BỤT ĐI TRUYỀN ĐẠO LẦN CHÓT VÀ GẦN ĐẾN GIỜ LÂM CHUNG
Khi ấy Bụt-Như-Lai hưởng thọ đã được 80 tuổi rồi biết mình bất tảo tất vãng phải vào Phi-phi-tưởng-xứ nên trong trí Ngài đã nghị định trước sẽ về đâu mà giãi thi.
Lúc nọ nhằm mùa thu đã sang, Ngài bèn từ biệt thành Rajagriha mà qua thành Wethalie do theo bờ hữu sông Gange, gặp dân của vua xứ Magadha đang lo cất thành thị thì Ngài dừng chưn tại đó mà nói cùng dân ấy rằng: «Chúng ngươi hãy hết lòng làm cho phấn chấn, vì thành nầy sau sẽ to hơn các thành to và oai thế hơn các thành oai thế».
Mà quả thật như vậy, thành nầy sau đặt tên là Patali nhiều đời là kinh-đô xứ Thiên-trúc, nay đã hư mất còn lại một làng tên là Patna ở đó.
Ngài tiên-truyền như vậy đoạn Ngài qua sông thỉnh thoảng do theo đường hướng bắc mà sang thành Wethalie vào chùa Gouthagalathala là chỗ Ngài ưa hơn hết.
Lúc Ngài đến làng kia là Belouva cách xa thành Wethalie chẳng bao làm hơi thì Ngài dạy các đồ-đệ theo hầu Ngài mà nói rằng: «Mùa nầy là mùa mưa chót ta còn ở chốn phàm-trần nầy, chúng ngươi hãy đi về, để ta một mình vào chùa Gouthagalathala đặng tưởng gẫm các phép rồi ta sẽ truyền lại cho chúng ngươi biết trong lúc ta gần lên cõi thọ mà hưởng phước tiêu diêu.
Các đồ-đệ vâng lời Ngài bèn vào chùa bỏ hoang mà tịnh dưỡng trong cả mùa mưa. Nhơn cơ hội ấy quỉ chúa-đàng Mara đến cám dỗ Ngài lần chót như vầy: Ớ Đại-bồ-tát ôi! Ớ chí-tôn chí-trọng Bụt, nay gần giờ ông vào niết-bàn thành Bụt, sao còn diên trì ở chốn phàm-trần chi vậy hả ông? Khi ông tu niệm dưới gốc cây Bồ-đề đã thành chánh quả rồi thì ông có hứa rằng: ở phàm-trần nầy cho đến ngày thiên hạ nhơn gian đã hiểu biết Chơn-Pháp đặng mà tu thân cho được thì ông mới về cõi thọ. Vốn nay thiên hạ đã rõ Chơn-Pháp rồi thì ông phải về cõi thọ, sao lại còn du dự ở chốn nầy làm chi?
Bụt-Như-Lai đã rõ thấu rằng loài người còn phải cần cho Ngài dạy dỗ nên Ngài đuổi quỉ chúa- đàng bảo đi cho rảnh.
Song khi ấy Ngài tuyệt sự sống trong trí Ngài đặng dồn mình vào Phi-phi-tưởng-xứ.
Khi mùa thu đã lập thì Ngài dạy Át-năn-đà đi nhóm các sãi ở gần chung quanh thành Wethalie đến cho Ngài dạy việc. Khi các sãi tề-tựu đủ mặt thì Ngài ngồi giữa đồ-đệ mà nói rằng: «Ớ các đồ-đệ rất yêu dấu, chẳng còn bao lâu nữa ta sẽ vĩnh biệt bây đặng về nơi đã dọn mà hưởng phước tiêu diêu. Chúng ngươi còn ở lại thì phải lo giữ các phép mà truyền đạo cho thiên hạ, thay thế cho ta mà cứ làm tới hoài».
Ngài nói rồi bèn lấy bình-bát mang vào vai đặng đi hành khất lần chốt trong thành Wethalie.
Bận trở về gần ra khỏi cửa thành Ngài dừng chưn tại một đám đất trồng đầy những xoài, dây mặt lại xem thành Wethalie là thành đã hết lòng nghe Ngài giảng dạy và hay vui lòng bố thí, là chỗ Ngài đã dụ được nhiều đồ-đệ rất trung tín. Song trong trí Ngài đã tiên tri rằng chẳng khỏi ba thu thành Wethalie danh vọng tự do mà rất tin tưởng lễ đạo nầy sẽ bị Adzatathat (vua sát phụ) là vua xứ Magadha phá hủy tan nát. Ngài xem thành trung tín lần sau chót ấy một cách rất buồn bã vô cùng, mà không nói ra cho đồ-đệ hay, đoạn Ngài cứ việc thỉnh thoảng đi tới, do theo đường làng Pawa lần theo chơn núi to mà qua thành Koutheinaron (Câu-thi-na).
Khi Ngài đến làng Pawa nhằm ngày hai mươi chín thì có một người bổn-đạo tên là Tsonda đến mời Ngài dùng bữa, đồ ăn vỉ vèo dọn cách kỹ lưỡng, có thần thánh trộn hương vị vào đó mà dâng cho Bụt-Như-Lai. Ngài ăn lấy có, vì cả thân thể đã tê mê gần đến giờ giãi thi đặng vào Phi-phi-lưỡng-xứ.
