← Quay lại trang sách

Chương 6 .

Nixon xấu chơi

Quan hệ với Trung Quốc được khai thông, với Liên Xô tiến thêm một bước, Nixon quyết định ra tranh cử một nhiệm kỳ nữa, và ngay từ ngày 5 tháng 1 đã đăng ký tham gia vào các cuộc bầu cử sơ bộ.

Tuy vấn đề Việt Nam còn đó, lạm phát, thất nghiệp, sự không ổn định xã hội còn đó, ông ta tính những biện pháp có lợi cho vận động bầu cử và các chuyến đi Trung Quốc, Liên Xô sắp tới.

Ngày 13 tháng 1, Nixon công bố quyết định rút thêm một đợt mới đáng kể 70.000 người, giảm quân số Mỹ ở Nam Việt Nam xuống còn 69.000 vào ngày 1 tháng 7 năm 1972.

Ngày 25 tháng 1, ông ta công bố nội dung các cuộc gặp riêng giữa Việt Nam Dân chủ Cộng hoà và Hoa Kỳ từ năm 1969 tới nay, đặc biệt đưa ra công khai các đề nghị của Hoa Kỳ ngày 31 tháng 5 năm 1971 và 11 tháng 10 năm đó và cả đề nghị mới.

Hôm sau, tại Paris, phía Mỹ gửi công hàm cho đoàn Việt Nam thanh minh rằng đó là "việc làm rất miễn cưỡng" và đề nghị nối lại cuộc thương lượng bí mật giữa hai bên.

Trước ống kính của đông đảo các phóng viên, Nixon nói rằng phía Việt Nam đã bác bỏ mọi đề nghị của Hoa Kỳ, khăng khăng đòi lật đổ Thiệu, lợi dụng tiếp xúc bí mật để tấn công công khai, hẹn gặp riêng rồi lại thôi, không trả lời tám điểm của Hoa Kỳ mà lại tấn công quân sự. Tóm lại đề cao thiện chí của Nixon, đổ trách nhiệm cho Việt Nam Dân chủ Cộng hoà.

Đợt tấn công vừa công khai vừa bí mật khá quy mô này nhằm nhiều mục tiêu.

Trước hết, để chứng minh cho nhân dân Mỹ và phe đối lập rằng Nixon đã làm mọi cách để tìm kiếm giải pháp thương lượng, muốn chấm dứt dính líu và chiến tranh, ông ta đã đi xa hơn phe đối lập và nhân dân Mỹ. Ông ta đề cao thành tích lớn lao của Việt Nam hoá chiến tranh, nhất là đã rút được gần nửa triệu quân Mỹ về nước.

Thứ hai là ngăn chặn Việt Nam hoạt động mạnh ở miền Nam, tạo thuận lợi cho ông ta đi Trung Quốc, Liên Xô.

Thứ ba là phục vụ cho chiến dịch bầu cử ở trong nước.

Nixon có đạt được các mục tiêu trên không?

Những đề nghị mới của ông ta có những điểm yếu như: rút quân mà thực tế kéo dài chiến tranh, do đó không lấy được tù binh, và tiếp tục duy trì Nguyễn Văn Thiệu.

Chính vì vậy mà cuộc tấn công hoà bình này của Nixon chỉ thu được kết quả hạn chế trong một tuần. Sau đó dư luận Mỹ lại tiếp tục lên án ông ta, cho tám điểm mới của ông ta đưa ra là “một kiểu bài bây mới". Kissinger chua chát mà nhận thấy rằng:

“Một tuần chưa trôi qua những người chỉ trích chúng tôi lại hoà chung tiếng nói của họ. Một lần nữa sự bế tắc mà chúng tôi gặp phải sau khi Hà Nội từ chối hoàn toàn đổ lên đầu Chính phủ” (H.Kissinger. Ở Nhà Trắng Sđd, trang. 1100).

Ngày 31 tháng 1 năm 1972, Đoàn Việt Nam Dân chủ Cộng hoà công bố giải pháp chín điểm đã trao cho Kissinger ngày 26 tháng 6 năm 1971, đồng thời vạch rõ sự tráo trở của Nhà Trắng đã vi phạm thoả thuận hai bên không công bố các nội dung cuộc họp riêng theo đề nghị của chính Kissinger. Việt Nam cũng phân phối cho các báo những công hàm trao đổi giữa hai bên về cuộc gặp ngày 20 tháng 11 năm 1971. Dư luận xôn xao.

Ngày 2 tháng 2, tại Hội nghị bốn bên, bà Nguyễn Thị Bình nói rõ thêm hai vấn đề then chốt trong lập trường bảy điểm đã đưa ra ngày 1 tháng 7 năm 1971.

* Về quân sự, Chính phủ Cách mạng Lâm thời đòi Hoa Kỳ định ra một thời hạn dứt khoát cho việc rút hết quân Mỹ và quân chư hầu ra khỏi miền Nam, đồng thời đòi Hoa Kỳ chấm dứt chiến tranh bằng không quân ở cả hai miền Nam, Bắc Việt Nam. Thời hạn rút quân đó sẽ là thời hạn trao trả tất cả tù binh của các bên (kể cả phi công Mỹ bị bắt ở Bắc Việt Nam).

* Về chính trị, Thiệu phải từ chức ngay và Chính quyền Sài Gòn phải chấm dứt chiến tranh hiếu chiến, thủ tiêu bộ máy kìm kẹp, khủng bố nhân dân, chấm dứt chính sách bình định, giải tán các trại tập trung, trả lại tự do cho những người bị bắt vì lý do chính trị, bảo đảm các quyền tự do dân chủ cho nhân dân như Hiệp định Genève năm 1954 đã quy định.

Như vậy Chính phủ Cách mạng Lâm thời không đòi thay tập đoàn cầm quyền của Thiệu mà đòi Thiệu từ chức và huỷ bỏ công cụ chủ yếu của chính sách Việt Nam hoá chiến tranh. Thay chính sách là mặt chủ yếu trong đề nghị mới này. Đây là một bước uyển chuyển để tiến lên có những đề nghị khác sau này.

Đề nghị mới này của Chính phủ Cách mạng Lâm thời lại gây được tiếng vang trong dư luận thế giới và dư luận Mỹ. Hai hôm sau, Thượng nghị sĩ E. Muskie, một ứng cử viên Tổng thống, đòi Nixon chấm dứt viện trợ cho Thiệu ngay sau khi Hoa Kỳ đơn phương rút hết quân, trừ phi Thiệu phải thoả thuận với cộng sản. Từ đó trở đi vấn đề này trở thành chủ đề của phe đối lập ở Mỹ chống lại việc kéo dài chiến tranh của Nixon.

Vấn đề quan hệ Trung - Mỹ

Ngày 21 tháng 2 năm 1972, Tổng thống Nixon đến Bắc Kinh mở đầu chuyến đi thăm Trung Quốc, đánh dấu một bước quyết định trong quan hệ mới giữa hai nước sau hơn hai mươi năm thù địch. Một nước lớn như Trung Quốc phải giữ đầy đủ vai trò của mình trong cộng đồng quốc tế. Đó là quyền và trách nhiệm của Trung Quốc. Việc nối lại quan hệ với Hoa Kỳ sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho Trung Quốc trở lại Liên Hợp Quốc và có quan hệ bình thường với tất cả các nước. Trung Quốc sẽ bàn bạc với Hoa Kỳ về vấn đề Đài Loan, vấn đề buôn bán giữa hai nước.

Dư luận cho rằng Trung Quốc đi với Mỹ để chống Liên Xô, hay ít nhất cũng lợi dụng sức mạnh của Mỹ làm đối trọng cân bằng với mối đe doạ của Liên Xô. Còn Mỹ thì cần Trung Quốc giúp đỡ để giải quyết vấn đề Việt Nam. Và cũng lúc đó thôi, hai bên mới cần đến nhau - còn chậm lại sau khi Mỹ đã thoả thuận được với Việt Nam rồi thì đương nhiên là không cần thiết nửa.

Trong hội đàm giữa Chủ tịch Mao Trạch Đông và Tổng thống Nixon hai bên tập trung vào vấn đề chiến lược toàn cầu. Như thông báo của Thủ tướng Chu Ân Lai cho Việt Nam hồi năm ngoái, vấn đề Đông Dương là vấn đề số một, và thực tế trong hội đàm giữa hai vị lãnh tụ đó "vấn đề Đài Loan trở thành vấn đề thứ yếu, Chủ tịch Mao Trạch Đông đề cấp đến sự có mặt về quân sự của Mỹ ở đây".

