NHÀ GIƯỜNG
Mỗi nhà giường là một khoảng không gian.
Chiều ngang thước hai.
Chiều dọc thước tám.
Chiều cao một thước.
Dưới sàn là một tấm phản gỗ.
Chung quanh là hư không.
Khoảng không gian ấy là nơi ba người sinh sống.
Ba người ấy nói tiếng Việt Nam, Ở Việt Nam tới không muốn trở về Việt Nam dù người ta bảo về, muốn đi nước Tây phương dù người ta không cho đi.
Hong Kong chứa 60.000 người như thế.
Cứ trung bình ba người một nhà giường, như thế có tất cả 20.000 nhà giường.
Nếu xếp tất cả các nhà giường theo một hàng ngang sẽ có một dãy nhà giường dài 24 km, trẻ con đi bộ 24 tiếng đồng hồ mới hết.
Nếu chồng các nhà giường theo chiều cao, sẽ có một tháp cao 20.000 mét, cao gần gấp ba đỉnh Everest.
Đất Hong Kong không đủ rộng để xây nhà cao hay nhà dài quá khổ, nên người ta có cách chồng và xếp nhà giường vừa gọn gàng, vừa thực tiễn, vừa đỡ tốn không gian, vừa đỡ tốn thời gian.
Thế là cứ ba nhà giường chồng lên nhau theo chiều cao. Và ba tầng này xếp cạnh ba tầng kia theo chiều ngang thành một dãy dài ba mươi sáu thước.
Tổng cộng mỗi dãy ba tầng như thế có 90 chiếc nhà giường.
Đó mới chỉ giải quyết được khoảng không gian hai chiều, cao và ngang.
Để tận dụng chiều không gian thứ ba, người ta xếp dãy ba tầng này đối diện với dãy ba tầng kia. Dãy này cách dãy kia một khoảng đi lại rộng hai thước.
Chung quanh hai dãy đối diện này người ta dựng tường tôn chống gió máy tạt ngang. Trên đầu phủ mái tôn chống nắng mưa đổ xuống.
Hai đầu có cửa tôn ra vào. Cửa có thể khóa chặt từ bên ngoài hay từ bên trong. Khi cần, người mình khóa bên trong để ngăn không cho người ta đột nhập vào buồng bắt người. Khi cần, người ta có thể khóa chặt bên ngoài không cho người mình đi ra.
Đó gọi là một ‘’buồng’’.
Như thế, mỗi buồng có khoảng 180 nhà giường, và trung bình chứa được 540 người.
Nhiều buồng họp thành một trại. Buồng này cách buồng kia một khoảng sân xi-măng sần xùi. Sần xùi và bên dưới lớp xi-măng trắng bệch ấy là cốt sắt, bêtông. Không ai có thể đào nền xi măng chui ra ngoài trốn trại như tù binh Đức Quốc X. thời Thế ChiếnThứ Hai.
Ở góc này có vài dãy nhà vệ sinh. Mỗi dãy nhà vệ sinh có bảy, tám phòng vệ sinh cỏn con. Bệ tiêu là hai bậc chân hai bên cái lỗ tròn đen ngòm. Một ngày mới xả nước ba bốn lần, nên phân người này chồng lên phân người kia. Bầy giòi từ đó sinh ra. Mùi hôi nồng nặc bám chặt vào quần áo thịt da từ đó xông ra.
Nhà vệ sinh không có cửa sổ, chỉ có khe hở trên trần.Trần treo lủng lẳng một ngọn đèn néon trắng không đủ sáng cho từng phòng vệ sinh cỏn con khi trời tối. Ban ngày, ánh sáng từ cửa chính hắt vào, từ khe không khí tỏa xuống. Ánh sáng mỏng manh hơn mùi hôi.
Ở góc khác là khu tắm giặt. Khu giặt và rửa gồm một loạt những vòi nước gắn vào khoảng tường dài. Nước đổ xuống rãnh, rãnh đưa nước ra cống, nước tuôn xuống biển hoặc vào hồ lọc sạch để dùng lại.
Một dãy phòng tắm kín đáo, người ngoài không nhòm vào được, nhưng người bên trong phòng tắm nhòm thấy rõ nhau trần truồng. Bên trong không có vách ngăn, chỉ có những vòi nước từ trên cao nhòm xuống. Nam nữ riêng biệt. Nhưng nữ dậy thì nhòm thấy nữ trung niên, nam thành niên nhòm thấy nam bô lão, mẹ nhòm thấy con gái, cha nhòm thấy con trai, trần như nhộng.
Chung quanh tất cả những thứ này là hàng rào thép bao quanh. Từng tấm thép hàn vào nhau kiên cố, ngăn người ta phá rào và ngăn luôn ánh mắt nhòm qua rào để thấy được bên ngoài.
Biển mênh mông thường nằm ngay bên ngoài hàng rào thép. Hàng rào không chọc thủng được không gian, nên trên đầu hàng rào hai ba lớp kẽm gai tròn xé rách từng khoảng trời xanh, xé rách luôn hy vọng leo rào vượt trại.
Liên hệ duy nhất giữa thế giới vật chất bên ngoài và thế giới bên trong là một vài đường dây cáp kéo điện từ các cột điện cao thế bên ngoài vào các buồng. Buồng có bóng điện néon dài và một vài cái quạt máy.
Ấy là hạ tầng cơ sở.
Và vài con số.
Trong khoảng không gian nhà giường ấy, sự sống diễn ra. Người ta ăn, uống, thay quần áo, uống thuốc, ngáy ngủ, làm tình, cắt móng tay, ngồi nói chuyện bà hàng xóm, viết thư, đọc sách, học bài, cất giữ gia tài, khóc lóc nhớ nhà, cười đùa, đồn nhảm, mơ mộng, hẹn hò, ngoại tình, gãi hông, tự tử, chồng đánh vợ, vợ chửi chồng, vợ đánh chồng, chồng chửi vợ, giết người, thăm nhau, chúc tết, đánh bài, cúng vái, đọc kinh, vẽ, viết văn, làm thơ, hát cải lương, dậy con, nghe nhạc,nghe đài, chết, cho con bú...
Cứ nhân những chuyện ăn, uống, thay quần áo...ấy lên 540 lần, sẽ hình dung được sự sống trong một buồng. Cứ nhân lên 3.000, 4.000 lần, sẽ hình dung ra sự sống một trại.
Trộn những sinh hoạt bình thường này với thời gian xuân hạ thu đông, nắng mưa bão gió, cộng thêm hỉ nộ ái ố ai dục lạc của người mình và người ta, thêm chút mắm muối chính sách đóng mở, lọc vào loại ra, cứng mềm, tự nguyện cưỡng bức, địa phương quốc tế, sẽ có được bức tranh muôn mặt về kiếp người ở một mảnh đất trên địa cầu này.