MADAM THƠ
Nếu tôi khởi hành từ đây, vào lúc này, cuộc hành trình sẽ thành bất tận.
Điểm khởi hành: Thành phố. Thời gian khởi hành: Bất cứ lúc nào.
Lộ trình có nhiều ngã rẽ. Tùy ngã rẽ tôi sẽ đi về một hướng khác nhau.
Địa bàn định hướng là một thứ địa chấn đồ trong mắt, trong óc hoặc trong tim, ghi nhận những chấn động, nhiệt độ, nồng độ và màu sắc phát ra từ xa hàng chục cây số và từ nhiều chục năm.
Bước thứ nhất: Thành phố chọc trời tường kính màu xám và đen.
Đàng sau cửa kính là những con người ngồi cặm cụi bên bàn giấy trước máy điện toán bấm đi bấm lại những ký hiệu và con số.
Những ký hiệu và con số chạy từ văn phòng này qua văn phòng khác, từ tòa nhà này qua tòa nhà khác, từ thành phố này qua thành phố khác, từ mặt đất lên vệ tinh, từ nước này qua nước khác.
Bước thứ mười: Khu chợ trời bán rau quả và thịt cá.
Lần theo dấu mùi vị, vị giác tôi sẽ chu du vào những chiếc túi nylon, chạy theo những bước chân, về nằm giữa những cái tủ lạnh, nằm trên bếp mỡ hành, vào bụng người, theo đường ruột ra ngoài, nằm trong cống rãnh màu đen.
Bước thứ một trăm: Xe lửa ngầm dưới lòng đất. Tôi thấy người thanh niên đứng trong góc toa tàu hôn người yêu. Tôi chạy theo luồng điện nụ hôn chạy rền trong cơ thể hai đứa. Luồng điện múa máy tay chân hắn và tay chân người yêu hắn.
Càng múa máy càng nóng.
Vũ điệu tình nhân như vũ điệu của bướm và ong bên những cánh hoa hé nụ giữa trời xuân. Đôi lúc, trong khi hôn người yêu, óc hắn bật lên hình ảnh và cảm giác lúc hôn người yêu cũ. Nàng cũng thế, cũng có khi nàng nhớ lại lúc hôn người yêu cũ của nàng.
Tôi đi lạc.
Đi lại.
Bước thứ nhất: Lướt qua thành phố, chợ búa và mắt môi, tôi chạy xuyên qua những cánh đồng màu xanh lá cây.
Sườn núi trơ đất. Những con đường ngoằn ngoèo như rắn. Tiếng động cơ xe buýt. Phố phường, chợ búa,người nối tiếp những người, chợ búa, phố phường và màu xanh của lá.
Bước thứ một trăm: Tôi đưa hai tay vạch toang màu xanh, màu xám đen, màu hồng, màu thịt sống và thịt chết để thấy cho được một chiếc cổng sắt màu xám nặng nề nằm ở cuối đường, trong góc một miền quê hẻo lánh.
Phải vạch mạnh lắm mới xuyên thủng được những ngoại cảnh dày đặc bên ngoài và thấy được chiếc cổng.
Chiếc cổng nằm ở đâu đó ven biển, khu đất rộng cỏ cây xanh um bên ngoài như chiếc áo xinh tươi che mất vết thương chưa lành. Rừng âm u chôn khuất Ankor Wat.
Mấy người an ninh ngồi trong chòi. Chắn ngang đường là một thanh gỗ có thể nhấc lên hạ xuống.
Đi vài bước, tới cổng thứ hai. Cổng thứ hai bằng thép dày, màu xám, nặng nề. Trên đầu cổng sắt là chuỗi thép gai hai lớp chằng chịt.
Đàng sau chiếc cổng thứ hai là cổng thứ ba. Cũng màu xám nặng nề và hai lớp kẽm gai không đầu đuôi, vây quanh không gian chứa ba ngàn người.
Đi qua chiếc cổng thứ ba tôi mới thấy điều tôi muốn thấy: bà Thơ.
‘’Bà Thơ’’ là một người, cũng có thể chỉ là một ‘’ý niệm.’’
Cuộc hành trình mới chỉ bắt đầu.
Trên chiếc nón rộng vành bà đội có thêu chữ S.O.S
Trên tấm vải choàng sau lưng, như nữ hiệp phim Tàu choàng khăn lưng, có đính lá cờ ba nước Anh, Pháp,Mỹ.
Trên ngực áo bà mặc, có những con số, số thuyền và số thẻ.
Bà không thêu tên mình trên áo.
Dưới những con số bà thêu dòng chữ ‘’Bất Công! Cứulấy tôi!’’ bằng tiếng Anh.