Ám chỉ đến vấn đề Việt Nam, Mao Trạch Đông nói

"Các ông muốn đưa một số binh lính các ông về nước, binh lính của chúng tôi sẽ không được ra nước ngoài" và “điều này đã đánh tan ác mộng của hai Chính quyền Mỹ (tức Johnson và Nixon - Tác giả) lo sợ Trung Quốc can thiệp vào Đông Dương” Kissinger nhận thấy rằng "Trung Quốc đã mở ra một mặt trận chung bằng một hiệp ước ngầm, không xâm lược với chúng ta”. “Mối bất hoà giữa Hoa Kỳ và nước Trung Hoa mới đã chấm dứt. Nhiệm vụ hiện nay của hai bên là phải đối phó với khát vọng bá quyền" (H.Kissinger. Ở Nhà Trắng. Sđd, tr. 1118).

Trong cuộc hội đàm với Thủ tướng Trung Quốc, Tổng thống Mỹ đã nói nhiều về chính sách của Hoa Kỳ ở Đông Dương và Việt Nam. Đáp lại, Thủ tướng Chu cho rằng Trung Quốc ủng hộ Hà Nội. “Ông yêu cầu chúng ta rút lui về quân sự ở Việt Nam, nhưng không bảo vệ chương trình chính trị về một Chính phủ liên hiệp và lật đổ Thiệu như Hà Nội và những người chống đối chúng ta đòi hỏi...” (H.Kissinger. Ở Nhà Trắng. Sđd, trang 1129)

Kissinger kết luận:

“Hai nước lớn tìm kiếm sự hợp tác không phải thông qua một hiệp nghị chính thức mà bằng điều hoà một cách nhịp nhàng những sự thông cảm của nhau trong các vấn đề quốc tế có lợi ích của hai bên”... Cả hai bên đều hiểu rằng một chiến lược hành động song song sẽ xuất phát từ đó" (Như trên. sđd, trang 1130).

Trong thông cáo Mỹ - Trung ở Thượng Hải ngày 28 tháng 2 năm đó, hai bên tuyên bố “không tìm kiếm bá quyền ở khu vực châu Á - Thái Bình Dương". Về Vấn đề Đài Loan, thông cáo viết “Tuỳ tình hình căng thẳng trong khu vực này giảm đi, Mỹ sẽ dần dần giảm lực lượng và cơ sở quân sự của Mỹ ở Đài Loan" (nghĩa là gắn vấn đề Đài Loan với tình hình khu vực).

Năm hôm sau, khi thông báo cho các nhà lãnh đạo Hà Nội kết quả chuyến đi thăm của Nixon ở Bắc Kinh, Thủ tướng Chu Ân Lai đã nhấn mạnh lại:

“Muốn bình thường hoá quan hệ Trung - Mỹ, muốn làm dịu tình hình ở Viễn Đông thì trước hết phải giải quyết vấn đề Việt Nam và Đông Dương - Vấn đề Đài Loan là bước sau” (Vụ thông tin Báo chí Bộ Ngoại giao. Sự thật về quan hệ Việt Nam - Trung Quốc 30 năm qua. Sđd, trang 57.).

Nhân dân Việt Nam qua lịch sử của mình cũng hiểu vì sao Trung Quốc đặt vấn đề Việt Nam lên trên cả vấn đề Đài Loan.

Nixon rất hài lòng về kết quả chuyến thăm Trung Quốc. Giờ đây Mỹ chỉ còn “nhìn về phía Matxcơva để nghiền nát Việt Nam" (Trần Hà, Tạp chí Thông tin Lịch sử Quân sự, số 4, tháng 4 năm 1991. Trang 2).

Hà Nội trả lời: Mức độ và thời điểm

Bước vào năm 1972, quân nguỵ Sài Gòn đã có tổng số quân 1,04 triệu, quân nguỵ Campuchia có 17 vạn, quân nguỵ Lào có trên 8 vạn. Về bình định, chúng vẫn kiểm soát được trên 70% tổng số thôn ấp và 80% tổng số dân, lại là những vùng đông dân và kinh tế trù phú.

"Về ta, cuối năm 1971, các đơn vị chủ lực của ta lần lượt trở lại chiến trường miền Nam, củng cố được địa bàn đứng chân dọc miền Tây các tỉnh Trung Bộ, Tây Nguyên, miền Đông Nam Bộ đến đồng bằng sông Cửu Long. Vùng căn cứ giải phóng được tăng cường và có phần được củng cố từ U Minh - Đồng Tháp, rừng núi miền Đông Nam Bộ, qua Tây Nguyên đến Trị - Thiên, lại được nối thông với vùng giải phóng của nước bạn ở Hạ Lào kéo thẳng xuống Đông Bắc Campuchia. Số dân trong các vùng giải phóng ở miền Nam là 2,78 triệu, đông gấp hai lần so với cuối năm 1970" (Trần Hà. Tạp chí Thông tin Lịch sử Quân sự, số 4, tháng 4, 1991, Trang 4).

Giữa tháng 3 năm 1972, Hà Nội đánh giá:

"Năm 1972 là năm hết sức quan trọng trong cuộc đấu tranh giữa ta và địch trên cả ba mặt trận quân sự, chính trị, ngoại giao. Nhiệm vụ quân sự cần kíp là đẩy mạnh tấn công quân sự, chính trị, binh vận, phát triển thế tiến công chiến lược trên toàn chiến trường miền Nam, đồng thời đẩy mạnh tấn công ngoại giao, phối hợp chặt chẽ với quân và dân Lào, quân và dân Campuchia đẩy mạnh tấn công trên các chiến trường Đông Dương, đánh bại chính sách Việt Nam hoá chiến tranh của Mỹ, tạo ra một chuyển biến căn bản làm thay đổi cục diện chiến trường ở miền Nam và cả trên bán đảo Đông Dương giành thắng lợi to lớn buộc Mỹ phải chấm dứt chiến tranh trên thế thua bằng một giải pháp chính trị có lợi cho ta mà chúng phải và có thể chấp nhận được".

Ngày 30 tháng 3 năm 1972, quân dân miền Nam bất ngờ mở cuộc tấn công qui mô ở miền Nam trên các hướng Quảng Trị - Thừa Thiên, Bắc Tây Nguyên, Đông Nam Bộ (các tỉnh Bình Dương, Phước Long, Bình Long, Tây Ninh) và đồng bằng Khu V.

Hướng chủ yếu của đòn tấn công này là Quảng Trị, nơi tiếp giáp với miền Bắc, nơi có điều kiện để tập trung lực lượng và chỉ đạo cũng như bảo đảm vật chất cho một chiến dịch qui mô.

Chỉ trong mấy ngày, tuyến phòng thủ vành ngoài kiên cố nhất của Mỹ - Nguỵ ở đường 9 - Quảng Trị, phía Nam sông Bến Hải - Khu phi quân sự đã bị đập tan. Tuyến phòng ngự của chúng ở Bắc Tây Nguyên (vùng Đắc Tô - Tân Cảnh) và Tây - Bắc Sài Gòn cũng bị phá vỡ. Cuộc chiến đấu diễn ra ác liệt. Ngày 24 tháng 4 quân ta giải phòng vùng Bắc Kontum và một số khu vực thuộc Khu V và đồng bằng Sông Cửu Long. Ngày 1 tháng 5, quân nguỵ bỏ chạy khỏi Quảng Trị, hôm sau quân giải phóng tiến vào giải phóng tỉnh lỵ và tiếp tục truy kích quân địch về hướng Huế. Quân Mỹ và quân nguỵ phản kích quyết liệt. Cuộc chiến đấu kéo dài suốt cả mùa hè cho đến giáp mùa khô năm đó.

Ngày 6 tháng 4 năm 1972, bất chấp cam kết của Mỹ năm 1968, Nixon hạ lệnh ném bom trở lại miền Bắc nước ta - cả Hà Nội, Hải Phòng - dùng cả lực lượng không quân chiến lược và chiến thuật.

Trước đó, kết hợp với hoạt động quân sự, từ ngày 24 tháng 3, Nixon tuyên bố hoãn vô thời hạn các phiên họp công khai Hội nghị Paris.

Một vấn đề đặt ra cho ta lúc này: Có tiếp tục nói chuyện với Mỹ nữa không?

Ngày 17 tháng 4, một ngày sau khi Mỹ dùng B52 ném bom Thành phố Vinh, Lê Đức Thọ lúc đó còn ở Hà Nội và Nguyễn Duy Trinh điện cho Xuân Thuỷ như sau:

“1- Việc Mỹ ném bom lại Hà Nội - Hải Phòng, đó là một bước leo thang rất nghiêm trọng để cứu vãn tình thế đang suy sụp ở miền Nam và gây áp lực đối với ta.

