Chương 7 .
Cuộc hẹn ngày 19 tháng 7: Bước chuyển
Trong những tháng hê năm đó, chiến sự ở miền Nam có vẻ lắng dịu. Quân nguỵ Sài Gòn, với sự trợ giúp của không, hải quân Mỹ vẫn ra sức nhằm phản kích chiếm lại các vùng đã mất, nhất là Quảng Trị, nhưng vẫn không thành công. Lực lượng của ta cũng không giành được thêm thắng lợi lớn. Địch vẫn giữ được An Lộc.
Nhưng nội tình nước Mỹ vẫn không ổn định. Những bước leo thang của Nixon đã bị dư luận Mỹ và phe đối lập chỉ trích mạnh mẽ. Họ gọi đó là “một hành động quân sự vô ích trong lúc tuyệt vọng - một hành động mất danh dự". Rất nhiều giám đốc các trường Đại học bày tỏ sự lo ngại của họ không thể ủng hộ một sự nghiệp quá mất lòng dân. Việc ném bom vào các đê điều càng bị lên án gay gắt.
Đợt rút quân phụ tuyên bố hồi tháng 5 đã hết, Nixon phải tuyên bố thêm một đợt rút quân mới 10.000 người bắt đầu từ tháng 7.
Tại Quốc hội, ở Thượng viện cũng như Hạ viện, nhiều dự luật đã được đưa ra đòi Nixon rút hết quân về nước với điều kiện duy nhất là lấy được tù binh. Xu hướng này ngày càng tăng, chiếm đa số trong các thượng nghị sĩ Mỹ.
Họ chỉ muốn Mỹ rút đi, còn chiến tranh có tiếp diễn hay không là chuyện của Sài Gòn và đối phương của họ.
Ngày 10 tháng 7, Thượng nghị sĩ Mac Govern, người chủ trương chấm dứt dính líu không điều kiện ở Việt Nam và chấm dứt viện trợ quân sự cho Sài Gòn, được Đại hội Đảng Dân chủ đưa ra tranh cử Tổng thống. Nixon đứng trước một cuộc chạy đua gay gắt vào Nhà Trắng.
Cuộc họp giữa Cố vấn Lê Đức Thọ và Bộ trưởng Xuân Thuỷ với Tiến sĩ Kissinger hôm 19 tháng 7, vẫn ở số nhà 11 phố Darthé, trong căn buồng có cửa sổ nhìn ra ngoài vườn. Hai bên có lý do để tỏ ra vui mừng khi gặp nhau. Cố vấn Nhà Trắng tươi cười hơn lần trước có lẽ vì tình hình chiến trường không quá đỗi bi đát như ông ta nghĩ hồi tháng 4 và 5. Còn Lê Đức Thọ và Xuân Thuỷ hết sức phấn khởi về thế trận mới ở miền Nam và vừa nhận được hướng dẫn rõ mục tiêu đấu tranh từ tối đa đến tối thiểu về quân sự, chính trị các vấn đề sách lược cụ thể và cả về cách tiến hành đàm phán.
Cả hai bên đều tỏ ra hữu nghị, bắt tay nhau.
Kissinger chủ động đề nghị hai bên đưa tin về cuộc gặp này mà không nói gì đến nội dung, với lý do rằng các phóng viên theo dõi ông rất chặt chẽ suốt hai mươi tư giờ. Thật ra đây là thủ đoạn mập mờ để phục vụ tuyển cử ở Mỹ đã bước vào thời kỳ sôi động. Rồi ông ta đọc dự thảo bản tin sẽ công bố ở Washington vài giờ tới. Từ hôm đó cho đến các cuộc họp sau Kissinger đều đưa ra yêu cầu này mỗi khi họp riêng. Hôm ấy Lê Đức Thọ và Xuân Thuỷ đồng ý, nhưng sau cuộc họp đoàn ta thấy rằng nhẽ ra ta không đồng ý thì hơn vì Mỹ sẽ lợi dụng việc ta đồng ý để gây ảo tưởng trong dư luận. Ta không đồng ý thì Mỹ cũng công bố, nhưng trách nhiệm thuộc về họ. Và từ lần sau, Xuân Thuỷ đã bác bỏ đề nghị đó của Kissinger.
Tiếp đó Kissinger lại đề cập đến các tin tức về việc ta thả tù binh cho phe đối lập, có ý ngăn cản ta về việc này nhưng ông ta mất công vô ích.
Kissinger nói rằng ông đến gặp ta lần này trong một cố gắng cuối cùng nhưng trước khi đi vào nội dung, ông ta đã có một bản thuyết trình dài. Ông ta kể rằng Mỹ đã giải quyết được những vấn đề rất quan trọng với các nước khác, thậm chí với những nước hai mươi năm nay không có quan hệ gì với Hoa Kỳ, hoặc những nước đã đối địch hàng chục năm với Hoa Kỳ. Các nước đó đã chú ý giải quyết không những vấn đề hiện nay, mà cả những vấn đề sau này. Và khi Hoa Kỳ đã làm việc đó Hoa Kỳ rất thận trọng cố giữ lời cam kết. Nhưng ông ta cũng thanh minh ngay rằng ông ta không bàn vấn đề Việt Nam với các nước đó. Ông nói rằng Hoa Kỳ đạt được kết quả ở Bắc Kinh và Matxcơva vì có sự tin cậy lẫn nhau tối thiểu... cuối cùng ông ta nói Hoa Kỳ nghiêm chỉnh muốn chấm dứt chiến tranh Việt Nam.
