng tôi. Chúng tôi nhìn nhau, còn vợ Nikôlai Ivanưts thì vươn thẳng người lên. Tiếp sau âm thanh ấy, đến một âm thanh rắn rỏi hơn và ngân dài hơn, nhưng rõ ràng vẫn còn rung động như sợi dây đàn đột nhiên bật ra tiếng dưới một ngón tay mạnh mẽ và đang dao động lần cuối cùng, đồng  thời lịm đi nhanh chóng. Rồi đến âm thanh thứ ba, và bài ca sầu muộn dần dần trở nên sôi nổi và tràn rộng ra như dòng nước. "Trên đồng ruộng đâu phải chỉ có một dải đường mòn" - anh ta hát, và tất cả chúng tôi đều cảm thấy vừa vui sướng vừa rờn rợn. Thú thực là không mấy khi tôi được nghe một giọng hát như vậy; nó hơi có vẻ mệt mỏi đồng thời nghe như tiếng chuông rè. Thậm chí lúc đầu nó đượm vẻ ốm yếu. Nhưng nó vẫn chứa đựng cả niềm say mê sâu sắc, thực sự, cả tuổi trẻ, cả sức mạnh, cả sự ngọt ngào, cả nỗi đau xót vừa vô tư lự và hấp dẫn, vừa buồn rầu... Tâm hồn Nga chân thực, nồng cháy lên tiếng và thở đều đều trong giọng hát đó, làm xao xuyến lòng người, rung động những sợi dây tâm tình của trái tim Nga. Bài ca lớn mãi lên, tràn rộng ra. Iakôp rõ ràng là đã say mê: anh không còn rụt rè nữa, anh hiến dâng tất cả cho hạnh phúc của mình. Giọng anh không run nữa, nó rung lên, nhưng đó là sự rung động nội tâm, khó nhận thấy của một niềm say mê xuyên vào tâm hồn người nghe như một mũi tên, và giọng hát ấy không ngừng trở nên vững mạnh, cứng cỏi hơn và mở rộng ra. Tôi nhớ, có lần vào buổi chiều, lúc nước triều rút, trên bờ cát phẳng của làn biển sôi động ầm ĩ, đầy vẻ hăm dọa ở phía xa, tôi nhìn thấy một con hải âu lớn: nó đậu yên không nhúc nhích, phơi  bộ ngực óng mượt như lụa ra trước ánh hoàng hôn đỏ thắm, chỉ thỉnh thoảng xoè đôi cánh dài chào đón mặt biển quen thuộc, chào đón vầng mặt trời đỏ tía đã sà xuống thấp: tôi nhớ đến con hải âu ấy khi nghe Iakôp hát. Anh hát, quên bẵng người ganh tài với mình, quên bẵng cả chúng tôi, nhưng có lẽ sự đồng cảm say mê, thầm lặng của chúng tôi đã cổ vũ anh như những ngọn sóng nâng đỡ một người bơi lội hăng hái. Anh hát, và mỗi âm thanh trong giọng hát của anh đều toát ra một cái gì thân thuộc và rộng lớn vô biên, dường như thảo nguyên quen thuộc trải ra trước thắt ta, chạy hút về phương trời xa xăm. Tôi cảm thấy máu cuộn lên trong tim và lệ trào lên mắt: những tiếng nức nở ngấm ngầm, cố nén lại khiến tôi sửng sốt... Tôi ngoảnh lại nhìn: vợ người chủ quán rượu tì ngực vào cửa sổ mà khóc. Iakôp liếc nhanh bà ta, và tiếng hát của anh càng âm vang hơn, ngọt ngào hơn trước. Nikôlai Ivanưts nhìn xuống đất.

Morgats quay mặt đi. Ôbanđui  cảm động đến sững sờ đứng há hốc miệng ra một cách ngớ ngẩn. Gã mujich khẽ nức nở trong góc nhà, vừa lắc đầu vừa lẩm nhẩm cái gì với vẻ chua xót. Trên khuôn mặt sắt của Điki-Barin, một giọt lệ nặng nề chậm chạp trào ra dưới cặp lông mày nhíu lại. Người chủ thầu đưa nắm đấm siết chặt lên gần trán và  không động đậy...Tôi không biết cái trạng thái ưu sầu của tất cả chúng tôi được giải quyết như thế nào, nếu Iakôp không chấm dứt bài ca một cách bất ngờ bằng một âm thanh cao vút, thanh nhẹ lạ thường - dường như anh chợt đứt giọng. Chẳng ai thốt lên một tiếng kêu, thậm chí không ai nhúc nhích. Mọi người dường như chờ đợi xem anh còn hát nữa không. Nhưng anh mở mắt, dường như ngạc nhiên vì sự im lặng của chúng tôi, anh nhìn khắp xung quanh với vẻ dò hỏi, và thấy rằng thắng lợi đã về anh...