Hành động này không chứng tỏ chúng mạnh mà còn làm rõ thêm chỗ yếu nhưng liều lĩnh của Nixon. Bộ Chính trị đã thảo luận và quyết định tiến hành cuộc chiến đấu ở miền Nam như kế hoạch đã định và có kế hoạch mọi mặt đối phó với cuộc chiến tranh không quân, hải quân đối với miền Bắc để đánh bại Mỹ. Chúng càng thua ở miền Nam thì việc đánh phá miền Bắc sẽ ác liệt hơn.

2- Hiện nay mặc dù Mỹ tăng cường đánh phá miền Bắc, ta vẫn chủ trương duy trì Hội nghị Paris. Nếu ta bỏ Hội nghị Paris thì không lợi vì Mỹ sẽ đổ trách nhiệm cho ta và sẽ vin vào cớ đó để đòi triệu tập Hội nghị Quốc tế về Việt Nam và Đông Dương. Trong hoàn cảnh Liên Xô và Trung Quốc đều hoà hoãn với Mỹ, họp Hội nghị Quốc tế để giải quyết sẽ bất lợi cho ta. Ta cần duy trì Hội nghị Paris để làm diễn đàn tuyên truyền có lợi cho ta và sau này trực tiếp giải quyết với Mỹ. Việc duy trì diễn đàn Paris không phải ta yếu mà chính là dùng diễn đàn này phối hợp với chiến trường để đấu tranh với Mỹ.

3- Cho nên hiện nay tại Paris ta vẫn đấu tranh vừa lên án Mỹ và đòi Mỹ chấm dứt ném bom bắn phá miền Bắc vừa đòi Mỹ họp lại Hội nghị Paris như thường lệ. Ta vạch rõ nếu Mỹ tiếp tục ném bom và đánh phá miền Bắc và tiếp tục ngừng không thời hạn Hội nghị Paris thì Mỹ phải chịu hoàn toàn trách nhiệm".

Tại Paris, một cuộc đấu tranh khá gay gắt bằng công hàm diễn ra giữa hai đoàn Việt Nam Dân chủ Cộng hoà và Hoa Kỳ, lúc đầu xoay quanh việc ấn định ngày họp riêng giữa Lê Đức Thọ và Xuân Thuỷ với Kissinger mà phía Mỹ đã đề nghị vào tháng 2, tiếp sau đó là chung quanh việc ấn định ngày họp bí mật và ngày họp lại Hội nghị công khai.

Việt Nam đòi Mỹ có họp lại như thường lệ phiên công khai thứ 146 tại phố Kléber thì ta mới đồng ý họp bí mật vào 15 tháng 3 năm 1972. Mỹ đồng ý nhưng hoãn cuộc họp bí mật đến 20 tháng 3. Nhưng từ 1 đến 5 tháng 3, Mỹ liên tục ném bom nhiều nơi ở miền Bắc và cũng chưa ấn định ngày họp thường lệ của Hội nghị công khai nên ta lùi ngày họp riêng đến 20 tháng 4.

Ngày 2 tháng 4 phía Mỹ báo cho ta biết họ sẽ họp lại phiên toàn thể ở Kléber vào 13 tháng 4, nhưng bốn hôm sau đúng ngày Nixon hạ lệnh ném bom trở lại miền Bắc, đoàn Mỹ lại hoãn phiên họp công khai đến 20 tháng 4 để phản đối ta "tiếp tục tấn công qua khu phi quân sự”, vi phạm qui chế khu phi quân sự và tấn công tiếp vào quân Khu III và quân Khu IV của Chính quyền Sài Gòn, vi phạm “thoả thuận ngầm" năm 1968.

Ngày 15 tháng 4, trong công hàm với lời lẽ gay gắt gửi cho Mỹ, đoàn ta vạch rõ:

1- Hoa Kỳ đã gây ra cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam, vi phạm Hiệp định Genève năm 1954 về Việt Nam.

2- Hoa Kỳ đã cam kết chấm dứt hoàn toàn và không điều kiện việc ném bom bắn phá miền Bắc. Hành động của Hoa Kỳ đã vi phạm cam kết đó. Không có thoả thuận ngầm nào khác cả.

3- Hai bên đã thoả thuận rằng các cuộc gặp riêng phải song song với phiên họp Hội nghị bốn bên. Và Việt Nam đề nghị họp công khai vào 27 tháng 4 và họp bí mật vào 6 tháng 5 năm 1972.

Lý do ta đưa ra là cần có đủ thì giờ cho Cố vấn Lê Đức Thọ, đang bận những việc quan trọng ở Hà Nội, qua Paris.

Mỹ tuyên bố sẵn sàng họp lại Hội nghị bốn bên vào 27 tháng 4, nhưng vẫn yêu cầu gặp riêng vào 24 tháng 4.

Cuối cùng hai bên thoả thuận họp công khai 27 tháng 4 và gặp riêng vào 2 tháng 5 năm đó.

Tháng 4 năm 1972, Liên Xô và Mỹ chuẩn bị Hội nghị cấp cao hai nước. Lợi dụng cơ hội này Mỹ ra sức gây áp lực với Liên Xô.

Đại sứ Liên Xô ở Hà Nội Secbacôp đã liên tiếp gặp Thủ tướng Phạm Văn Đồng (14 tháng 4), Nguyễn Duy Trinh (15 tháng 4) và Tổng Bí thư Lê Duẩn (17 tháng 4) thông báo nội dung sau đây:

1- Trong hội đàm gần đây với đại sứ Đôbrinin ở Washington, Kissinger nói nếu tại cuộc gặp riêng 24 tháng 4 tới, phía Việt Nam muốn thảo luận nghiêm túc các con đường đi tới giải pháp thì Hoa Kỳ sẽ có thái độ tương tự; hy vọng cuộc họp đó có thể giúp cho quan điểm hai bên gần lại nhau mà không để cho cuộc thảo luận công khai làm băng giá những quan điểm đó, có thể là hước ngoặt quyết định trong việc tìm kiếm hoà bình.

Nếu không như vậy thì bế tắc, cuộc xung đột vẫn tiếp diễn. Nixon không để Quân đội Mỹ và Sài Gòn bị đánh tan, và sau khi việt Nam Dân chủ Cộng hoà "thực tế tung hết vào miền Nam các đơn vị chính quy của mình có thể rơi vào tình thế hết sức khó khăn nếu đối phương mở một chiến dịch lớn ngay trên lãnh thổ Việt Nam Dân chủ Cộng hoà”.

(Nixon còn để lộ nếu tổ chức một cuộc gặp bí mật giữa Việt Nam Dân chủ Cộng hoà và Kissinger thì tốt, nhân dịp Kissinger đi Liên Xô từ ngày 21 đến 23 tháng 4 để chuẩn bị cho chuyến đi của Nixon. Nhưng Kissinger cũng sẵn sàng gặp ở Paris).

2- Kissinger nói Nhà Trắng đánh giá Việt Nam Dân chủ Cộng hoà khước từ cuộc gặp ngày 24 tháng 4 là một bằng chứng Việt Nam Dân chủ Cộng hoà không muốn thương lượng nghiêm chỉnh và muốn đánh đổ thêm một Tổng thống nữa của Mỹ. Do đó Nixon đã ra lệnh đánh phá khu vực Hà Nội - Hải Phòng.

Song Mỹ sẽ không đánh phá Hải Phòng, Hà Nội và các mục tiêu quân sự chiến lược quan trọng khác của Việt Nam Dân chủ Cộng hoà chừng nào còn đàm phán thông qua Liên Xô về việc tổ chức gặp bí mật.

Nixon đồng ý tiếp tục cuộc đàm phán chính thức ở Paris vào ngày 27 tháng 4. Như vậy điều kiện tiến hành song song những cuộc gặp gỡ đó với cuộc đàm phán chính thức do Hà Nội đưa ra sẽ được đáp ứng.

Mỹ cũng đồng ý là hai hình thức đàm phán phải hỗ trợ cho nhau. Nếu Hà Nội muốn chuyển ngày gặp bí mật đến gần ngày 27 tháng 4 hơn nữa để thực hiện công thức song song của mình thì Nixon cũng có thể đồng ý tổ chức cuộc gặp vào 25 tháng 4.

Mỹ vẫn tiếp tục lợi dụng hoà hoãn với Trung Quốc và Liên Xô để tác động đến vấn đề Việt Nam, lợi dụng chuyến đi thăm Liên Xô của Nixon để thúc đẩy vai trò trung gian của Liên Xô trong việc giải quyết vấn đề Việt Nam.

Mặt khác Liên Xô vẫn tiếp tục có ý đồ muốn làm trung gian trong vấn đề Việt Nam, nhất là trong hoàn cảnh gần đến ngày Nixon đi Liên Xô, ta đang đánh mạnh ở miền Nam, Mỹ ném bom miền Bắc, nếu hai bên cứ tiếp tục găng về quân sự mà không nối lại cuộc đàm phán thì sẽ gây khó khăn cho việc Liên Xô tiếp Nixon.