Kissinger không quên đổ lỗi cho ta cho đến nay dùng đàm phán không phải để giải quyết mà cốt để gây sức ép trong dư luận, còn trong gặp riêng thì tìm cách làm cho Mỹ có nhân nhượng bí mật điều mà không chịu nhận công khai.
Kissinger nói rằng Việt Nam vẫn hiểu lầm về mục đích của Mỹ. Ông ta thừa nhận rằng đúng là từ trước tới nay Hoa Kỳ có ý định tách vấn đề quân sự và vấn đề chính trị nhưng không phải Hoa Kỳ tìm cơ hội để trở lại Việt Nam, không tìm cách kéo dài mãi chiến tranh mà chỉ tìm cách tách vấn đề Mỹ tham gia trực tiếp vào Việt Nam khỏi vấn đề chính trị là với ý định sau này giải quyết vấn đề chính trị ở Việt Nam là tuỳ thuộc vào điều kiện Việt Nam chứ không phải tuỳ thuộc vào hành động của Mỹ. Hoa Kỳ làm việc đó rất chân thật chứ không phải vì Hoa Kỳ muốn trở lại Việt Nam.
Kissnger cũng cho rằng Việt Nam đã bỏ lỡ thời cơ năm 1971, bỏ lỡ cơ hội ngày 2 tháng 5 vừa qua, lúc đó tình hình quân sự của Việt Nam tốt hơn bây giờ, mà thế quân sự tốt hơn thì khả năng về chính trị cũng tốt hơn. Ông ta nhắc lại Mỹ không phản đối các mục tiêu của Việt Nam nhưng không muốn thực hiện các mục tiêu đó hộ ta
Sau hơn nửa giờ, Cố vấn Nhà Trắng mới tóm lại chính sách của Mỹ ở Việt Nam là muốn tìm một giải pháp. Ông nói:
Trong một thời kỳ mà Hoa Kỳ giảm bớt sự có mặt ở châu Á, không có gì thúc đẩy Hoa Kỳ giữ quân đội, giữ căn cứ, giữ ưu thế chính trị trong góc nhỏ bé của châu Á gọi là Việt Nam này.
Trong khi Hoa Kỳ có thể chấp nhận những Chính phủ không thân Mỹ ở những nước to lớn thì tại sao Hoa Kỳ cứ đòi có Chính phủ thân Mỹ ở Sài Gòn.
Hoa Kỳ có thể chung sống với Bắc Kinh và Matxcơva thì có thể chung sống với Hà Nội được. Sau này Hoa Kỳ không phải là mối đe doạ đối với Việt Nam. Một khi chiến tranh chấm dứt, Hoa Kỳ hoàn toàn có lợi nếu có một nước Việt Nam độc lập, tự chủ, phồn vinh, nhân dân Việt Nam là một nhân tố vĩnh viễn ở Đông Dương, còn Hoa Kỳ thì rời khỏi khu vực này cách xa mười hai ngàn dặm. Hoa Kỳ thành thật muốn thương lượng một giải pháp, giải pháp đó tôn trọng nền độc lập của Việt Nam và đáp ứng những quan tâm hợp lý của Việt Nam.
Hoa Kỳ quan tâm đến một khu vực Đông Nam Á độc lập và trung lập chứ không quan tâm đến những căn cứ hoặc những khối liên minh với Mỹ. Hoa Kỳ không gắn bó với một nhân vật chính trị cụ thể nào ở Nam Việt Nam. Hoa Kỳ sẵn sàng để cho tình hình chính trị ở Nam Việt Nam tiến triển một cách tự nhiên không có sự có mặt của Hoa Kỳ hoặc bị ảnh hưởng bởi ưu thế của Hoa Kỳ.
Sau khi đã nêu lên các nguyên tắc trên, Kissinger đề ra một điều tất yếu là không bên nào được áp đặt một giải pháp quân sự cho bên kia. Kết quả chính trị ra sao để cho nhân dân Nam Việt Nam quyết định, việc Mỹ rút ra không phải chỉ là một hành động quân sự mà còn là một quyết định chính trị có ảnh hưởng chính trị sâu sắc ở Đông Nam Á.
Ông ta còn nói thêm rằng bất cứ cố gắng nào nhằm lợi dụng cuộc đàm phán này để ảnh hưởng đến cuộc bầu cử ở Mỹ chỉ làm cho một giải pháp chậm lại đến sau bầu cử (Khi hỏi lại thì ông ta nói rõ rằng bất cứ một cố gắng nào nhằm lợi dụng cuộc đàm phán này để ảnh hưởng đến cuộc bầu cử ở Mỹ thì Mỹ sẽ ngừng đàm phán đến sau bầu cử ở Mỹ. Và đến sau bầu cử thì phía Việt Nam cũng không đạt được điều kiện tốt hơn đâu).
Cuối cùng ông ta đề nghị một chương trình làm việc, định ra mục tiêu tổng quát, định ra thời gian biểu cụ thể. Một lần nữa ông ta nói không bên nào có thể đánh lừa được bên kia. Mỹ đã ký được nhiều Hiệp định với Liên Xô trong một tuần ở Matxcơva và đã thực hiện tất cả các điều đã ký kết. Việt Nam đã thử mọi con đường, tại sao không thử con đường này...