- Iasa - Điki-Barin thốt lên, đặt tay lên vai anh, và im lặng.

Tất cả chúng tôi đứng ngẩn ra như ngây dại.

Viên chủ thầu nhẹ nhàng đứng lên và tới gần Iakôp. "Anh... giải thưởng về anh... anh thắng cuộc" - Cuối cùng, anh ta thốt lên với vẻ khó nhọc và đâm nhào ra khỏi phòng.

Cử chỉ mau lẹ, quả quyết của viên chủ thầu dường như đã giải cơn mê cho chúng tôi: mọi người đột nhiên cất tiếng xôn xao, vui sướng. Ôbanđui  nhẩy cẫng lên, nói lắp bắp, vung hai tay như cánh quạt cối xay. Morgats khập khiễng tới gần Iakôp và hôn anh. Nikôlai Ivanưts đứng lên và trịnh trọng tuyên bố rằng riêng ông góp thêm một vò bia nữa vào phần thưởng. Điki-Barin cười hiền hậu, cái  cười mà tôi không thể ngờ được là sẽ bắt gặp trên gương mặt ông ta! Gã mujich tầm thường ngồi trong xó của mình, đưa cả hai ống tay áo lên lau mắt, má, mũi, cằm, chốc chốc lại lẩm bẩm: "Ái chà, hay quá, thực là hay, nói có Chúa trời chứng giám, nếu như vậy mà còn chưa phải là hay thì tôi chỉ là đồ chó đẻ", còn vợ Nikôlai Ivanưts mặt đỏ bừng, đứng phắt dậy và đi ra. Iakôp vui mừng về thắng lợi của mình như một đứa trẻ. Cả khuôn mặt anh biến đổi hẳn. Đặc biệt đôi mắt ngời lên niềm hạnh phúc. Người ta lôi anh tới quầy rượu. Anh gọi gã mujich nước mắt chan hoà đến với mình, bảo con trai ông chủ quán chạy đi gọi viên chủ thầu, nhưng thằng bé tìm không thấy, và tiệc rượu bắt đầu. "Cậu sẽ còn hát cho bọn mình nghe, cậu sẽ hát cho bọn mình nghe, cậu sẽ hát cho bọn mình nghe đến chiều tối." - Ôbađui giơ cả hai tay lên, nhắc đi nhắc lại.

Tôi nhìn Iakôp một lần nữa và đi ra. Tôi không muốn ở lại, tôi sợ làm hỏng mất cái ấn tượng đã thu được. Nhưng khí nóng vẫn như trước, nung nấu thiu người. Nó như một lớp dày đặc nặng nề trùm lên mặt đất. Trên bầu trời xanh thẫm, qua làn bụi cực mỏng gần như đen, mắt tưởng chừng nhìn thấy những đốm lửa nhỏ, sáng rực đang quay cuồng. Mọi vật đều im tiếng. Cảnh lặng tờ ấy của  thiên nhiên mệt lả chứa đựng một vẻ gì thất vọng, bải hoải. Tôi lần đến nhà chứa cỏ và nằm lên đống cỏ mới cắt, nhưng đã gần khô. Tôi nằm mãi mà không chợp mắt được, bên tai tôi cứ văng vẳng cái giọng hát có sức cuốn hút không thể cưỡng lại nổi của Iakôp... Cuối cùng, cái nóng và sự mệt mỏi đã chiến thắng, và tôi ngủ say như chết. Khi tôi thức giấc, trời đã đổ tối. Xung quanh, cỏ bề bộn, bốc mùi hăng nồng và đã ẩm hơn. Qua những thanh sào mỏng mảnh của cái mái đã tốc gần hết, tôi thấy những ngôi sao nhỏ sáng mờ mờ, nhấp nháy. Tôi ra ngoài. Hoàng hôn đã qua từ lâu, nhưng ở chân trời, vẫn còn một vệt trắng khó nhận thấy. Trong không khí lúc chiều còn nóng như thiêu, ta vẫn cảm thấy khí nóng qua hơi mát ban đêm, và lồng ngực vẫn thèm khát luống hơi mát lạnh. Không có gió, cũng không có cả mây. Khắp bầu trời chỗ nào cũng quang đãng, tối nhưng trong suốt, nhấp nháy hằng hà sa số những ngôi sao để ý lắm mới thấy rõ, ánh đèn thấp thoáng trong làng. Từ cái quán rượu đèn thắp ráng rực cách đấy không xa, những tiếng hát lộn xộn nghe không ra điệu gì vang đến bên tai tôi, trong đó dường như tôi nhận ra tiếng Iakôp. Tiếng cười cuồng loạn chốc chốc lại bùng ra như tiếng nổ.