Ta từ chối không gặp Kissinger ở Matxcơva.

Ngày 25 tháng 4, sau khi Cố vấn Nhà Trắng rời Liên Xô, C. Katusep, Trưởng ban Đối ngoại Trung ương Đảng Cộng sản Liên Xô sang Hà Nội, thông báo cho ta những nét lớn về giải pháp mà Mỹ đề ra như sau:

1- Quân sự - Giảm bạo lực đi đến một giải pháp chính trị

- Hoa Kỳ sẵn sàng rút hết quân Mỹ (cả căn cứ và nhân viên quân sự) trong một thời gian khi hai bên thoả thuận về nguyên tắc của giải pháp. Đây là nhượng bộ lớn của Hoa Kỳ. Song song với việc này, Việt Nam phải thả hết tù binh Mỹ.

- Hoa Kỳ sẵn sàng chấm dứt cung cấp vũ khí cho Sài Gòn nếu Việt Nam cam kết không tranh thủ thêm vũ khí của đồng minh. Như vậy Việt Nam Dân chủ Cộng hoà tiếp tục đấu tranh chống Chính quyền Sài Gòn mà không có bất cứ sự can thiệp nào từ bên ngoài. Hoa Kỳ sẵn sàng chấp nhận bất cứ kết cục nào của cuộc đấu tranh này.

- Hoa Kỳ sẵn sàng rút lui các lực lượng không, hải quân được tăng cường sau 29 tháng 3, nếu Việt Nam rút sáu sư đoàn mới đưa vào (miền Nam) sau 29 tháng 3.

- Hoa Kỳ sẵn sàng chấm dứt mọi hành động đánh phá miền Bắc nếu Việt Nam tôn trọng khu phi quân sự.

2- Chính trị

- Giải quyết tiếp tục sau vấn đề quân sự, trên cơ sở lực lượng so sánh thực tế ở miền Nam.

- Giữa điểm hai của Việt Nam và điểm tương ứng trong tám điểm của Hoa Kỳ có những nhân tố giống nhau. (Việt Nam: Chính phủ ba thành phần; Mỹ: bộ máy tuyển cử ba thành phần và Chính quyền Sài Gòn không có Thiệu - Tác giả) từ đó có thể đi đến thoả hiệp - Trong gặp riêng, Hoa Kỳ muốn Việt Nam cho biết tên người muốn đưa vào Chính phủ Sài Gòn.

- Hoa Kỳ không sẵn sàng lật Thiệu một cách đơn giản.

- Giải quyết giữa các bên miền Nam về các vấn đề chính trị (Mỹ và miền Bắc chỉ giải quyết vấn đề quân sự), Mỹ sẵn sàng chấp nhận kết quả giải quyết này.

3- Về đàm phán

- Hoa Kỳ muốn đàm phán nghiêm chỉnh đi đến kết quả cụ thể dù chỉ là tạm thời.

- Trong cuộc gặp riêng ngày 2 tháng 5, Mỹ đề nghị hai bên ra tuyên bố sẽ có những cố gắng nghiêm chỉnh trong đàm phán để đi đến giải quyết vấn đề Việt Nam trong năm.

Trước và trong đàm phán sắp tới, hai bên giảm mức độ bạo lực không đánh lớn. Để tạo không khí, Việt Nam tôn trọng khu phi quân sự, Mỹ chấm dứt ném bom miền Bắc, hai bên thả tù binh bị giam lâu - trên bốn năm.

- Hoa Kỳ sẵn sàng nghe phản đề nghị đối với tám điểm

. Trong khi thông báo, Katusep còn nói thêm một số ý Mỹ đe doạ:

- Mỹ không cho phép kéo dài trong năm bầu cử Tổng thống. Nếu phía Việt Nam không thoả hiệp, Mỹ sẵn sàng mở rộng chiến tranh đối với miền Bắc Việt Nam - sẽ có biện pháp kiên quyết làm cho miền Bắc không còn tiềm lực quân sự, kinh tế để đánh lớn.

- Mỹ kiên quyết rút ra khỏi chiến tranh với bất cứ giá nào, bất cứ biện pháp nào, bất chấp mọi áp lực quân sự đối với Mỹ.

Khi nói về điểm này, Katusep cũng để lộ cho Mỹ có thể phong toả cảng Hải Phòng.

Ngày 27 tháng 4, Thủ tướng Phạm Văn Đồng tiếp phái viên của Matxcơva. Thủ tướng phê phán mạnh mẽ ý kiến của Mỹ. Có lúc Thủ tướng đã nói: “Ai cho phép họ đe doạ chúng tôi? Ai cho phép họ nói cho chúng tôi làm việc này, không cho chúng tôi làm việc nọ? Ai cho phép họ nói: Nhà Trắng không cho phép kéo dài đàm phán trong thời gian có bầu cử ở Mỹ?”.

Katusep hỏi:

- Về mục tiêu chiến lược thì phải tăng cường lực lượng quân sự ở miền Nam, nhưng còn về sách lược mà nói, làm thế nào để kết hợp việc đánh ở miền Nam và Hội nghị Paris?

Phạm Văn Đồng:

- Đây là vấn đề mức độ. Nếu ta không có hành động quân sự mạnh hơn thì họ không nói chuyện với ta. Ta cần phải hành động để chứng minh cho họ hiểu rằng: Việt Nam hoá chiến tranh nhất định thất bại, bọn Nguỵ nhất định bị quét, không có gì cứu được.

Vấn đề mức độ là cần làm thế nào vừa đủ để họ ngồi nói chuyện với ta, ta không muốn làm nhục họ. Vấn đề mức độ cũng đồng thời là vấn đề thời điểm.

Cuộc gặp riêng ngày 2 tháng 5

Ngày 28 tháng 4, trong tình hình quân Ngụy đang thua ở miền Nam, Nixon vẫn phải tuyên bố rút thêm một đợt phụ nữa gồm 20.000 người, đưa quân Mỹ xuống còn 49.000 tên vào 1 tháng 7 năm 1972.

Ngày 2 tháng 5, quân Chính phủ Cách mạng Lâm thời tiến vào chiếm giữ khu Thành cổ Quảng Trị và tiếp tục đuổi truy kích địch về phía Nam. Toàn tỉnh Quảng Trị đã được giải phóng. Tại miền Đông Nam Bộ, sau khi giải phóng Lộc Ninh - sau này trở thành nơi đóng trụ sở của Chính phủ Cách mạng Lâm thời - quân ta tiến công bao vây An Lộc - tỉnh lỵ tỉnh Bình Long - và ở Tây Nguyên quân ta cũng đang chuẩn bị đánh vào Kontum.

Mười giờ sáng ngày 2 tháng 5, tại Paris bắt đầu cuộc gặp riêng lần thứ mười ba giữa Lê Đức Thọ và Xuân Thuỷ với Kissinger.

Đây là một cuộc họp nặng nề trong không khí căng thẳng của bom đạn đang gầm thét trên chiến trường.

Hôm đó người ta không thấy ở Kissinger - một giáo sư Đại học sôi nổi nói dài dòng hay bông đùa như trước, mà là một người ít nói có vẻ ngượng nghịu, suy nghĩ. Còn Lê Đức Thọ đã được những tin đầu tiên thắng lợi ở Quảng Trị, địa đầu của miền Nam đang nóng lòng chờ kết quả cụ thể ở vùng đất miền Trung cũng như ở nhiều nơi khác.

Người ta có thể dự đoán trước được kết quả cuộc gặp gỡ này.

Mở đầu, Kissinger đã nói đến hoàn cảnh của phiên họp không diễn ra như Mỹ mong muốn, còn Xuân Thuỷ lên án ngay phía Mỹ về việc công bố nội dung các cuộc gặp riêng và hoãn các phiên họp thường lệ ở Kléber và hỏi Kissinger:

- Từ cuộc gặp riêng này trở đi, thái độ hai bên như thế nào?

Và không đợi bên kia trả lời, Bộ trưởng nói tiếp:

- Nếu phía Mỹ muốn công bố thì chúng tôi sẽ công bố, nếu Mỹ muốn giữ bí mật thì chúng tôi giữ bí mật.

Xuân Thuỷ cũng đòi phía Mỹ họp lại Hội nghị bốn bên như thường lệ.

Kissinger bào chữa cho hai việc trên, nhưng cuối cùng cũng chấp nhận giữ bí mật các cuộc gặp riêng và các phiên họp thường lệ của Hội nghị công khai sẽ được tiến hành song song với việc gặp riêng.

