LỄ THÂN-CANH TỊCH-ĐIỀN -
Lễ thân-canh tịch-điền là lễ vua làm phép cày ruộng nay đã đến ngày.
Thói nầy đã có bày tự thuở xưa lâu rồi, cho đến ngày con cháu dòng Oukakaritz trị vì thiên hạ.
Mỗi năm hễ đến rầm tháng chín, thì có rao cho bá-tánh vạn-gia biết mà sắm sữa cuộc lễ ấy.
Cách xa thành và đền vua thì co sắm sẵn một khoảnh đất đã quét tước làm cỏ sạch sẻ và xung quanh có rào và cậm nhiều cờ xí.
Khoảnh đất ấy kêu là Ruộng cấm (cấm-địa) nhơn-dân tại xứ Ca-duy-la-việt ai ai cũng phải kính. Khoảnh đất ấy bề ngang 8.000 thước, bề dài 20.000 thước.
Có sắm sẵn 800 cái cày sấp hàng chực đó rồi đặng tới giờ có cày đất thạnh mậu Thích-ca, và cũng có 800 cặp bò, lựa bò tốt nhứt hạng trong nước, đem đến gát cày.
Bảy trăm chín mười chín cái cày có chui bịt bằng bạc, sừng bò cũng bịt bạc vậy.
Còn lại một cái thứ 800, chui bịt bằng vàng, cặp bò lông trắng phau hơn tuyết trên đời, trán có bịt vàng chạm, cổ có đeo chuỗi trân-châu, sừng lại bịt vàng sáng lòa rực rỡ, hai bên hông có thoa son đỏ là dấu mầu nhiệm của các thiền-sư. Cày nầy là cày-ngự để cho vua xứ Ca-duy-la-việt cầm.
Hừng đông kèn trong đền thổi lớn vang dầy, nghe lịnh, thì bá-tánh rùng rùng tụ lại tại ruộng-cấm. Tam quân mang chỉnh y, cầm khí giới theo hầu vua rất tề chỉnh. Có chư thiền-sư theo đó tụng kinh van vái, hoàng-thân quốc-thích, cung-phi mỷ-nữ, các quan, các tướng cùng là chư phu nhơn sắc phục nguy nga đẹp đẻ đã tụ nhau lại theo hầu vua đi dọc theo đàng đại-lộ, hai bên có trồng chuối tào to che yêm mát cho đến chốn cấm-địa.
Khi vua giá-lâm đó rồi, bèn bước vào cấm-địa cầm lấy chui cày mà cày một đường, kế đó các ông hoàng và các quan thượng-phu lảnh cày mà cày, tiêu thiều nhạc vỏ ca-xang nhịp trổi và nhơn dân cúi lạy vái vang.
Coi ra rất nghiêm chỉnh huy hoàng, lưỡi cày sáng giới, sừng bò có bịt vàng chói lòa rực rỡ, sắc phục của các quan thêu rồng vẻ phụng, mang vàng đeo ngọc, cả thảy theo sau lưng vua mà cầm cày xốc hơi đất phì-ốc lên nguôi ngúc tột trời xanh.
Nhơn năm nay vua Đầu-đồ-ra có dạy đem Thái-tử Siddartha (Sỉ-đạt-tha) dự lễ, khi ấy Thái-tử mới được vài tuổi, có nhờ dì là em bà Maya Tịnh-diệu săn sóc dưỡng nuôi, bà dì ấy tên là Mahaprajapati (Ma-ha-bà-ra-da-ba-ti).
Khi đến nơi họ bèn đem cái nôi Thái-tử để dưới gốc cây cấm-mộc đặng nhờ bóng che yêm mát.
Kế cuộc lễ rần rộ, thiên hạ lao xao, nên mấy bà mụ chương tòa theo hầu Thái-tử muốn áp lại gần một bên mà xem cho tường tận, bởi ấy mới bỏ Thái-tử nằm một mình dưới bóng cây cấm-mộc.
Bụt-Như-lai khi ấy thấy họ bỏ đi coi lễ hết bèn ngồi dậy, hai chơn xếp bằng mà tư tưởng suy nghĩ một cách rất sốt sắn.
Một ngày một trưa bóng ác ngã về tây, trong đám các bà mụ chương tòa ấy có một bà vùng sực nhớ lại Thái-tử, e trời đã xế chắc sao nắng cũng dọi vào nôi, bèn chạy tuốt lại cây cấm-thọ chỗ để Thái-tử nằm, khi đến nơi thì bà mụ ấy lấy làm sự lạ, sao bóng ác về tây mà bóng cây lại y như cũ, không lay động, cứ ở một nơi ấy mà che mát cho Thái-tử. Thấy phép lạ như vậy bèn chạy phi báo cho vua Đầu-đồ-ra hay. Vua bèn vội vã đến gần nơi Thái-tử rồi quì lạy mà thốt rằng: «Ớ con! Hôm nay là lần thứ hai, cha là Đầu-đồ-ra, vua xứ Ca-duy-la-việt và là cha của con, cúi đầu dưới tro bụi mà tung hô sự vinh hiển của con».
Đây cũng là một điềm tiền định số mạng Thái-tử ngày sau sẽ được thành Bụt.