Tôi tới gần cửa sổ và áp mặt vào kính. Tôi thấy một cảnh tượng không vui, tuy nhộn nhạo và sinh động:  tất cả đều say, tất cả, từ Iakôp trở đi. Ngực phanh trần, anh ta ngồi trên chiếc ghế dài, và cất giọng khàn khàn hát một bài vũ khúc nhảm nhí, tay uể oải bật những sợi dây đàn ghi ta. Mái tóc ướt rũ xuống từng mảng phía trên khuôn mặt đã tái nhợt đi nom đến kinh khủng. Ở giữa quán rượu, Ôbanđui  đã hoàn toàn "được tháo khoán" và đã bỏ áo kafơtan, đang vũ một điệu trước mặt gã mujich mặc áo armiăk xám, điệu vũ của anh ta chốc chốc lại chen thêm những bước nhảy cỡn lên. Đến lượt anh chàng mujich cũng gắng gượng giậm mạnh đôi chân đã bủn rủn và lê chân đi, mỉm cười ngớ ngẩn dưới bộ râu bù xù, thỉnh thoảng lại vung một tay lên như muốn nói: "Muốn ra sao thì ra!". Không còn gì có thể buồn cười hơn khuôn mặt anh ta. Mặc dù anh ta đã cố nhướn cao lông mày, đôi mi trĩu nặng vẫn không chịu nhích lên, mà cứ nằm đè lên đôi mắt bị che lấp gần hết, đục ngầu, nhưng hết sức dịu ngọt. Anh ta ở trong trạng thái dễ thương của một kẻ đã quá chén mà bất cứ người nào đi qua, nhìn vào mặt anh ta cũng sẽ nói: "Đẹp mặt, người anh em ạ, rõ thật là đẹp mặt!". Morgats mặt đỏ như tôm luộc, phình rộng hai lỗ mũi, thỉnh thoảng lại cười châm chọc trong góc nhà. Riêng có Nikôlai Ivanưts, đúng là ông chủ quán rượu thực sự vẫn giữ vẻ điềm nhiên như trước. Trong phòng  có thêm nhiều người mới đến. Nhưng tôi không thấy Điki-Barin ở đó.

Tôi quay đi và rảo bước xuống đồi, rời khỏi Kôlôtôpka. Dưới chân đồi là đồng bằng trải rộng. Sương mù buổi tối cuộn lên như sóng, tràn ngập khắp nơi, khiến cho đồng bằng dường như càng bao la hơn và như hòa với bầu trời đã tối lại. Tôi đã sải dài bước trên con đường dốc chạy dọc bờ khe thì ở một chốn xa xăm nào trong cánh đồng vang lên giọng nói lanh lảnh của một thằng bé: "Antơrôpka! Antơrôpka-a-a!..." - nó gào, giọng đầy nước mắt, vẻ thất vọng nhưng chưa chịu thôi, và kéo rất dài vần cuối cùng.

Nó im tiếng giây lát rồi lại bắt đầu gào. Giọng nó vang vang trong bầu không khí im lìm, mơ ngủ chập chờn. Nó đã gào tên Antơrôpka ít nhất là ba chục lần thì bỗng nhiên, từ đầu đối diện của bãi đất hoang, như từ thế giới bên kia, có tiếng đáp lại rất khó nghe rõ: - Gì đới-ớ-ới!

Tiếng gào của thằng bé lập tức lại vang lên, vừa có vẻ dữ tợn, vừa có vẻ vui sướng: - Lại đây, đồ ma rừng!

- Để làm gì-ì-ì!

- Bố muốn nện cho mày một trận! - Cái giọng thứ nhất vội vã gào lên.

Giọng thứ hai không đáp lại nữa, và thằng bé lại bắt đầu gọi Antơrôpka. Tiếng gọi của nó mỗi lúc một thưa và yếu đi vẫn còn vang đến tai tôi khi trời đã tối hẳn và khi tôi đã đi men theo bìa rừng bao quanh làng tôi, cách Kôlôtôpka chừng bốn dặm...

"Antơrôpka-a-at" - tiếng gọi ấy như còn văng vẳng trong không trung đầy những hình bóng của ban đêm.