Vào nội dung, Xuân Thuỷ thúc giục Kissinger nói trước. Kissinger nói rằng thật ra ông ta không có gì mới để nói vì phía ta chưa trả lời đề nghị tháng 10 năm ngoái và tám điểm tháng 1 năm nay của Nixon, rồi ông ta đọc tuyên bố ngắn, đại ý như sau:

- Tổng thống không cử tôi vượt trùng dương lần này là lần thứ mười ba trừ phi ông ta biết rằng có thể đạt được một giải pháp nhanh chóng và công bằng cho cuộc chiến tranh... Hoa Kỳ sẵn sàng tôn trọng kết quả của giải pháp đó... Sau khi Hoa Kỳ rút đi rồi thì bên Việt Nam vẫn ở tại chỗ cho nên giải pháp phải đáp ứng được sự quan tâm của Việt Nam... Vì vậy bây giờ Hoa Kỳ sẵn sàng đạt được một giải pháp như thế... Nhưng yêu cầu Việt Nam đừng hiểu lầm. Hoa Kỳ không đàm phán dưới mũi súng. Không có một lý do nào để bàn đến thoả thuận sau này nếu "lực lượng xâm lăng” của miền Bắc cứ tràn vào phía chúng tôi.

Ông cũng nói rằng trong những tháng qua, phía Việt Nam đã lẩn tránh việc tìm một giải pháp thương lượng và đưa cho ta một số tư liệu về vấn đề này, và nói "Chúng tôi không muốn chơi cái trò đó nữa". Ông nêu ra ba yêu cầu:

1- Chấm dứt các cuộc tấn công.

2- Khôi phục lại thoả thuận ngầm năm 1968.

3- Phải có đàm phán nghiêm chỉnh, cụ thể, xây dựng, để đi đến kết thúc chiến tranh.

Xuân Thuỷ nhận xét ngay rằng Kissinger đã không đưa ra điều gì mới mà chỉ nhắc lại những điều mà phía Việt Nam đã biết và bác bỏ.

Về cái gọi là thoả thuận ngầm, ông nói:

- Chính tôi và Lê Đức Thọ nói chuyện riêng nhiều lần với ông Harriman và cuối cùng không có "thoả thuận ngầm" nào hết.

Lê Đức Thọ cũng bác bỏ cái mà Cố vấn Kissinger gọi là "thoả thuận ngầm 1968”.

(Sau này có lúc Kissinger viết đúng về vấn đề đó, nhưng có đoạn ông ta cố xuyên tạc) (H.Kissinger, Ở Nhà Trắng Sđd, tr. 247 - 249, 1252).

Lê Đức Thọ nói tiếp rằng sau bảy, tám tháng không gặp nhau, cứ tưởng rằng sẽ được nghe Kissinger đi ngay vào các vấn đề của giải pháp, nhưng tiếc rằng đã không nghe được gì mới. Ông Thọ nói rằng đã phải đi xa hơn Kissinger mới đến được Paris, rồi nhắc lại một loạt sự kiện về leo thang chiến tranh của Mỹ ở Campuchia, ở Lào và ở miền Bắc Việt Nam... nói rằng để thấy ai vi phạm Hiệp định Genève, ai vi phạm thoả thuận năm 1968 và kết luận:

“Chính các ông đã dùng áp lực quân sự trong quá trình đàm phán để buộc chúng tôi phải chấp nhận điều kiện của các ông. Cho nên nhân dân miền Nam Việt Nam phải chống lại các cuộc tấn công đó. Đó là lẽ đương nhiên. Ngay thượng nghị sĩ Fulbright cũng phải thừa nhận sự thật đó".

Kissinger vừa bực bội vừa xót xa ngắt lời Lê Đức Thọ:

- Tôi không muốn bàn về tình hình nội bộ Hoa Kỳ.

Lê Đức Thọ:

- Tôi muốn nhắc câu đó để thấy sự thật như vậy. Ngay người Mỹ cũng nói chứ không phải chúng tôi.

Kissinger cố gắng để Lê Đức Thọ không nói điều đó nữa:

- Việc bàn bạc công việc nước Hoa Kỳ là việc của chúng tôi.

Ông Thọ cũng không ngừng mà còn xoáy thêm:

- Tôi nêu một dẫn chứng để nói rằng không phải chỉ chúng tôi mà cả người Mỹ cũng nói, và nhắc lại: ngày 8 tháng 4, ông Fulbright đã nói: Việc các lực lượng vũ trang yêu nước tăng cường hoạt động quân sự này là một đòn giáng trả tự nhiên vào chính sách của Hoa Kỳ phá hoại Hiệp định Genève năm 1954.

Kissinger:

- Tôi biết rồi. Ngài không phải nói

Lê Đức Thọ:

- Tôi cũng chỉ nói qua cho ông biết thôi.

Kissinger:

- Tôi đã nghe rồi.

Lê Đức Thọ vẫn chưa thôi:

- Không phải chỉ chúng tôi nói chân lý đó mà những người Mỹ có chút lương tâm cũng biết lẽ phải đó. Cho nên ông nói chúng tôi xâm lược Nam Việt Nam là điều vô lý.

Lê Đức Thọ còn dẫn chứng Tài liệu mật của Lầu Năm Góc (lúc đó mới được tiết lộ - Tác giả) để vạch rõ quá trình can thiệp và xâm lược của Mỹ làm cho Kissinger không chối cãi được.

Kissinger buồn ra mặt. Không biết lúc đó ông ta nghĩ gì nhưng sau này ông viết nhiều lần rằng sự xâu xé trong nước Mỹ làm cho ông đau lòng. Ông đưa ra đề nghị sơ bộ:

“Chúng tôi đề nghị chúng ta trở lại tình hình trước ngày 29 tháng 3 tức là trước ngày các ngài bắt đầu tấn công quân sự, thì chúng tôi sẽ rút những lực lượng chúng tôi đã đưa thêm đến khu vực này và chúng tôi sẽ chấm dứt ném bom. Sau đó chúng ta sẽ tiến hành cuộc nói chuyện trong một bầu không khí êm ả hơn.

Thứ hai, chúng tôi muốn vạch ra với các ngài rằng, trong đề nghị ngày 11 tháng 10 của chúng tôi, chúng tôi đã rút ngắn thời hạn rút quân. Các ngài phản đối để lại các Cố vấn kỹ thuật, chúng tôi đã huỷ bỏ điều này. Tháng 9, các ngài phàn nàn rằng đề nghị về chính trị của chúng tôi là không cởi mở và không cụ thể, chúng tôi đã viết ra với nhiều chi tiết. Nếu các ngài không thích thì đề nghị các ngài đưa ra phản đề nghị".

Xuân Thuỷ.

- Ông nhìn vào thực tế mà chỉ nói lý về mình. Khi nào có lợi cho các ông thì các ông làm, khi nào không có lợi cho các ông thì các ông không làm. Việc các ông mở rộng chiến tranh ra Đông Dương thì các ông xem là việc các ông được làm. Còn bây giờ nhân dân Việt Nam chống lại sự xâm lược của các ông thì các ông lại đòi ngừng lại.

Về phản đề nghị của Việt Nam mà Kissinger yêu cầu, Xuân Thuỷ và Lê Đức Thọ nhắc lại tuyên bố ngày 2 tháng 2 năm 1972 của Chính phủ Cách mạng Lâm thời.

Ông Thọ nói:

- Có hai vấn đề: Về rút quân, chúng tôi muốn có một ngày nhất định, Mỹ chỉ nói sáu tháng sau khi thoả thuận. Như vậy cũng vẫn kéo dài. Còn về vấn đề chính trị, các ông nói Thiệu từ chức một tháng trước khi bầu cử, chúng tôi đòi Thiệu từ chức ngay và Chính quyền còn lại phải thay đổi chính sách.

Kissinger hỏi.

- Tất cả các thành phần khác, trừ Thiệu, vẫn có thể ở lại trong Chính quyền?.

Xuân Thuỷ:

- Họ ở lại nhưng phải thay đổi chính sách.

Kissinger:

- Thay đổi chính sách là thế nào?

Lê Đức Thọ.

- Thay đổi chính sách tức là phải bỏ tất cả những gì kìm kẹp áp bức nhân dân, thực hiện các quyền tự do dân chủ thực sự.

Kissinger

- Làm thế nào để xác định được rằng đã thay đổi chính sách rồi?

Lê Đức Thọ:

- Không những phải tuyên bố mà còn phải hành động.

Xuân Thuỷ thêm vào:

- Thí dụ: Thiệu thành lập bao nhiêu trại tập trung thì nay phải huỷ bỏ đi, giam bao nhiêu tù chính trị phải thả họ ra, cấm bao nhiêu tờ báo nay phải để họ xuất bản trở lại.