Lê Đức Thọ lại nói khá lâu về truyền thống vẻ vang chống ngoại xâm, về quyết tâm của nhân dân ta. Đây là những lời quá quen thuộc và không phải không có tác dụng đối với Kissinger và những người tham dự buổi họp. Ông cũng nêu rõ nguyên nhân đàm phán bốn năm qua không giải quyết được là do Mỹ mở rộng chiến tranh, và đòi Mỹ chấm dứt ném bom và thả mìn phong toả miền Bắc:
- Chúng tôi tự hỏi nếu Mỹ thật sự muốn thương lượng nghiêm chỉnh để tìm ra một giải pháp thoả đáng thì có thể nào Mỹ cứ tiếp tục ném bom và phong toả miền Bắc như vậy... Tiếp tục đánh phá miền Bắc, tiếp tục Việt Nam hoá chiến tranh ở miền Nam thì không khuất phục được chúng tôi, không giải quyết được vấn đề mà càng làm cho Mỹ dính líu sâu vào không biết bao giờ rút ra được... Đã đến lúc các ông cùng chúng tôi cần đi vào thảo luận những vấn đề về thực chất... Việc giải quyết hoà bình phải là trực tiếp giữa chúng tôi và các ông. Các ông tìm những con đường khác và dùng thủ đoạn ngoại giao nào khác chỉ là uổng công vô ích, nhất định không thể giải quyết được.
Lê Đức Thọ tỏ ý nghi ngờ về lòng thành thật của Mỹ trong việc thực hiện các điều đã ký kết. Ông nói:
- Chúng tôi đã thương lượng và ký kết với các ông nhiều lần nhưng các Hiệp định đó đều bị các ông xé bỏ, cho đến cả thoả thuận hồi tháng 10 năm 1968 về chấm dứt ném bom miền Bắc các ông cũng không tôn trọng. Ngay việc nhỏ hơn như việc không công bố các cuộc gặp riêng các ông cũng không bao giờ giữ lời hứa. Chúng tôi đã bị lừa gạt quá nhiều.
Bộ trưởng Xuân Thuỷ tiếp lời Lê Đức Thọ nói một cách tổng quát mục tiêu chiến đấu của nhân dân ta, chính sách của ta đối với Lào và Campuchia, lòng mong muốn có một Đông Nam Á hoà bình ổn định hợp tác với nhau, và chính sách của ta đối với Mỹ sau này. Bộ trưởng cũng nhắc lại sự hợp tác Việt - Mỹ rất tốt đẹp trong thời kỳ chống Nhật, và nói thêm:
- Không phải ngẫu nhiên mà bản Tuyên ngôn Độc lập ngày 2 tháng 9 năm 1945 của Việt Nam Dân chủ Cộng hoà lại bắt đầu bằng câu trích trong Tuyên ngôn Độc lập của nước Mỹ cách đây gần hai trăm năm. Điều đó chứng tỏ ngay khi mới giành được độc lập khi dân tộc Việt Nam bắt đầu một trang sử mới, chúng tôi đã có thiện ý muốn có quan hệ với nước Mỹ trên một cơ sở mới.
Cố vấn Nhà Trắng Kissinger nhắc lại vì tình hình trên thế giới làm cho Hoa Kỳ khi xét đến việc tiếp tục trở lại Việt Nam như trước đây thì không có lý... Hoa Kỳ có trách nhiệm với cả thế giới nên trong khi giải quyết vấn đề Việt Nam, một số khía cạnh Hoa Kỳ phải nghĩ đến hậu quả của sự giải quyết đó đến các khu vực mà Việt Nam không quan tâm.
Về nghi ngờ của ta, Kissinger nói nếu đạt được thoả thuận thì không những Mỹ sẽ tôn trọng lời văn mà cả tinh thần của nó, không những các công thức mà cả mọi khía cạnh của nó.
Trầm ngâm một lát, ông đại diện Tổng thống Mỹ đưa ra việc ngừng bắn tạm thời trong ba, bốn tháng để cho đàm phán có thể tiến triển được, nhưng ông ta lại nói ngay chắc ta không đồng ý.
Đến lúc này ông ta mới đưa ra điều mà ông ta gọi là cố gắng cuối cùng: Đề nghị năm điểm - tháng 7 năm 1972:
1- Ngừng bắn toàn Đông Dương có hiệu lực... trong đó có việc Hoa Kỳ hợp tác gỡ mìn ở cảng và cửa sông miền Bắc.
2- Rút quân Hoa Kỳ và đồng minh bốn tháng, có giám sát quốc tế
3- Trao trả tù binh và thường dân vô tội bắt đầu và kết thúc với việc rút quân Mỹ.
4- Giám sát quốc tế.
5- Các nguyên tắc chỉ đạo việc thương lượng - thực ra là các nguyên tắc về tương lai chính trị nội bộ miền Nam.
Đề nghị này về cơ bản giống như tuyên bố 8 tháng 5 năm 1972 của Nixon cộng thêm một số điểm về chính trị như đề nghị 25 tháng 1 năm đó. Điều đáng chú ý là có ngừng bắn tại chỗ, không đòi quân miền Bắc rút khỏi miền Nam, thả tù binh song song với việc rút quân Mỹ chứ không phải thả tù binh trước tiên như Nixon nói hồi tháng 5.
Lê Đức Thọ nhận xét sơ bộ ngay rằng, những sửa đổi của Mỹ về cơ bản không cụ thể, hay có thể nói không có sửa đổi gì thậm chí cũng có điểm không được nói rõ như trước, như vấn đề Thiệu từ chức, thời gian tuyển cử ở miền Nam Việt Nam. Ông Thọ phê phán:
- So với lời ông phát biểu lúc đầu về thiện chí, về đi vào giải quyết cụ thể thì tôi chờ mãi trong phát biểu của ông thì không có gì cụ thể cả. Thành ra những lời ông nói lúc đầu so với những điều ông vừa trình bày không đi đôi với nhau. Phát biểu của ông ngoài đạo lý chung chung, chưa có gì tích cực.