Trong túi đeo bên hông, bà đựng ba trăm lẻ một lá đơn bà viết ròng rã hơn ba năm qua. Những tiếng kêu cứu đã gửi đi, giờ chỉ còn mình bà nhớ.
Dưới lớp áo, ngực bà chưa lép hẳn, còn căng bầu ngực người đàn bà năm mươi ba tuổi.
Bên dưới lớp da đã bắt đầu nhăn là thịt và những mạch máu không ai thấy. Mạch máu không chỉ đập theo nhịp trái tim, mà còn đập theo hơi thở và trí nhớ.
Trong trái tim bà là xác chồng bà nằm chết trên giường trải vải trắng.
Trong đôi mắt chồng bà nhắm nghiền là chiếc xe chạy hùng hục từ vỉa hè chạy tốc lên vỉa hè, và trong khoảnh khắc ngắn ngủi ấy, toàn thân ông bị húc mạnh, văng ra xa. Những đốt xương gẫy. Máu chảy bên ngoài và máu chảy bên trong. Đôi mắt ông trợn trừng nhòm trời cao không thấy gì hết.
Khoảng trời cao không thấy gì hết vẫn còn dấu vết cuộc hành quyết hiền lành. Chiếc xe phát xuất từ một tòa lãnh sự nào đó. Bàn tay nào đó của một cơ quan nào đó chỉ đạo cuộc hành hình. Cuộc hành hình đã diễn ra trong đầu ai đó hàng trăm lần, với trăm trạng huống khác nhau, như nhà biên kịch sửa đi sửa lại bản thảo trước khi vở kịch được đưa lên sân khấu.
Khán giả ngồi dưới sân khấu thấy hoặc không thấy được cái giả tạo của màn kịch. Có người vỗ tay. Có người không vỗ tay, nhưng cũng không dám la ó phản đối. Có người đưa tay lén lút lau giọt nước mắt bướng bỉnh vừa ứa khỏi tròng mắt đỏ gay.
Chỉ có bà Thơ là đứng bật dậy trong hàng khán giả la ó phản đối.
Họ thẩy xuống trước mặt bà ba mươi ký gạo bồi thường tai nạn gây ra cái chết của chồng, và những lời vỗ về yên ủi.
Bà không thích nghe lời yên ủi nên người ta khạc vào mặt bà những lời bỉ ổi.
Để tồn tại giữa vũng lầy độc dược, bà phải vận dụng trí nhớ về thời tồn tại giữa những ngày yên lành.
Cái yên lành tương đối ở hậu phương của người vợ chờ chồng về từ mặt trận.
Chồng bà không cầm súng và đeo đạn. Ông chỉ cầm ống nghe và mang theo thuốc men.
Ông không biết đi lính thực dân tốt hay xấu, ông chỉ biết sự sống là quý báu.
Chính cái ‘’thiện ác không phân minh’’ mà ông phải chịu hậu quả của thứ công lý nhập nhằng xử tử bằng tai nạn.
Suốt mấy chục năm qua, bà vẫn đi tìm cho ra một người trọng tài...
Đó là điểm bắt đầu, hoặc cũng là điểm kết câu chuyệncủa bà, tùy tôi muốn đi tiếp hay không.
1.
Người ta gọi bà là ma-đam Thơ.
Tôi gặp bà lần đầu vào mùa đông. Bầu trời xám ngắt những lớp mây cao trơ trơ phẳng lỳ.
Bà ngồi dựa lưng vào hàng rào, như bao nhiêu ngườikhác.
Tôi gật đầu chào bà như chào bao nhiêu người khác, bà gật đầu chào tôi như chào bao nhiêu người khác.
Tiếng nói và tiếng cười của bà gọi giật tôi lại.
‘’A, chào cậu nhân viên mới toanh, hi hi hi.’’
Trán bà cao và nhô lên, vồ vồ.
Mắt bà híp lại khi cười.
Miệng bà rộng. Môi bà mỏng.
Răng bà nhe ra, trắng hếu.
2.
Bà đưa cái mũ cối rộng vành cho tôi xem.
Trên vành mũ đính miếng vải trắng thêu ba chữ SOS.
Bà quay lưng lại cho tôi xem chiếc khăn bà choàng trên vai như nữ hiệp phim Tàu. Trên khăn choàng có thêu hình lá cờ Anh, cờ Pháp, cờ Mỹ.
Bà cầm tà áo bà ba trắng kéo căng ra cho tôi đọc dòng chữ thêu trên ngực trái.
