KHOẢNG KHÔNG
Mỗi sáng anh dậy lúc năm giờ. Lúc vợ và con vẫn còn ngủ, và trại còn im lặng, chỉ thỉnh thoảng mới có vài người thức dậy đi tắm sớm.
Anh cầm bình tích ra khỏi buồng đi lấy ít nước sôi. Về đến phản, anh rót nước, pha một ấm trà nhỏ. Rồi anh ngồi một mình, rót từng tí trà xanh ra cái tách bằng sành gẫy quai.
Anh uống từ từ từng ngụm và ngồi trầm ngâm như vậy cả tiếng đồng hồ, đôi mắt nhòm vào khoảng không trước mặt. Anh ngồi nghe tiếng gió, tiếng trở mình của ai đó trong buồng, tiếng dép ai đi lẹp xẹp ngoài sân vắng lặng.
Không ai làm phiền anh. Không có tiếng loa sắt bắt anh suy nghĩ. Không có tiếng kêu réo của vợ của con. Bạn bè cũng không đến chuyện gẫu. Anh bảo những giây phút như vậy là lúc anh hạnh phúc nhất trong ngày.
Không ai biết những lúc như vậy anh sống trong quá khứ, tương lai hay hiện tại. Mà thực ra thì đối với anh, thời gian không hiện hữu. Dĩ nhiên là như mọi người, anh có những ước mơ.Ước mơ của anh là kết quả của mười bảy năm trời không có được khoảng không gian của riêng mình.
Khoảng không gian đó là chút không khí trong chiếc vỏ trứng cho chú gà con hít thở. Nhưng cũng không hẳn đó chỉ là kết quả của mười bảy năm ngộp thở, mà anh đã mơ có được khoảng không như vậy từ thuở ấu thơ.
Trong đầu anh vẫn còn hình ảnh một thằng bé con năm mười hai tuổi, một hôm trước cửa nhà, nó đứng một chân, dựa lưng vào tường, chân kia bắt chéo chĩa mũi giầy xuống đất. Trên đầu nó đội cái mũ lệch, hai tay nó thọc túi quần.Thằng bé con bị ông anh đánh một trận nên thân vì cái tội đứng một chân tay thọc vô túi quần ấy.
Trận đòn nát thịt, mà nó vẫn không khóc.Thằng bé con lại có tật viết chữ ‘’d’’ theo kiểu số ‘’6’’ngược. Và nó lại bị ông anh nghiêm khắc khẻ roi mây vào tay bật máu.
Trong mớ kỷ niệm hỗn độn tuổi thơ anh, anh vẫn còn nhớ những bức tranh anh vẽ nguệch ngoạc trên bất cứ miếng giấy nào có khoảng trống. Những bức tranh vẽ bằng than hoặc bằng bút chì trên giấy xi-măng vàng, trên giấy vở, trên vỏ bao thuốc lá, trên giấy thùng,hoặc trên mặt bàn, mặt tường.
Thằng bé con thực ra không hề lớn, dù tuổi đời nó già đi.
Nó vẫn đứng thọc tay vào túi quần, chân chéo, trong khi những người chung quanh cúi mặt xuống mà đi.
Nó vẫn cứ đội mũ lệch chứ không thể đội chiếc mũ chụp lên đầu đám đông.
Chẳng lạ gì khi cường quyền lùng bắt anh. Và anh chạy, như con thú bỏ rừng mùa hạn.
Rồi khi những nơi trú ngụ ở bến xe miền đông SàiGòn hay ở nhà người quen Đà Nẵng, ở vùng kinh tế mới Dakmil hay ở rẫy rừng Long Khánh không còn khoảng trống nữa, tự nhiên anh nhớ ngay tới khoảng trống trên trần nhà mẹ mình.
Anh đã về ở trên trần nhà mẹ mình nhiều lần trong suốt mười bảy năm không nhà đó.
Anh cũng bảo rằng nếu sau này được quyền lựa chọn, thì sau khi lo xong cho vợ con, anh sẽ xách gói đi tìm cái đẹp, đúng hơn là đi sống cho cái đẹp.
Có người nói với anh rằng anh không nên vì cái đẹp mà quên cái thiện và trách nhiệm của mình. Anh trả lời rằng dù sao thì đó cũng mới chỉ là giấc mơ thôi.
Giờ thì giấc mơ của anh được khơi dậy vào những buổi sáng sớm, lúc uống trà một mình. Anh biết khi đã có ý tưởng thì không sớm thì muộn anh cũng phải đương đầu với hậu quả của những ý tưởng đó.
Biết, nhưng anh chấp nhận, vì anh không thể nào giết chết giấc mơ. Cũng như không thể nào không dành cho mình ít giờ yên tịnh buổi sáng.
Hôm trước có người kể rằng một hôm hai vợ chồng anh cãi nhau chí tử. Anh gọi vợ bằng ‘’mày’’ và xưng‘’tao’’.