Ngừng một lát, Lê Đức Thọ nói tiếp:
- Bước đầu này chưa mở ra triển vọng tốt đẹp... Nếu muốn đàm phán có kết quả thì hai bên đều phải tích cực.
Sau bốn mươi lăm phút nghỉ, hai bên trở lại làm việc. Theo yêu cầu của phía Mỹ, Lê Đức Thọ nói lại hai vấn đề nói rõ thêm của ta: đòi Mỹ đưa ra một thời hạn rõ ràng cho việc rút quân và đòi Thiệu từ chức ngay, Chính quyền Sài Gòn phải thay đổi chính sách. Kissinger nêu ra một loạt câu hỏi xung quanh vấn đề này: Từ thời gian Thiệu từ chức, đến thay đổi chính sách thế nào? Giải tán bộ máy kìm kẹp là thế nào? Có giải tán cảnh sát không? Quân đội hai bên sẽ ra sao trước và trong khi thảo luận giữa hai bên? - Thời gian thành lập Chính phủ hoà hợp dân tộc? v..v...
Sau khi được trả lời, Kissinger nhận xét rằng một số điểm Cố vấn đặc biệt Lê Đức Thọ nêu ra là tích cực, một số khác thì mơ hồ, nhất là vấn đề chính trị thì phía Việt Nam lại quá cụ thể.
Lê Đức Thọ:
- Ông cho rằng chúng tôi nói vấn đề chính trị quá cụ thể, chúng tôi lại nhận xét phát biểu của ông về vấn đề này lại quá mơ hồ. Hiện nay những vấn đề giữa chúng ta còn mắc míu là vấn đề chính trị và cách đàm phán. Các ông thì muốn giải quyết vấn đề quân sự rồi ngừng bắn, còn chúng tôi thì muốn rằng giữa chúng ta thảo luận và thoả thuận cả vấn đề quân sự và chính trị xong còn các chi tiết cụ thể sẽ do các bên Việt Nam thảo luận và thoả thuận với nhau, sau đó đi đến ký Hiệp định rồi ngừng bắn.
Kissinger muốn biết ngay các bên Việt Nam là ai, nhưng ông Thọ nói ngay:
- Vấn đề đó lần sau sẽ thảo luận.
Kissinger:
- Nếu như Chính quyền Sài Gòn tồn tại hiện nay là một bên Việt Nam thì sẽ làm dễ dàng cho công việc chúng tôi nhiều lắm.
Hai bên còn trao đổi quan điểm về ngừng bắn và hẹn gặp lại vào 31 tháng 7 hoặc 1 tháng 8. Khi sắp ra cửa, Kissinger còn hỏi lại hai bên có đề nghị gì công khai không, và lấy làm yên lòng khi Xuân Thuỷ trả lời không có gì sẽ đưa ra công khai.
Ngày 26 tháng 7 năm 1972, Lê Đức Thọ và Xuân Thuỷ nhận xét rằng:
1- Nội dung Kissinger tuyên bố về chính sách của Mỹ có thể có ý nghĩa.
2- Về giải pháp cụ thể, Mỹ vẫn giữ lập trường cũ. Nhưng:
a) Đề nghị năm điểm tháng 7 năm 1972 so với đề nghị 2 tháng 5 năm 1972 bớt ngoan cố hơn nhưng về cơ bản là lặp lại đề nghị 8 tháng 5 năm 1972 cộng thêm một số nguyên tắc về chính trị như tám điểm.
Vẫn tách vấn đề quân sự và chính trị, chỉ giải quyết các vấn đề quân sự, còn vấn đề chính trị là then chốt thì lập trường của Mỹ không thay đổi. Mỹ vẫn buộc ta phải nói chuyện với nguỵ quyền Thiệu nhằm rút được sự dính líu quân sự của Mỹ, đưa được tù binh về nước mà vẫn giữ được nguỵ quyền.
Về các nguyên tắc chính trị chung chung, Kissinger không đưa ra gì mới, hỏi nhiều điểm về chính trị ở miền Nam có vẻ như để tìm hiểu nhưng chính là nhằm bác bỏ giải pháp của ta.
Vấn đề chính quyền ở miền Nam là vấn đề khó khăn nhất của giải pháp, đó là do Mỹ ngoan cố giữ nguỵ quyền để bám lấy miền Nam. Đồng thời vấn đề này còn có ý nghĩa chiến lược toàn cầu đối với Mỹ. Hiện nay Nixon lấy ngụy quyền làm công cụ chủ yếu để thực hiện chiến lược mới gọi là học thuyết Nixon của Mỹ. Do đó ngay trong trường hợp Mỹ phải chấp nhận một giải pháp thoả hiệp về chính trị ở miền Nam Việt Nam thì cũng không thể công khai bỏ rơi nguỵ quyền.
b) Ngoài ra Mỹ còn đưa ra phương án ngừng bắn tạm thời bốn tháng toàn Đông Dương để đàm phán chi tiết về giải pháp về Việt Nam, thả một số tù binh bị giam giữ lâu ngày nhưng Kissinger lại nói ngay là chắc Việt Nam không tán thành. Rõ ràng đề nghị này là chuẩn bị những thủ đoạn giúp Mỹ vượt qua thời gian tuyển cử.