Ngài nghỉ tại nhà Tsonda vài giờ rồi từ giã ra đi qua thành Koutheinaron. Ngài đã đi chậm mà lại vì yếu quá phải ngã qua ngã lại, trong thân thể đau đớn như dần. Theo Bụt-Pháp thì bắt câu là ai, hễ muốn vào cõi thọ mà hưởng phước tiêu diêu thì giờ lâm chung phải chịu đau đớn. Nhiều khi Ngài phải dừng chưn ngồi theo lề đường mà nghỉ mệt.
Khi đến gần rạch kia thấy một ông hoàng dòng Malla dẫn 500 cổ xe lội ngang qua, thì Ngài dạy Át-năn-đà lấy bình-bát xuống rạch mút nước cho Ngài uống đã khát. Át-năn-đà bạch quá rằng: «Vì bị quân lính mới lội ngang nên nước đã đụt không nên mút uống». Ngài bèn quở rằng: «Sao mi cải lời ta. Cứ nghe theo ta mà đi mút».
Khi Át-năn-đà vưng lịnh xuống rạch mút nước đem lên thì thấy nước trong như mắt mèo, như thủy-tinh, lại thơm tho như rượu thiên-hương.
Ông hoàng Malla mắng tin rằng có Bụt-Như-Lai ở bên nầy rạch, bèn qua mà kính lạy Ngài cùng xin Ngài giảng dạy.
Đây ta không lẽ đi thuật cho hết các lời của Ngài giảng dạy cho ông hoàng ấy nghe, ta nói tắt một điều là khi trước ông hoàng nầy không hề chịu tin đạo Bụt, nay mới nghe Ngài dạy đạo thì ông ấy liền theo đạo, bèn dạy quân lấy ra hai vóc vải dệt bằng kim tuyến mà dâng cho Ngài. Ngài bèn thọ lãnh của lễ, lấy vải choàn vào mình thì cả quí thể Ngài chói lòa rực rỡ như mặt trời, tinh khiết như bông huệ, ánh sáng như ngọc kim cang.
Kế đó Ngài ra đi qua thành Koutheinaron. Gần đến cửa thành, Ngài kêu Át-năn-đà mà dạy rằng: «Ớ con, vậy trước mé rừng kia con có thấy hai cây cao lớn đó chăng? Con hãy đến giữa hai gốc cây ấy dọn chỗ cho ta nghỉ, phải dây đầu năm trở về hướng bắc.
Át-năn-đà vưng lịnh. Ngài theo sau đến nơi nằm xuống chính giữa hai cây Sala ấy, nghiêng phía hữu qua một bên, chưn tả gát tréo lên chưn hữu.
Ngài nằm rồi, tuy hai cây Sala ấy chưa phải nhằm mùa mà liền trổ nụ nở hoa tràn trề. Còn các cây chung quanh rừng cũng đều đua nhau tái vượng. Năm thứ bông huệ trạc hà sa số nở đua. Núi Hymawonta ánh hào quang sáng tốt như móng trên trời. Chư tiên, chư thần thánh hối hả vãi hoa có mùi thiên hương xuống đầy chỗ Ngài đang nằm mà giãi thi.
Trên các từng trời có tiêu thiều nhạc vỏ cả xang: Trời, đất, thánh thần, chư Bụt-tổ, chư Bồ-tát cùng loài người hiệp lực mà làm cho giờ lâm chung Ngài rất nên vinh diệu.
Bụt-Như-Lai bèn đòi hết chư đồ-đệ đến gần mà dạy lẻ đạo, chỉ rõ mấy đoạn còn mơ hồ, ai hỏi chi đều trả lời phân minh và cũng khuyên lơn các kẻ còn yếu đức tin. Át-năn-đà vì mủi lòng nín khóc bức rức trong mình phải chạy ra ngoài, nên không nghe được các lời sau chót. Chạy ra ngoài ôm then cửa đền vua Malla mà thiên hàng soái lụy, than van rất nên thê thảm như vầy: «Tôn-sư tôi chết rồi! Còn ai đâu mà dạy tôi các lẻ đạo, còn ai đâu đặng dìu dắc tôi trong đường Chơn-Pháp. Thôi còn gì là tôi, Tôn-sư tôi chết rồi thì tôi hết ai mà thần tỉnh mộ khan sớm dâng nước rửa mặt, trưa lo rửa chưn cho Ngài, cùng là sắm sanh tràng-hạt bình bát cho Ngài đi phổ-khuyến!»
.
Bụt-Như-Lai dòm lại chẳng thấy Át-năn-đà bèn dạy đòi vào. Ngài kêu lại đứng gần bên mà dạy rằng: «Át-năn-đà! Con khóc lóc mà làm chi. Vậy chớ lắm khi ta không có giảng cho con nghe rằng ở đời nầy hễ hữu hình tất hữu hoại sao? Rằng ta phải về cõi thọ là chỗ đã dọn sẵn cho ta, mà ít lâu sau con cũng lên đó?»
Ấy là lời chót của Bụt Chí-tôn. Từ đó đến cùng trí Ngài đã lìa thể bay ngang qua các từng Bụt-tổ, bay tuốt lên hoài, đến từng vô danh, tiêu diêu khoái lạc không chi sánh được; và khi tại hướng tây ngôi sao chót hết đã lặn thì Ngài đã vào Phi-phi-tưởng-xứ (Pananirwana).
Địa chấn làm rúng cả thế gian, lôi hoanh rền khắp các từng trời, thì loài người và các Bụt-tổ biết rằng Bụt-Như-Lai bế cuộc luân hồi các kiếp của Ngài lại, bèn mọp lạy mà than khóc.