Kissinger:

- Thiệu từ chức ngay sau khi có thoả thuận hay bây giờ?

Xuân Thuỷ:

- Từ chức ngay là từ chức ngay. Từ chức ngày mai là tốt nhất.

Kissinger tỏ ra chờ đợi và ngạc nhiên không thấy phía Việt Nam đả động gì đến các vấn đề mà Mỹ đã chuyển cho ta qua Liên Xô ông liền nói:

- Qua đồng minh của các ngài, chúng tôi đã đưa ra những vấn đề thảo luận và đồng minh của các ngài đã chuyển cho các ngài rồi, tôi lấy làm lạ đến đây không thấy các ngài thảo luận gì về vấn đề mà các ngài đã biết.

Rồi ông ta nhắc lại:

- Hoa Kỳ sẵn sàng thảo luận bất cứ một quá trình chính trị nào có thể giải quyết thực sự tương lai chính trị của Nam Việt Nam... sẵn sàng thảo luận việc xây dựng một Chính quyền ở Sài Gòn theo cách đặt vấn đề của Việt Nam... rằng mục tiêu của Hoa Kỳ không phải là duy trì một Chính quyền cụ thể nào mà làm sao cho tất cả các lực lượng có thực ở miền Nam có khả năng hợp lý để giành thắng lợi.

Lê Đức Thọ không hưởng ứng gợi ý thảo luận các vấn đề ông Cố vấn Nhà Trắng nêu ra, mà chỉ nói:

- Từ trước tới nay chúng tôi đã nói nhiều lần rằng có vấn đề gì các ông nói chuyện trực tiếp với chúng tôi, và chúng tôi trực tiếp nói chuyện với các ông. Chúng tôi không qua một người thứ ba nào cả. Bây giờ có gì thì chúng tôi sẵn sàng thảo luận với các ông.

Phía Việt Nam muốn nghe cụ thể những ý kiến của Nixon trực tiếp từ Kissinger, nhưng ông ta cũng không nói gì thêm, và cho rằng:

- Chúng ta hãy ngừng lại ở đây... chúng tôi sẵn sàng gặp lại các ông, sẵn sàng tiếp tục cuộc nói chuyện này về một chương trình chính trị thực tế với một số thay đổi trong tám điểm của chúng tôi nếu có thể được miễn là hai bên đều có ý muốn thật sự để cho nhân dân Nam Việt Nam tự quyết định tương lai của mình.

Lê Đức Thọ nói tiếp:

- Chúng tôi sẵn sàng gặp lại ông và sẵn sàng thảo luận để tìm một giải pháp hợp tình hợp lý, có lợi cho cả hai bên.

Hai bên chia tay nhau mà không hẹn gặp lại một ngày cụ thể nào. Khi chia tay, Kissinger đồng ý giữ bí mật nội dung cuộc gặp và hẹn trở lại trong một hoàn cảnh tất hơn. Ông Thọ đồng ý.

Sau cuộc gặp này, Hà Nội đánh giá:

1- Hiện nay ta đang thắng lớn nhưng chưa đến mức buộc Mỹ phải buông con bài Việt Nam và Đông Dương. Mỹ còn ra sức tăng cường lực lượng miền Nam và tăng cường đánh phá miền Bắc, ngăn chặn ta đánh Huế và Kontum... làm cho cuộc tiến công của ta chậm lại, tạo điều kiện cho Mỹ củng cố lại thế phòng ngự để làm chủ bài mặc cả với ta lúc họ buộc phải đi vào giải quyết.

Về ngoại giao, Mỹ mưu toan dùng Liên Xô, Trung Quốc để hạn chế thắng lợi của ta trên chiến trường và ép ta đi vào giải quyết sớm. Nhân việc Nixon đi Liên Xô, Mỹ dùng Liên Xô để hạn chế ta tiếp tục tấn công và để buộc ta giải quyết về quân sự cho Mỹ rút, còn vấn đề chính trị để cho các bên miền Nam giải quyết với nhau.

Giữa Mỹ và Liên Xô có sự mua bán và đổi chác về vấn đề Việt Nam. Không ngoại trừ khả năng từ nay đến khi Nixon đi Liên Xô. Kissinger lại sang Matxcơva một lần nữa (bí mật hoặc công khai) để ép Liên Xô về vấn đề Việt Nam hòng gỡ bớt khó khăn hiện nay của Mỹ. Ta cần cảnh giác với âm mưu phá hoại Hội nghị Paris và tạo ra cách giải quyết khác để giải quyết sớm vấn đề Việt Nam, kể cả Hội nghị Quốc tế.

2- Ta tiếp tục thực hiện tốt ý đồ quân sự và chính trị trên chiến trường, có như vậy mới có cơ sở để đạt một giải pháp vững chắc, đề phòng và đánh trả tốt việc đánh phá miền Bắc.

Về gặp riêng, chúng ta chủ trương từ nay đến khi Nixon kết thúc chuyến đi Liên Xô, không gặp thêm một lần nào nữa mà chỉ gặp sau khi Nixon đi Liên Xô. Nếu gặp riêng lúc này thì ta phải có gì mới và do đó lại tạo điều kiện cho Liên Xô làm trung gian và dùng vấn đề Việt Nam mua bán với Mỹ. Nếu Mỹ chủ động hẹn gặp, Lê Đức Thọ và Xuân Thuỷ tìm cách lùi đến sau khi Nixon đi Liên Xô xong mới gặp riêng”.

Ngày 8 tháng 5, chưa đầy một tuần sau phiên gặp riêng giữa Lê Đức Thọ, Xuân Thuỷ và Kissinger, Nixon tuyên bố tiến hành một bước leo thang mới mở rộng quy mô đánh phá miền Bắc, kể cả bằng lực lượng không quân chiến lược, thả mìn cảng Hải Phòng cùng các cửa sông, lạch trên vùng biển phong toả miền Bắc nước ta.

Đấy là những biện pháp có tính chiến lược cho cuộc chiến ở miền Nam chứ không phải hỗ trợ như chiến tranh phá hoại dưới thời Johnson.

Cùng ngày, Nixon đưa ra đề nghị hoà bình mới:

- Thả tất cả các tù binh Mỹ.

- Có giám sát quốc tế về ngừng bắn toàn Đông Dương.

- Sau đó Hoa Kỳ sẽ chấm dứt mọi hành động vũ lực trên toàn Đông Dương.

- Hoa Kỳ sẽ tiến hành rút hoàn toàn quân Hoa Kỳ khỏi miền Nam Việt Nam trong vòng bốn tháng (R.Nixon. Hồi ký Sđd tr 602-602).

Qua đề nghị trên người ta thấy rõ, Mỹ tỏ ra cứng rắn, nhưng mặt khác cũng không tin tưởng quá vào khả năng đánh bại ý chí chiến đấu của quân và dân ta bằng chiến tranh phá hoại. Ông ta cũng không tin tưởng nhiều vào kết quả hoạt động đối ngoại với các cường quốc khác trong vấn đề Việt Nam. Giải pháp mà ông ta đưa ra chỉ giải quyết vấn đề quân sự mà vấn đề hàng đầu được nêu ra là vấn đề tù binh Mỹ thì cả chương trình Việt Nam hoá lẫn những mưu tính toàn cầu đều không giải quyết được dù muốn hay không và Nhà Trắng vẫn phải quay lại Hội nghị Paris để thương lượng với Hà Nội.

Một điều nữa cũng đáng lưu ý là chỉ cách đây không lâu con “diều hâu" này còn gọi Bắc Việt Nam là xâm lược thì hôm nay lại từ bỏ yêu sách đòi quân miền Bắc rút khỏi miền Nam Việt Nam.

Vấn đề Việt Nam và Hội nghị cấp cao Xô - Mỹ

Cuộc tiến công Xuân Hè của ta diễn ra sau khi Nỉxon đi Trung Quốc và trước khi ông ta đi Liên Xô. Không những thế nó còn kéo dài nhiều tháng nữa.

Điều đó cho thế giới thấy rõ công việc của Việt Nam do người Việt Nam giải quyết, và cũng chứng minh cho Washington biết cả Trung Quốc và Liên Xô vẫn giúp ta.