3- Về thái độ thương lượng. Nói chung Kissinger muốn mềm dẻo nhưng mặt khác vẫn đàm phán trên thế mạnh. Mỹ cho rằng Việt Nam không có lợi thế bằng thời điểm cuộc họp ngày 2 tháng 5, cho rằng Mỹ đã thành công trong việc tranh thủ Liên Xô, Trung Quốc giảm sự ủng hộ ta về mọi mặt, cho rằng ta muốn giải quyết trước bầu cử - do đó Kissinger đe doạ sẽ ngừng đàm phán đến sau bầu cử tháng 11 năm 1972.
4- Chỗ yếu của Mỹ là sức ép tuyển cử. Ngay từ đầu năm nay, Mỹ đã có nhiều thủ đoạn lừa bịp dư luận Mỹ về vấn đề Việt Nam phục vụ cho tuyển cử. Đặc biệt là từ giữa tháng 6 năm 1972 trở đi Mỹ ra sức ngăn chặn ta lợi dụng tuyển cử, đồng thời ra sức dùng đàm phán để lừa bịp dư luận. Mỹ đề nghị gặp ta ngày 28 tháng 6 để ngăn chặn khuynh hướng chống chiến tranh trong Đại hội Đảng Dân chủ (10 tháng 7). Ta không chịu ngày đó. Cuối tháng 6, Kissinger thông qua Liên Xô đề nghị ta không để lộ nội dung thương lượng cho phe đối lập, tức là Đảng Dân chủ, biết và doạ sẽ tính đến khả năng hoãn thương lượng đến khi cuộc bầu cử kết thúc vào tháng 11 năm 1972.
Trong cuộc gặp riêng ngày 19 tháng 7, Mỹ tìm cách ngăn chặn ta tác động vào tuyển cử, hỏi ta về việc thả tù binh cho phe đối lập, đề nghị ta không tấn công ngoại giao công khai và nhắc lại lời đe doạ là Mỹ sẽ ngừng thương lượng cho đến sau bầu cử nếu ta lợi dụng đàm phán để ảnh hưởng đến bầu cử ở Mỹ. Trong khi đó thì Mỹ lợi dụng gặp riêng để phục vụ cho cuộc vận động tuyển cử, đề nghị công bố các cuộc gặp riêng và ngay việc Mỹ đưa ra đề nghị năm điểm tháng 7 năm 1972 và phương án ngừng bắn tạm thời bốn tháng toàn Đông Dương mặc dầu Kissinger biết chắc ta không đồng ý cũng là để chuẩn bị công bố nhằm lừa bịp dư luận.
5- Về khả năng phát triển của tình hình.
Qua cuộc gặp riêng ngày 19 tháng 7, ta chưa có đủ căn cứ để kết luận là “khả năng Mỹ đi vào giải quyết với giá phải chăng có nhiều”
Trước mắt vẫn có hai khả năng:
a) Vì thất bại của chính sách “Việt Nam hoá chiến tranh" trên chiến trường, vì những khó khăn trong cuộc bầu cử, Tổng thống Mỹ buộc phải nhận một giải pháp có lợi cho ta mà Mỹ có thể chấp nhận được (theo phương án vừa và tối thiểu) trong năm nay.
b) Nixon cho rằng ông ta có thể vượt qua tuyển cử bằng những thủ đoạn lừa bịp, Nixon ngoan cố không chịu giải quyết theo mức tối thiểu của ta. Trong trường hợp này chiến tranh còn kéo dài đến sau năm 1972.
Qua cuộc gặp riêng vừa qua, ta thấy Nixon đi vào đàm phán giải quyết với ta đồng thời ráo riết chuẩn bị dư luận và đổ trách nhiệm cho ta để vượt qua tuyển cử.
Từ nay đến cuối tháng 8 tình hình sẽ phát triển rõ hơn. Nhận xét về cuộc họp, Lê Đức Thọ và Xuân Thuỷ cho rằng:
“Nói chung ta đã tìm hiểu thêm được một phần ý đồ chiến lược của Mỹ tuy chưa đầy đủ để nhận định hướng giải quyết chủ yếu của nó, đồng thời đã làm cho Mỹ hiểu rõ chính sách chung và thiện chí của ta”.
Trong báo cáo cho Nixon về cuộc họp này, Kissinger viết:
“Nếu sự thật là họ không nói gì để loại trừ sự quay trở lại hoàn toàn với lập trường cũ của họ thì thái độ của họ trong cuộc họp đầu tiên này gần đạt tới mức tích cực như người ta mong đợi...
Nếu sau này họ chấp nhận một thoả hiệp điều đó có thể là một cuộc ngừng bắn cộng với những nguyên tắc chính trị trong đường lối của đề nghị của chúng ta ngày 25 tháng 1. Nhưng để cho sự việc được rõ ràng điều này chưa xuất hiện trước cuộc gặp khác. Cũng có khả năng họ dùng cuộc nói chuyện để vạch rõ chỉ có mình Thiệu là trở ngại cho một giải pháp toàn bộ” (H.Kissinger. Ở Nhà Trắng Sđd, tr. 1369.).
Nhận xét của hai bên đều có phần đúng. Nhưng mọi việc chưa phải đã dễ dàng.
Cuộc họp ngày 1 tháng 8: Hai phương án để thăm dò và mặc cả
Để chuẩn bị cho cuộc họp ngày 1 tháng 8 năm 1972, ngày 22 tháng 7, Hà Nội thông báo tình hình cho Lê Đức Thọ và Xuân Thuỷ.
