Chương 84
JIMMY VẪN ĐỂ ĐÈN PIN BẬT trong khi anh đi đến lớp học. Anh nhanh chóng nhận ra mình không thể quay ngược thời gian. Tại đó, ở giữa căn phòng, chính là ba lô cũ của anh. Một số bàn bị kê xiên vẹo, những hàng từng ngay ngắn nay như xương gãy, và Jimmy có thể mường tượng trong tâm trí cảnh bạn bè của mình ùa ra, có thể thấy những con đường họ đi, có thể nhìn họ tràn về phía cánh cửa. Họ đã mang ba lô theo. Ba lô của Jimmy thì vẫn ở lại và nằm bất động như một xác chết.
Anh tiến một bước vào bên trong, căn phòng được đèn pin của anh soi tỏ, và anh có thể cảm thấy cô Pearson ngước lên khỏi một quyển sách, mỉm cười và chẳng nói gì cả. Barbara ngồi ở bàn của mình, ngay cạnh cửa. Jimmy nhớ bàn tay cô bé nắm trong tay mình trong một chuyến tham quan các chuồng gia súc. Chuyện xảy ra trên đường trở về, sau khi bỏ lại cái mùi lạ của rất nhiều động vật, sau khi thò tay qua các thanh chấn song để vuốt lông chúng, và những con lợn béo quay, trụi lông. Jimmy hồi ấy mười bốn tuổi, và một nét gì đó ở lũ động vật đã kích thích hoặc làm thay đổi anh. Thế nên khi Barbara nấn ná lui về phía cuối hàng học trò xoắn ốc đi lên cầu thang và với lấy tay anh, anh không rụt lại.
Cú đụng chạm kéo dài đó là một chút trải nghiệm về cuộc đời đáng lẽ anh có thể đã có với người khác. Anh miết đầu ngón tay lên mặt bàn của Barbara và để lại vết trên lớp bụi. Bàn Paul - bạn thân của anh - là một trong những chiếc bàn đã bị xô đẩy. Anh bước qua khoảng trống nó để lại, nhận thấy mọi người đều đã ngay lập tức rời đi, và nhờ có mẹ mà anh mới được khởi hành sớm, cho đến khi anh ra đứng ở chính giữa căn phòng, bên chiếc ba lô của mình, hoàn toàn cô độc.
“Tôi chỉ có một mình,” anh nói. “Tôi cô độc.”
Môi anh khô không khốc và dính tịt vào nhau. Khi anh cất lời, chúng bứt toạc như thể lần đầu tiên mở ra.
Lúc lại gần chiếc ba lô của mình, anh nhận thấy nó đã bị rút ruột. Anh quỳ xuống và lật nắp. Có ni lông mà mẹ anh đã dùng đi dùng lại để gói bữa trưa cho anh, nhưng bữa trưa của anh đã biến mất từ lâu rồi. Hai thanh bánh ngô và một chiếc bánh yến mạch. Thật đáng ngạc nhiên là anh vẫn nhớ một số thứ nhưng những thứ khác thì lại không.
Anh lục lọi sâu hơn, tự hỏi liệu họ có lấy thêm nhiều thứ khác không. Cái máy làm toán mà bố anh đã chế tạo từ linh kiện vụn vẫn còn ở đó, cũng như những hình nhân lính bằng thủy tinh mà chú anh đã tặng vào sinh nhật thứ mười ba. Anh dành chút thời gian để chuyển mọi thứ từ cái ba lô tự chế của mình sang chiếc ba lô cũ. Khóa kéo cứng ngắc, nhưng nó vẫn dùng được. Anh ngắm nghía bộ quần yếm thắt nút và quyết định nó còn tã hơn bộ mình đang mặc, thế nên anh bỏ nó lại đấy.
Jimmy đứng dậy khảo sát căn phòng, lia đèn pin khắp bãi chiến trường. Trên tấm bảng đen, anh thấy ai đó đã lưu lại vết tích của mình. Anh chiếu đèn khắp bảng và thấy từ mẹ kiếp được viết đi viết lại. Viết kiểu như vậy làm nó trông giống như một chuỗi các chữ cái, mẹkiếpmẹkiếpmẹkiếpmẹkiếp.
Jimmy tìm thấy miếng giẻ lau phía sau bàn cô Pearson. Nó cứng ngắc và đóng bụi, nhưng những con chữ vẫn biến mất. Một vệt nhòe lưu lại phía sau, và Jimmy nhớ lại những tháng ngày hạnh phúc đứng trước lớp viết lên bảng. Anh nhớ các bài tập viết. Cô Pearson đã một lần khen ngợi thơ của anh, chắc chỉ để lịch sự mà thôi. Anh liếm môi, lấy một mẩu phấn cũ ra khỏi khay và cố nghĩ ra thứ gì đó để viết. Không có cơn run khi phải đứng trước lớp. Không ai quan sát cả. Anh thực sự chỉ có một mình.