Dòng chữ ‘’Kính chào quý ngài, hãy cứu lấy tôi.’’ Bên cạnh giìng chữ là số thẻ và số thuyền.
Bà mở cái bị vải đeo thòng bên sườn.Trong bị có một đống giấy tờ đã cũ.
‘’Tôi đã làm ba trăm lẻ bốn cái đơn. Cứ người ngoại quốc nào vô thăm là tôi lại gửi. Kệ, cứ như người chơi sổ số, may ra thì trúng.’’
3.
Bà ngồi ở góc phải.
Người đại diện Liên Hiệp Quốc ngồi bên trái.
Bên cạnh bà là đứa con gái.
Đối diện đứa con gái là tôi.
Lời nói phát từ trái, xuyên qua phải, chạy ngược từ phải, qua trái, qua ngã đứa con gái, và tôi.
Tin buồn từ bên trái, dài dòng âm thanh và thời gian, gói gọn một từ khô khốc, lạnh và gọn lỏn, cắm phập:KHÔNG!
Chữ ‘’không’’ biến nước da trắng hồng khuôn mặt bà thành màu trắng bệch xác chết.
Viên đạn cắc bụp trúng bầu nước mắt.
Nước mắt rơi thẳng một đường, nhỏ giọt, vỡ toang.
Nước mắt đổ trên tay, trên chiếc quần bà ba đen, trên ngực áo thêu chữ.
Cô con gái góp lời:
‘’Mẹ cháu không biết nói dối như người ta.’’
Cô con gái nhăn mặt, bỉu môi:
‘’Mẹ chẳng biết gì cả!’’
Người đàn bà bình tĩnh:
‘’Các Ngài cho tôi gạo, nay tôi trả lại gạo cho các Ngài.’’
Người ngồi bên trái cau mày:
‘’Bà ấy nói gì vậy?’’
4.
Bà nằm co trong chăn.
Chăn nằm sâu trong chiếc màn.
Chiếc màn giăng dưới tấm bạt nhựa che nắng lửa mùa hè.
Tấm bạt nhựa nằm trong góc sân trại màu xi măng trắng chói vỡ mắt.
Âm thanh thường ngày lọt vào góc sân, vào màn, vào chăn, vào tai bà, điếng óc.
Tôi chui đầu vào màn, lật tấm chăn lên, chào bà.
Bà thở thều thào, đứt quãng.
‘’Ban đêm, trời lạnh, bác có ngủ được không?’’
Bà gượng ngồi dậy, mở cuốn sổ ghi khách tới thăm:
‘’Bao nhiêu người tôi đều ghi cả vào đây!’’
Bà nằm xuống nói gì tôi không nhớ.
Tôi quay qua bên trái, dưới tấm vải nhựa có người đàn ông ngồi quay mặt vào tường thép, tay cầm chuỗi tụng kinh Phật.
Tôi gọi nhỏ mấy lần, không thấy người đàn ông trả lời.
Tôi quay lại, kéo tấm chăn lên vai người đàn bà.
Vừa đứng dậy khỏi màn, có bàn tay ai chạm vào vai tôi:
‘’Ba ngày rồi, chúng tôi canh chừng quanh đây, không cho ai tới quấy nhiễu, mấy ngày hôm nay không ăn, nên kiêng không nói để dưỡng sức.’’
Ngoài sân, đám trẻ con vẫn chơi bóng chuyền và la hét ầm ĩ.
Những cơn gió lạnh thỉnh thoảng làm mọi người rùng mình.
5.
Bà nằm nghỉ trong trạm xá.
Người đàn ông ngồi duỗi chân trên giường bên cạnh.
Tôi đi vào giữa hai chiếc giường.
Bà ngồi dậy nói chuyện.
Người đàn ông thả chân xuống đất.
Cô con gái người đàn ông mang vào cho cha một điếu thuốc.
Cô gái gật đầu chào tôi rồi cúi xuống kéo lại tấm khăn trải giường và xếp lại chiếc gối cho ngay ngắn.
Cô gái đi rồi, người đàn ông cười cười bảo tôi:
‘’Chú xem, con gái tôi đấy, chú có giúp đỡ được gì không?’’
Bà thêm lời:
‘’Nó ngoan lắm cậu ạ. Chưa bao giờ tôi thấy đứa con gái nào ngoan hiền đứng đắn như nó. Suốt mấy ngày nằm ngoài kia, nó không ăn không ngủ, cứ chạy ra chạy vào lo cho bố.’’
Tôi trả lời:
‘’Hai bác đã khỏe chưa?’’
6.