So sánh lực lượng chung ở miền Nam trên chiến trường Đông Dương đang phát triển có lợi cho cách mạng. Nội bộ Mỹ mâu thuẫn gay gắt giữa nhân dân Mỹ và Nixon, giữa hai đảng Cộng hoà và Dân chủ trong vấn đề Việt Nam. Trong việc giải quyết vấn đề Việt Nam so sánh lực lượng ở chiến trường là chính nhưng lúc này vấn đề lợi dụng mâu thuẫn gay gắt trong cuộc bầu cử ở Mỹ rất quan trọng, cần lợi dụng đúng mức sức ép của nhân dân Mỹ và mâu thuẫn giữa hai đảng. Từ nay đến Đại hội Đảng Cộng hoà (ngày 24 tháng 8 ) cần bàn những nguyên tắc lớn trên cơ sở phương án cao và trung bình của ta.
Lê Đức Thọ và Xuân Thuỷ cho rằng:
- Chủ trương của ta là đẩy mạnh đấu tranh trên ba mặt trận: quân sự, chính trị và ngoại giao, tranh thủ giải quyết vấn đề Việt Nam trong năm 1972, chuyển cuộc đấu tranh theo một chiều hướng mới bằng phương pháp đấu tranh chính trị là chính... Mặt khác đề phòng Nixon không chịu đáp ứng yêu cầu tối thiểu của ta, ta cần tích cực chuẩn bị tiếp tục cuộc chiến đấu sau năm 1972.
Trên chiến trường, về mùa mưa hoạt động của ta có hạn chế, địch cố gắng phản công, ta có những khó khăn nhất định trong việc làm cho so sánh lực lượng có lợi hơn cho ta trước khi hết mùa mưa.
Ở Mỹ, cuộc vận động tuyển cử sẽ gay gắt trong hai tháng 9 và 10 năm 1972. Thời điểm mà ta có thể lợi dụng tốt mâu thuẫn giữa hai đảng Cộng hoà và Dân chủ để giành một giải pháp có lợi cho ta là từ tháng 8.
Xuất phát từ nhận định trên, Lê Đức Thọ và Xuân Thuỷ đã đề nghị với Bộ Chính trị:
1- Từ nay đến Đại hội Đảng Cộng hoà, hướng chính của ta trong gặp riêng là bàn những nguyên tắc lớn trên cơ sở những yêu cầu tối đa của ta nhằm thăm dò ý đồ Mỹ và nhằm buộc Mỹ đi vào giải quyết toàn bộ với ta.
Về phía Mỹ có nhiều khả năng từ nay đến đấy, Nixon cũng chưa ngả con bài ra. Nhưng nếu trong thời gian này, Mỹ muốn đi vào giải quyết thì ta cũng không bỏ lỡ thời cơ. Đến Đại hội Đảng Cộng hoà, nếu Nixon chưa chịu giải quyết thì thời cơ để có thể giải quyết là vào khoảng tháng 10.
2- Từ nay đến Đại hội Đảng Cộng hoà, ta cần thảo luận với Kissinger về những phương hướng chung và hướng Mỹ đi dần vào lập trường giải quyết của ta.
a) Ta nói với Kissinger là ta ghi nhận lời tuyên bố của Mỹ trong phiên họp ngày 19 tháng 7.
b) Ta đồng ý với Mỹ muốn giải quyết được vấn đề thì phải gây được tin cậy lẫn nhau. Ta muốn tin rằng Mỹ thật sự tôn trọng và thực hiện những điều tuyên bố trên đây. Nhưng đi vào giải quyết thì những đề nghị 8 tháng 5 năm 1972 cũng như đề nghị năm điểm tháng 7 năm 1972 của Mỹ mâu thuẫn với tuyên bố trên đây. Ta vạch rõ các mâu thuẫn đó, xoáy vào vấn đề Mỹ vẫn duy trì Nguỵ quyền Sài Gòn và thực tế chống lại Chính phủ hoà hợp dân tộc.
c) Ta đưa ra hai cách giải quyết vấn đề cả quân sự và chính trị.
Về quân sự - Mỹ chấm dứt các hoạt động quân sự ở Việt Nam, rút hết quân Mỹ và quân đồng minh trong hai tháng, thả tù binh và thường dân bị bắt trong hai tháng. Mỹ có trách nhiệm hàn gắn vết thương chiến tranh và xây dựng lại hai miền Việt Nam.
Về chính trị - Trong thời gian từ hoà bình lập lại đến khi tổng tuyển cử không bên nào được áp đặt chế độ chính trị của mình, không bên nào thôn tính bên nào, thành lập Chính phủ ba thành phần ngang nhau, bình đẳng với nhau, không do bên nào khống chế, tổng tuyển cử trong vòng 6 tháng (sau khi ký Hiệp định).
Ngay sau khi ký Hiệp định về một giải pháp toàn bộ thực hiện ba việc cùng một lúc: Thiệu từ chức, Chính phủ ba thành phần nhậm chức, ngừng bắn. Lê Đức Thọ và Xuân Thuỷ cũng đề nghị tách các vấn đề ra thành hai loại:
Các vấn đề giữa Mỹ và Việt Nam gồm có: chấm dứt mọi hoạt động quân sự và các lực lượng vũ trang Việt Nam ngừng tấn công quân Mỹ, rút quân Mỹ và đồng minh, thả các quân nhân và thường dân bị bắt. Mỹ có trách nhiệm trong việc hàn gắn vết thương chiến tranh, cam kết tôn trọng các quyền dân tộc cơ bản của nhân dân Việt Nam như Hiệp định Genève năm 1954 qui định, chấm dứt viện trợ cho Chính quyền Thiệu và tôn trọng quyền tự quyết của nhân dân miền Nam.