Tôi là Jimmy , anh viết lên bảng. Trong lúc anh viết, cây đèn pin hắt lên một quầng sáng kỳ lạ, một vòng ánh sáng mờ. Mẩu phấn kêu cành cạch theo từng nét viết của anh. Nó kêu kin kít và nghiến kèn kẹt giữa những lần cọ quẹt. Âm thanh ấy chẳng khác nào một người bạn, ấy nhưng anh lại viết một bài thơ về cảnh ngộ một thân một mình, một hành động máy móc từ những ngày đã qua:
Những bóng ma nhìn. Những bóng ma nhìn. Chúng nhìn tôi một
mình rảo bước.
Các xác chết cười. Các xác chết cười. Chúng thôi cười khi tôi bước qua.
Bố mẹ tôi mất tích. Bố mẹ tôi mất tích. Họ đang đợi tôi trở về nhà.
Anh không chắc về cái dòng cuối cùng đó. Jimmy lia đèn qua những gì mình đã viết, và anh nghĩ chúng không hay lắm. Có viết thêm cũng chẳng khiến cho nó khá khẩm hơn, nhưng anh vẫn cứ viết thêm.
Tháp giống trống không. Tháp giống trống không. Cái chết chất chồng từ dưới lên trên.
Tôi tên Jimmy, tôi tên Jimmy. Nhưng không ai gọi tôi Jimmy nữa.
Tôi có một mình, những bóng ma nhìn, và cô đơn khiến tôi mạnh mẽ hơn.
Anh biết phần cuối cùng là một lời nói dối, nhưng đây là thơ, thế nên không thành vấn đề. Jimmy lùi lại khỏi tấm bảng và nhìn ngắm những con chữ với cây đèn pin chập chờn của mình. Hàng chữ chạy dài sang bên và cong xuống, mỗi dòng lại cong xuống nhiều hơn dòng trên, về cuối câu thì các chữ trở nên nhỏ dần. Anh luôn gặp phải vấn đề ấy khi viết lên bảng đen. Anh ban đầu viết chữ to đùng và càng viết thì như càng co bé lại. Anh gãi râu trên cằm, tự hỏi bài thơ này nói lên điều gì về bản thân mình, báo trước điều gì.
Anh thầm nghĩ có rất nhiều điều không ổn với bài thơ mình đã viết. Dòng thứ năm không đúng sự thật, về việc không ai gọi anh là Jimmy nữa. Phía trên bài thơ, anh đã viết Tôi là Jimmy . Anh vẫn coi bản thân là Jimmy.
Anh nắm lấy miếng giẻ cứng mà mình đã để lại trong khay phấn, đứng trước bài thơ của mình và đi xóa dòng không đúng. Nhưng có gì đó ngăn anh lại. Ấy chính là nỗi sợ làm cho bài thơ trở nên tồi tệ hơn vì cố gắng sửa nó, nỗi sợ xóa đi một dòng xong thì không có gì tử tế để thế vào. Đây là giọng của anh, và nó là một thứ quá hiếm hoi, không thể xóa bỏ được.
Jimmy cảm thấy ánh mắt cô Pearson đang chĩa vào mình. Anh cảm thấy ánh mắt của đám bạn cùng lớp. Những bóng ma nhìn, những xác chết cười, trong khi anh ngẫm ngợi về bài toán trên bảng.
Khi giải pháp xuất hiện, nó mang theo một cơn phấn khích đầy quen thuộc, phấn khích vì đã tìm ra đúng đáp án, vì đã xâu chuỗi được mọi thứ lại với nhau. Jimmy với lên và đập miếng giẻ bụi bặm vào bảng và xóa dòng đầu tiên anh viết. Những từ Tôi là Jimmy biến mất, để lại một vệt trắng và bụi mù mịt. Anh đặt miếng giẻ sang bên và bắt đầu viết một sự thật vào chỗ đấy.
Tôi là Cô Độc , anh dợm viết. Anh thấy rất ưng tai. Nghe đầy chất thơ và hàm chứa bao ý nghĩa. Nhưng giống như cách thơ ca hoạt động, các câu chữ hình thành một khối óc riêng; những suy nghĩ sâu sắc của anh can dự vào, và thế là anh viết một thứ khác. Anh rút ngắn nó thành ba từ. Anh nhặt lấy ba lô của mình, rời phòng và bỏ những người bạn cũ lại đằng sau. Tất cả những gì còn sót lại là một bài thơ và lời kêu gọi được nhớ đến, một dấu ấn để chứng minh rằng anh từng ở đó.
Độc Một Mình.
Và một lớp bụi phấn rơi xuống không trung như bóng ma của những lời bất thành văn.