Sự thất bại không ngờ của quân Nguỵ làm cho Nixon bực bội và đau xót. Ông ta than thở "Thật là trớ trêu của định mệnh đã đưa đến tình cảnh này: số phận của chúng ta lại nằm trong tay người Nam Việt Nam" (R.Noxon. Hồi ký Sđd, tr 588, 590 - 591). Tất nhiên Washington không thể ngồi yên. Họ đẩy mạnh hơn nữa hoạt động ngoại giao song song với các biện pháp quân sự. Tháng 4 năm đó, khi Kissinger lên đường sang Liên Xô cũng là lúc quân nguỵ Sài Gòn được Mỹ trang bị những vũ khí tối tân đang phải chạy dài ở nhiều nơi... Nixon bảo Kissinger rằng:

“Điều người Nga muốn là Kissinger có mặt ở Matxcơva để thảo luận về Hội nghị cấp cao, điều tôi muốn là có ông ở Matxcơva để thảo luận vấn đề Việt Nam... Điều chúng ta thật sự phải nghĩ tới là huỷ bỏ Hội nghị cấp cao và tỏ ra cứng rắn ở Việt Nam, kể cả phải dùng đến phong toả" (R.Nixon. Hồi ký. Sđd, tr 588, 590-591)

Nixon đã tính đến một sự thất bại trước mắt ở Đông Nam Á, đã phải xem xét đến việc rút lui và tìm người thay thế. Ông soát lại danh sách những nhân vật có thế lực trong Đảng Cộng hoà, từ Rockefeller đến Reagan và Connally, xem ai có khả năng cầm đầu Đảng Con Voi để chọi với Đảng Con Lừa.

Nixon nhấn mạnh với Kissinger trước khi ông này đi Liên Xô rằng:

“Điều tiên quyết là phải có một giải pháp cho vấn đề Việt Nam trước khi thảo luận mọi vấn đề... Tôi định huỷ bỏ Hội nghị cấp cao trừ phi chúng ta có được một sự cam kết chắc chắn của người Nga công bố một thoả thuận chung ở Hội nghị cấp cao dùng ảnh hưởng của cả hai bên để kết thúc chiến tranh” (R.Nixon. Hồi ký Sđd tr 602.).

Chiều 1 tháng 5, khi tướng C.Abrams, Tư lệnh Lầu Năm Góc ở Phương Đông, báo cáo về Nhà Trắng rằng "Quảng Trị đã rơi vào tay cộng sản" thì cả Nixon và những Cố vấn có mặt của ông đều lặng đi. Ông bảo Kissinger rằng:

"Chúng ta phải nói cho người Nga biết rằng tôi muốn huỷ bỏ Hội nghị cấp cao nếu họ nghĩ rằng chúng ta phải trả bằng cái giá thất bại ở Việt Nam... Trong bất cứ trường hợp nào tôi sẽ không dự Hội nghị thượng đỉnh nếu chúng ta còn bị khó khăn ở Việt Nam".

“Tôi không thể dự Hội nghị cấp cao và chạm cốc với Brêgiơnép khi xe tăng Xô viết chạy ầm ầm qua Huế hay Quảng Trị, Hội nghị cấp cao chẳng đáng một trinh, không cần mua bằng thất bại ở Việt Nam" (R.Nixon. Hồi ký. Sđd, tr.593,594-595, 601, 609.).

Rồi Nixon biên thư cho Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Liên Xô rằng trang bị của Liên Xô đang cung cấp các phương tiện cho Việt Nam Dân chủ Cộng hoà hành động và đòi Liên Xô chấm dứt viện trợ cho Việt Nam.

Việt Nam hiểu rằng đối với Liên Xô dẫu sao vấn đề Việt Nam cũng chỉ là vấn đề lớn hơn ở sát nách mình, như vấn đề Trung Quốc, Trung Đông và châu Âu nữa. Và vì vậy khi Nixon đã hoà hoãn với Trung Quốc thì Liên Xô không thể tiếp tục việc hoà dịu với Mỹ bắt đầu từ thập kỷ 60. Nixon nói nhiều đến việc huỷ bỏ Hội nghị thượng đỉnh, điều đó có thật lòng ông ta nghĩ như vậy không? Có điều chắc chắn Nixon muốn ghi dấu ấn vào cái mốc lịch sử trong quan hệ Đông - Tây, điều chưa từng có khi chuyến viếng thăm Matxcơva của Tổng thống Eisenhower bị huỷ bỏ do việc Mỹ cho máy bay U2 do thám Liên Xô và bị bắn rơi.

Ngày 20 tháng 5 năm 1972, Nixon lên đường sang Matxcơva. Trên máy bay Kissinger nói với ông ta rằng: “Đây là một trong những đòn ngoại giao lớn của mọi thời đại" (R.Nixon. Hồi ký. Sđd, tr 543, 594, 595, 601, 602, 609.).

Hà Nội tỏ ra không đồng tình trước việc Liên Xô đón Nixon. Hà Nội cũng không đồng tình với lập trường của Liên Xô về vấn đề Việt Nam được nêu ra trong thông cáo chung của hai bên: Không nói gì đến việc Mỹ phong toả miền Bắc, tỏ thái độ không mạnh đối với việc họ ném bom ồ ạt trở lại miền Bắc Việt Nam.

Thực tế Việt Nam đã trở thành món hàng mặc cả để giữ thế cân bằng lực lượng giữa các nước lớn ở Đông Nam Á.

Sau chuyến đi của Tổng thống Mỹ sang Matxcơva, ngày 11 tháng 6, đoàn Mỹ gửi công hàm cho đoàn ta ở Paris đề nghị nối lại cuộc gặp riêng vào 28 tháng 6.

Từ ngày 14 đến 17 tháng 6, Chủ tịch Xô viết Tối cao Liên Xô Pôtgotnưi sang Hà Nội, thông báo cho ta biết kết quả cuộc đi thăm của Nixon ở Matxcơva, đồng thời thăm dò ý kiến ta. Liên Xô muốn tuyên truyền cho chuyến đi này để chứng minh cho dư luận thấy việc đón Nixon là đúng, Matxcơva và Hà Nội vẫn có quan hệ chặt chẽ. Nhưng Hà Nội chỉ đưa tin khi chuyến đi đã kết thúc.

Ai cũng thấy rằng cuộc gặp riêng mà phía Mỹ đề nghị và việc Pôtgotnưi sang ta liên quan với nhau. Hà Nội điện cho Xuân Thuỷ chưa vội trả lời, đợi hiểu rõ ý đồ của Mỹ sau khi Chủ tịch Xô viết Tối cao Liên Xô sang Hà Nội.

Hà Nội cũng điện thêm cho Xuân Thuỷ: ta có thể hẹn gặp vào trung tuần tháng 7 sau khi Hội nghị Kléber họp phiên thường lệ. Ta vẫn đòi họp Hội nghị công khai trước khi gặp riêng.

Lúc ấy Cố vấn Lê Đức Thọ đang ở Xôphia dự Đại hội Đảng Cộng sản Bungari đã được mời về gấp dự Hội nghị Bộ Chính trị. Xuân Thuỷ cũng về dự họp.

Ngày 14 tháng 6 tại Paris, phía Mỹ lại trao cho ta một bản ghi nhớ hoãn cuộc họp thường lệ đó "Vì hành động quân sự của Bắc Việt Nam vẫn tiếp tục. Còn các phiên họp sau sẽ do các yếu tố xác đáng quy định”. Họ không đưa ra một ngày cụ thể nào họp lại.

Ngày 20 tháng 6, Võ Văn Sung trao cho đại tá Guay, người liên lạc của Mỹ, trả lời của ta cho công hàm 11 tháng 6 của Mỹ, trong đó có đoạn viết:

"Với thiện chí của mình, phía Việt Nam Dân chủ Cộng hoà đồng ý gặp riêng và cho rằng cần phải họp lại các phiên họp toàn thể của Hội nghị Paris như thường lệ làm cơ sở cho việc gặp riêng như đã thoả thuận trước đây.

Từ nay đến hết tuần đầu tháng 7, Cố vấn Lê Đức Thọ và Bộ trưởng Xuân Thuỷ đã có chương trình làm việc từ trước tại Hà Nội. Do đó Cố vấn Lê Đức Thọ và Bộ trưởng Xuân Thuỷ sẵn sàng gặp riêng Tiến sĩ Kissinger tại địa điểm chậm nhất là ngày thứ năm 15 tháng 7 năm 1972".

Đại hội Đảng Dân chủ Mỹ năm đó họp vào tháng 7. Ta không ủng hộ Nixon bằng cách gặp đại diện của ông ta trước hoặc đúng ngày hôm đó và cũng để dư luận rõ ta không can thiệp vào bầu cử ở Mỹ.

Hôm 11 tháng 6, khi chuyển công hàm cho ta, đại tá Guay nói thêm với Võ Văn Sung: "Từ ngày 29 tháng 6, Kissinger đi vắng bốn tuần sang California làm việc với Nixon”. Nhưng khi nghe đọc công hàm của ta hẹn gặp vào ngày 15 tháng 7, Guay nhắc lại chuyện đó và nói:

- Nay các ông lại đưa ra ngày 15 tháng 7 là rơi vào đúng bốn tuần lễ đó.