Hai tay bà Thơ chắp lại, vái vái trước mặt người đàn bà da trắng tới thăm:
‘’Bà là đại diện của Chúa. Bà là vị cứu tinh của chúng tôi. Xin bà thương xót.’’
Bà Thơ quay về giường. Giường bà hẹp, chiều ngang sáu mươi phân chiều dài thước hai, quây màn chung quanh, trông như chiếc quan tài bằng vải cao một thước.
Bà lấy tấm hình đám tang chồng bà đưa ra.
Chuyện kể vẽ lại thời thực dân Pháp, muôn ngàn khuôn mặt da trắng tóc vàng quân phục và súng ống.
Giữa muôn ngàn khuôn mặt lạ lùng ấy là khuôn mặt chồng bà đeo ống nghe bác sĩ.
Chuyện vẽ lại màu đỏ giữa phố phường và trong mắt người chó sói.
Chồng bà thất thểu đi trên đường. Một chiếc xe hơi hùng hổ tông người đàn ông văng xác chết tươi.
Ba mươi cân gạo bồi thường trăm ngày nước mắt và nửa đời không còn nước mắt.
Người đàn bà da trắng đặt bàn tay lên lưng bà Thơ vỗ vỗ.
Giữa tâm điểm, cả hai người đều mềm như mây trời.
Người bu đen chung quanh giương những cặp mắt thao láo tò mò.
Vòng ngoài cùng nhân viên an ninh lượn vòng như bầy kên kên cặp mắt kim châm đồng phục.
‘’Hết giờ nói chuyện!’’
7.
Mấy ngày sau Tết Nguyên Đán.
Mái tóc ma-đam Thơ cắt ngắn, quăn tít.
Miệng bà nở nụ cười tươi như đứa trẻ mười một.
Bà mặc chiếc áo bà ba màu hồng.
Tôi gặp bà ngoài sân:
‘’A! Bác dạo này trông trẻ hẳn ra.’’
Bà cười cười:
‘’Tôi có đường rồi cậu ạ. Con gái tôi sắp sửa lấy người tự do, xong nó sẽ ‘’cẩu’’ tôi ra.’’
Buổi chiều.
Bà đứng cầm vòi nước xịt xuống nền xi măng làm vệ sinh.
Miệng bà nói gì liên tục. Dòng nước phun xối xả.
Có người tới định cầm vòi nước làm giúp bà.
Bà lắc đầu, giằng vòi nước qua một bên.
8.
Bầu trời nhập nhằng nửa nắng nửa mây đen kịt.
Mùa xuân rịn mồ hôi. Không thấy hoa hoặc chim én.
Chỉ có vài con chim sẻ quen đường đậu giữa cuộn giây kẽm gai giăng kín đặc trên đầu hàng rào thép.
Bà đi ngoài sân trại. Bước chân chầm chậm.
Lại mặc chiếc quần bà ba đen úa màu cũ kỹ và đội trên đầu chiếc khăn mỏ quạ vải thô.
Mắt bà sụp xuống. Bà nhòm tôi không cười như lần trước:
‘’Con tôi nó không chịu thằng ấy!’’
9.
Mùa phục sinh.
Nắng bắt đầu đổ lửa.
Biển bắt đầu phà hơi ẩm và nóng như hơi lò giặt ủi.
Mấy hôm nay người trong trại xôn xao Vì có ai nhận được bản tin của tờ ‘’Thời Báo’’ xuất bản bên Mỹ.
Bài báo chụp hình ông Liên Thành qua nói chuyện với giới chức Vanuatu về chuyện đưa thuyền nhân qua định cư bên ấy.
Thứ Sáu Tuần Thánh nhiều người ăn mừng tin sống lại Vanuatu.
Số người đã ghi danh tự nguyện hồi hương rút đơn ồ ạt.
Câu chuyện quanh bữa cơm lại nổ giòn hy vọng và tự do.
10.
Đầu tháng Năm, bà Thơ mặc áo đầm ngắn tới đầu gối.
Áo sơ mi màu xanh da trời bỏ vào trong cẩn thận.
Mái tóc bà lại uốn cong, cụm tóc trên đầu cong vòng cao hơn lần uốn tóc trước.
Môi bà tô son màu hồng nhẹ. Hai gò má phơn phớt nửa phấn trắng nửa phấn màu cam hồng.
‘’Tháng Sáu tôi đi Vanuatu cùng với năm trăm gia đình khác cậu ạ!’’
11.
Cuối tháng Năm, bà Thơ lại cầm chổi quét sân trại.
Lưng bà lại đeo khăn choàng thêu hình lá cờ ba nước tự do.
Tấm khăn choàng còn mới tinh. Mầu thêu cũng mới tinh.