Người đứng ngoài kẻ về phe vợ anh, kẻ thương anh. Không bên nào sai. Cả hai đều biết mình đang xâm lấn khoảng không gian của nhau, mà không tài nào ngưng được.
Nhưng rồi đâu lại vào đó. Những buổi sáng ngồi im, anh thường ôn lại chuyện vừa xảy ra hôm qua, thường thì anh hối hận đã không kềm được cơn nóng giận của mình.
Nhưng cái dằn vặt chỉ tới thoáng qua, vì những khi im lặng sáng sớm, anh thường nhòm mọi sự bằng cái nhòm khác, như cái nhòm của người đạo sĩ trên cao nhòm xuống xóm làng tí hon chân núi, thấy mọi sự đều phù phiếm, đều cỏn con, đến tội nghiệp.
Khổ một điều, buổi sáng sớm nào rồi cũng qua. Khoảng sáu giờ rưỡi thì vợ con anh đã thức dậy, cùng với những người chung quanh. Loa sắt bắt đầu khạc ra những tiếng động chát chúa và toàn trại bừng sống dậy với đủ mọi nhịp điệu.
Cõi riêng của anh phải khép lại. Và anh lại bị cuốn vào cuộc sống với muôn ngàn những động tác máy móc hàng ngày, dù là cái máy móc cần thiết để tồn tại.
Anh bảo tự do đối với anh chính là một khoảng không gian của riêng mình. Mất tự do hay có tự do đồng nghĩa với chuyện khoảng không gian ấy bị tước đoạt đi hay vẫn được giữ gìn.
Rắc rối nằm ngay ở đó vì mỗi ngày anh chỉ được ngồi im chút vậy thôi, thời giờ còn lại anh giống hệt bao nhiêu người khác, cả bên ngoài lẫn bên trong.
Bên trong có khác chăng là ở chỗ anh vẫn có ước muốn tìm được một khoảng không, ở chỗ anh biết mình muốn gì.
Cuộc sống tập thể, tự nó đã tước đoạt của cá nhân anh cõi riêng tư, tức là tước đoạt tự do.
Tự do bỗng trở thành cụ thể như miếng nước trà uống một mình buổi sớm.
Có lẽ cũng nên nói thêm về cuộc cãi vã hôm trước giữa anh và vợ. Vợ chồng anh có ba đứa con. Một đứa sinh ở trại, hai đứa khác sinh ở Việt Nam.
Anh thương con, chị cũng thương con, không ai hơn ai.
Anh muốn các con được thảnh thơi, vui chơi và giải trí theo ý chúng, miễn chúng học hành chăm chỉ. Anh không bao giờ nặng lời hoặc đánh con vì anh bảo hoàn cảnh trong trại như tù, không có mấy niềm vui cho trẻ nhỏ, chỗ ở lại chật chội, chỉ có khoảng không gian rộng một chút xíu là sân trại, nên cứ để chúng ra sân chơi với bạn bè đồng cảnh.
Chị lại muốn các con ở nhà nhiều hơn, vì vui chơi khó đi đôi với học hành, chúng nó còn quá trẻ để tự chế. Chị cho rằng tù thì tù, vẫn phải tập cho chúng biết kỷ luật, bằng không chúng sẽ lờn mặt và hư hỏng theo đám bạn bè xấu nhiều hơn tốt.
Mâu thuẫn giữa vợ chồng là chuyện bình thường ai cũng gặp. Cái khác biệt ở đây là sống trong cảnh tù túng thiếu thốn mọi tiện nghi bình thường, không dễ gì tìm được giải pháp trung dung.
Đám đông chung quanh có thể kéo mấy đứa con anh theo, và tiêm nhiễm cho chúng nếp nghĩ tập thể, nếp sống tập thể.
Đứa con gái đầu một hôm đem hình tài tử Hong Kong về dán đầy nóc ô phản, để mỗi lần nó nằm ngửa nhòm lên đều thấy các cô cậu tài tử mỉm cười. Nó đi coi truyền hình ngoài sân trại mãi mười giờ đêm mới về.
Có lần thầy cô tới khiếu nại, bảo nó không chịu làm bài, nó lại nói dối rằng mình mất vở nên không có bài để nộp.
Nó lười đọc kinh trước khi ngủ. Không chịu ở nhà coi em út. Không chịu chỉ cho đứa em học bài.
Cuộc cãi vã diễn ra, cũng vì những chuyện lặt vặt không đâu ấy.
Đám đông dường như nhập vào anh, khiến anh buông những lời không nên nói. Đám đông nhập vào chị khiến chị hốt hoảng, tuyệt vọng, đòi uống thuốc tự tử.
Chị đòi về Việt Nam ngay lập tức. Anh càu nhàu đàn bà dữ không thể nào tưởng tượng được. Anh còn cay cú nói với người bạn độc thân rằng ‘’Con gái lúc mới gặp thì dịu hiền, đáng yêu, có đủ mọi đức tính tốt. Sống mãi rồi mới thấy những cái đuôi. Đàn bà ngu xuẩn, không khi nào có thể hiểu được những suy nghĩ của đàn ông.’’