Các vấn đề nội bộ Việt Nam gồm có: vấn đề thống nhất Việt Nam do nhân dân Việt Nam giải quyết lấy không có can thiệp của bên ngoài, vấn đề nội bộ miền Nam gồm có vấn đề Chính quyền, ngừng bắn giữa hai bên miền Nam... sẽ do các bên miền Nam giải quyết.
Ta sẽ đưa cho Mỹ bản viết nội dung trên. Nếu Mỹ công bố nội dung gặp riêng, ta công bố văn bản này.
Lê Đức Thọ và Xuân Thuỷ đều hiểu rằng: Để giải quyết vấn đề Việt Nam theo yêu cầu của ta, phải giành được một sự so sánh lực lượng có lợi cho ta là chính nhưng đồng thời coi trọng lợi dụng mâu thuẫn địch. Mâu thuẫn hai phe ở Mỹ đang phát triển. Thắng lợi của Mc Govern là bất ngờ đối với mọi người. Cương lĩnh của Mc Govern về Việt Nam và về nội bộ Mỹ là tiến bộ và mạnh. Thắng lợi đó gây thêm khó khăn cho Nixon, Nixon phải tiến hành một cuộc tranh cử gay go.
Ta có thuận lợi hơn trước song song với tiến bộ trên chiến trường để ép Nixon về một giải pháp có lợi cho ta. Nhưng ta cần lợi dụng mâu thuẫn của hai phe cho đúng mức. Làm quá mức thì ta bỏ lỡ thời cơ nhưng nếu làm không đúng mức thì ta không lợi dụng được sức ép tuyển cử có lợi cho phía Việt Nam.
Hai ông cũng cho rằng: Lập trường của Mc Govern và Nixon khác nhau cơ bản là trong thái độ đối với Nguỵ quyền Sài Gòn. Mc Govern đòi chấm dứt viện trợ quân sự cho nguỵ quyền, chấm dứt dính líu về quân sự của Mỹ không điều kiện. Trái lại, Nixon đòi duy trì nguỵ quyền làm điều kiện cho việc dính líu về quân sự của Mỹ ở Việt Nam. Ta cần khéo léo và lợi dụng lập trường của Mc Govern để vạch và ép Nixon. Lập trường của ta trong vấn đề này không thể thấp hơn lập trường của Mc Govern.
Cuộc tranh cử ở Mỹ sẽ gay gắt trong hai tháng 9 và 10. Ta cần lợi dụng thời điểm này có lợi cho ta nhất. Ngược lại, Nixon lại ra sức giảm sức ép của tuyển cử và xoa dịu dư luận để đàm phán có lợi cho họ, để vượt qua tuyển cử mà không giải quyết.
Mặt khác, lúc này Việt Nam rất cần thời gian để bố trí lại lực lượng chuẩn bị cho việc chuyển hướng cuộc đấu tranh. Thời điểm tốt nhất là cuối tháng 9 và đầu tháng 10. Cần đi hai chân, vừa đàm phán với Nixon vừa giữ khả năng gây khó khăn cho Nixon nếu ông ta muốn vượt tuyển cử để lừa bịp, mặt khác chuẩn bị đối phó với những thủ đoạn của ông ta để vượt tuyển cử mà không giải quyết. Đồng thời phải có kế hoạch làm ăn với phe đối lập trong các tình huống khác nhau: Nixon chưa đi vào giải quyết với ta, Nixon đang đi vào giải quyết với ta và tình huống Nixon ngoan cố không chịu giải quyết.
Trong đàm phán cần tỏ cho Kissinger biết ý muốn của Hà Nội, giải quyết với Nixon nhưng đồng thời cũng sẵn sàng chiến đấu lâu dài, đừng để Mỹ hiểu ta sợ, hoãn thương lượng đến sau bầu cử. Ta làm cho Kissinger biết ta không muốn can thiệp vào nội bộ Mỹ nhưng ta không để cho Mỹ lợi dụng đàm phán để lừa bịp trong tuyển cử.
Buổi gặp riêng lần thứ 15 ngày 1 tháng 8 năm 1972 giữa hai bên vẫn diễn ra ở ngôi nhà quen thuộc phố Darthé.
Hôm đó đoàn ta đã chuẩn bị một phương án mới và cách đàm phán để trao cho Mỹ.
Nhưng khi bắt đầu gặp nhau Kissinger lại đòi đưa tin về cuộc họp. Xuân Thuỷ và Lê Đức Thọ bác bỏ ngay với lý do phía Mỹ không giữ lời hứa làm cho dư luận bàn tán nhiều và nhiều cái không đúng.
Tuy nói là vấn đề thủ tục nhưng ý Xuân Thuỷ như đã rõ là không để Nixon sử dụng diễn đàn này phục vụ cho tuyển cử. Tất nhiên nhà hoạt động chính trị nhạy cảm như Kissinger hiểu ngay và tỏ ra bực bội. Ông ta thanh minh và doạ dẫm:
“Nếu các ông không muốn tiếp tục cuộc nói chuyện của chúng ta thì tuỳ các ông. Chỉ có hai cách lựa chọn, hoặc là chúng ta có thể có tuyên bố chung, đó là điều chúng ta đáng lẽ nên làm, hoặc là người ta biết tôi vắng mặt thì chúng tôi có thể xác nhận”.