Võ Văn Sung đáp:

- Tôi đã chuyển lời nói thêm của ông hôm trước về Hà Nội.

Guay:

- Như vậy là Hà Nội đã biết điều đó. Tôi chỉ hỏi lại ông thế thôi. Còn nhiệm vụ của tôi là chuyển công hàm này. Có gì tôi sẽ gọi cho ông.

Ngay trưa hôm đó (20 tháng 6) viên đại tá Mỹ lại gặp Võ Văn Sung và trao công hàm của Mỹ cho ta chấp nhận việc gặp riêng nhưng xin lui lại đến 19 tháng 7 năm 1972. Họ cũng đồng ý họp Hội nghị toàn thể ngày 13 tháng 7.

Sự nhanh nhạy này của Mỹ cho thấy rõ ý nghĩa của nó.

Chuyển sang chiến lược hoà bình

Từ cuối tháng 6 đến đầu tháng 7 năm 1972, Bộ Chính trị Trung ương Đảng Lao động Việt Nam họp liên tục để đánh giá tình hình một cách toàn diện.

Trong hơn ba tháng liên tục chiến đấu dẻo dai, vượt mọi hy sinh gian khổ, quân và dân ta đã giành được những thắng lợi to lớn: tiêu diệt một bộ phận sinh lực địch, phá tan các tuyến phòng ngự kiên cố nhất của địch, tiến sâu vào hậu phương của chúng, lập được những vùng giải phóng mới rộng lớn không những ở rừng núi mà còn ở đồng bằng Khu V và đồng bằng Nam Bộ, thiết lập được những nơi đứng chân vững chắc cho các đơn vị chủ lực ở các địa bàn chiến lược. Lực lượng chính trị, cơ sở quần chúng và du kích cùng bộ đội địa phương được sự hỗ trợ của bộ đội chủ lực phát triển nhanh chóng. Chương trình bình định của địch bị phá vỡ từng mảng lớn, cơ sở nhân dân được phục hồi và cúng cố. Vùng kiểm soát của Chính quyền ta được mở rộng.

Tóm lại, tuy chưa giành được thắng lợi căn bản, cục diện chiến trường đã có một hình thái mới có lợi cho Việt Nam tạo cho cách mạng miền Nam phát triển cuộc đấu tranh một cách vững chắc sau này.

Quân Mỹ còn lại rất ít, nếu chúng rút hết đi thì cách mạng miền Nam có thuận lợi đối phó riêng với quân Nguỵ.

Ở miền Bắc, ta đã đánh thắng một bước quan trọng trong cuộc chiến tranh phá hoại lần thứ hai của đế quốc Mỹ, giữ vững và mở rộng tuyến tiếp tế vào miền Nam.

Tóm lại, thế của Việt Nam là thế thắng vững vàng, tương quan lực lượng đã thay đổi và sẽ thay đổi có lợi cho cách mạng.

Lực lượng Mỹ và Chính quyền Sài Gòn tuy có tổn thất nhưng đã được bổ sung và đang giằng co quyết liệt với Chính phủ Cách mạng Lâm thời. Chúng vẫn giữ được Kontum, An Lộc và các tỉnh lỵ khác và đang cố gắng giành lại Quảng Trị. Tuy nhiên, chỗ dựa chủ yếu là quân Mỹ thì lại ngày càng giảm đi. Đó là nhân tố rất quan trọng có tác động lớn đến tinh thần Quân đội Sài Gòn. Mặt khác, việc Mỹ đánh phá ác liệt và phong toả miền Bắc gây cho ta không ít khó khăn trong việc tiếp nhận viện trợ bên ngoài.

Trên trường quốc tế, cả Liên Xô và Trung Quốc đều muốn Việt Nam giải quyết vấn đề với Mỹ trước hết là về quân sự.

Diễn biến chiến sự trên chiến trường Việt Nam lúc đó cho mọi người thấy Nixon đánh phá ác liệt miền Bắc, phong toả cảng Hải Phòng sau khi đi Bắc Kinh về.

Còn Liên Xô từ tháng 4, Kissinger đã báo cáo với Nixon rằng “Người Xô viết đã không đáp ứng yêu cầu mới nào về trang bị của Bắc Việt Nam" (R.Nixon. Sđd, tr.592). Liên Xô cũng không đáp ứng yêu cầu của Việt Nam chở hàng viện trợ vào Hải Phòng, mà chở vòng vèo qua Trung Quốc.

Trong thương lượng, Chính quyền Nixon đã đáp ứng một yêu cầu cơ bản của ta, không đòi quân miền Bắc rút khỏi miền Nam nữa. Về Chính quyền Thiệu ở miền Nam, họ đã lùi một bước chấp nhận Thiệu từ chức. Trong điều kiện Mỹ - Nguỵ còn kiểm soát được hầu hết các thành phố và hai phần ba dân số, ta chưa đánh bại đối phương trên chiến trường thì không thể đòi Thiệu từ chức ngay được.

Việc chạy đua vào Nhà Trắng lại đang thúc bách Nixon. Đó là cơ hội tốt cho ta.

Xuất phát từ thực tế đó, Hà Nội đã đi đến quyết định chuyển hướng chiến lược: “Từ chiến lược chiến tranh sang chiến lược hoà bình”. Đó là một bước ngoặt trong chỉ đạo cách mạng miền Nam.

“Theo nhận định lúc đó của Hà Nội: Việt Nam cần phát huy thế thắng, thế vững vàng và chủ động, từ nay đến trước bầu cử Tổng thống Mỹ, lợi dụng mâu thuẫn nội bộ Mỹ và các nước khác để giành một bước thắng lợi quan trọn, kết thúc chiến tranh, chuyển sang một phương thức đấu tranh mới, lấy đấu tranh chính trị là chính, tiếp tục đưa cách mạng miền Nam tiến lên một bước mới, đồng thời ra sức nhanh chóng khôi phục kinh tế miền Bắc và xây dựng miền Bắc xã hội chủ nghĩa vững chắc... Trong mấy tháng tới Việt Nam có khả năng buộc Mỹ chấp nhận một giải pháp vững chắc đối với ta, đồng thời ta vẫn chuẩn bị khả năng chiến tranh kéo dài đến sau 1972” (Thư của Nguyễn Duy Trinh gửi Thủ tướng Phạm Văn Đồng.).

Sau này, ngày 14 tháng 11 năm 1988, nói chuyện với một số cán bộ phụ trách tổng kết Hội nghị Paris, Lê Đức Thọ nói:

“Giữa quân ta và Mỹ có mấy vấn đề, đối với Mỹ vấn đề cơ bản là rút quân mà vẫn giữ được ngụy quyền miền Nam. Còn đối với ta, vấn đề cơ bản nhất là Mỹ rút quân còn quân ta thì đâu cứ ở đấy. Nhưng đã ngồi vào đàm phán thì làm sao mà giành được trên chiến trường, làm sao anh đòi tất cả về anh cũng như nó đòi tất cả về nó được. Vấn đề đặt ra là phải có nhân nhượng, nhưng nhân nhượng gì và cái gì không thể nhân nhượng... Vấn dề quân Mỹ ra khỏi miền Nam và quân ta giữ nguyên trong đó là điều hết sức cơ bản và quan trọng, làm cho tương quan lực lượng trên chiến trường thay đổi có lợi cho ta về cơ bản... Ta đòi Mỹ rút hết Quân đội của Mỹ, nhưng Mỹ không đòi rút hết Quân đội của mình nữa. Lúc bấy giờ Mỹ đã thua nặng ở Campuchia, đường 9 Nam Lào rồi thì không có cách gì mà không đi vào giải pháp, nên không thể giữ nguyên như trước.

Để ép ta đi vào giải pháp có lợi cho Mỹ, năm 1972 Mỹ đã gặp Trung Quốc, Liên Xô nhằm tranh thủ hai nước lớn này giảm giúp đỡ cho ta xuống mức thấp nhất để ngăn chặn ta đánh mạnh ở miền Nam. Ý đồ chiến lược của Mỹ là như vậy. Nixon sang Trung Quốc, Liên Xô không thể không mời Nixon để Nixon đừng đi quá xa với Trung Quốc chống Liên Xô. Còn Mỹ đặt ra là làm sao để các nước anh em giảm viện trợ cho Việt Nam nhằm hạn chế thắng lợi của ta. Cái mấu chốt chính của nó là ở đó...".

Sau khi nêu những khó khăn của tình hình quốc tế đầu năm 1972 đối với cuộc kháng chiến của Việt Nam, Lê Đức Thọ nói tiếp:

“Tình hình quốc tế như vậy mà ta vẫn thắng ở Campuchia, ở đường 9 Nam Lào. Viện trợ giảm nh