Lê Đức Thọ nhắc lại do phía Mỹ cứ tiếp tục làm sai nên
“Lần này chúng tôi không thoả thuận công bố như lần trước. Các ông xác nhận như thế nào là tuỳ các ông, chúng tôi nói thế nào là tuỳ chúng tôi, nhưng không nói về nội dung”.
Kissinger tiếp tục thanh minh... doạ sẽ kết thúc cuộc thương lượng. Ông ta nói: Hoa Kỳ không làm tuyên truyền, và thêm:
- Nếu phía Việt Nam muốn biến cuộc bầu cử ở Mỹ thành một cuộc trưng cầu dân ý về vấn đề Việt Nam thì Hoa Kỳ không chịu việc đó.
Kissinger tỏ vẻ cay cú, nói đi nói lại nhiều lần và kéo dài hơn một giờ. Chưa hết, khi kết thúc cuộc họp dài tám giờ hôm đó, ông ta còn nhắc lại nữa.
Đi vào nội dung, Kissinger nhận nói trước, nhưng xin lỗi ngay là ông phát biểu hơi dài.
Ông ta đưa ra một kế hoạch mới mười hai điểm. Trước khi trình bày ông ta bảo đảm lại là Mỹ sẽ tôn trọng mọi sự thoả thuận không những về tinh thần và cả lời văn nữa. Hơn nữa, ông ta còn sẵn sàng bảo đảm với các đồng minh của Việt Nam về việc đó, gắn mối quan hệ quan trọng của Hoa Kỳ với Matxcơva và Bắc Kinh vào thiện chí của Hoa Kỳ ở Đông Dương.
Mở đầu kế hoạch, Kissinger nói:
“Chúng tôi đồng ý cần giải quyết vấn đề quân sự và vấn đề chính trị cùng với nhau”.
Ông ta nói tiếp rằng với cố gắng lấp hố ngăn cách giữa những bất đồng của hai bên và với thái độ thiện chí, phía Mỹ đã chấp nhận hình thức căn bản của đề nghị bảy điểm và hai điểm nói rõ thêm của Việt Nam, và để có thể nhanh chóng đi đến thoả thuận hơn, Hoa Kỳ đã dùng cả cách viết của ta khi nào Hoa Kỳ có thể làm được. Kissinger cười và nhìn Xuân Thuỷ:
- Ông Bộ trưởng sẽ hài lòng vì đã có mười hai điểm rồi.
Xuân Thuỷ:
- Hôm trước ông có năm điểm, bây giờ ông tăng thêm bảy điểm.
Lê Đức Thọ:
- Như vậy nếu tính về con số thì có tiến bộ lớn.
Kissinger tuần tự đọc các điểm. Đọc đến điểm sáu thì thấy Xuân Thuỷ và Lê Đức Thọ trao đổi với nhau, Kissinger nói đùa:
- Hình như phía các ông có sự tranh luận với nhau cái gì. Chúng tôi nghĩ rằng nếu ông Cố vấn và Bộ trưởng cãi lộn nhau thì đó là bước đầu đi đến giải quyết.
Ông ta cười thích thú và thêm:
- Nhưng tôi nghĩ việc đó không thể xảy ra trước ngày bầu cử.
Đọc sang điểm thứ bảy, Kissinger dừng lại và nói:
- Chắc các ông nghe lời lẽ quen tai lắm rồi vì giống câu của các ông..
Đọc xong mười hai điểm, ông ta trao cho ta rồi bắt đầu giải thích:
- Các ông đòi rút toàn bộ lực lượng đồng minh và trang bị của họ và đòi huỷ bỏ các căn cứ, chúng tôi đồng ý và chúng tôi đã làm như vậy. Các ông đòi rút trong thời gian ngắn, chúng tôi đã rút ngắn thời gian đó lại. Bây giờ chỉ còn bốn tháng. Nếu thoả thuận được với nhau trước ngày 1 tháng 9 thì binh sĩ Mỹ cuối cùng sẽ rời khỏi Việt Nam trước cuối năm nay.
Vấn đề chính trị, chúng tôi đã chấp nhận nhiều nguyên tắc về vấn đề này và đã đồng ý xét song song vấn đề chính trị và vấn đề quân sự.
Các ông chủ trương Chính phủ hiện nay phải thay đổi và Chính phủ mới định ra một cơ cấu hiến pháp mới. Chúng tôi xác nhận thể thức đó và cũng chấp nhận hai giai đoạn của nó, chúng tôi long trọng tuyên bố sẽ tôn trọng kết quả của quá trình mà chúng tôi đề nghị. Chỉ một điều mà chúng tôi không làm là định trước kết quả đó ở Paris.
Chúng tôi không nhất thiết đòi phải có một Chính phủ nhất định nào nhưng chúng tôi không muốn ép một Chính phủ nào cho Nam Việt Nam... Các ông đòi chúng tôi tôn trọng quyền tự quyết của nhân dân Nam Việt Nam. Chúng tôi đồng ý với điều đó và sẵn sàng cam kết nghiêm chỉnh tôn trọng diễn biến ở Nam Việt Nam sau khi Hiệp định được ký kết, nghĩa là chúng tôi xác nhận những đòi hỏi của các ông...
Cứ như vậy bằng lời lẽ rất ngọt ngào, người nghe có cảm tưởng Mỹ rất thiện chí... Ông nói tiếp đến bầu cử Tổng thống do một cơ quan độc lập có đại diện tất cả các lực lượng chính trị tổ chức và có giám sát quốc tế... Thiệu đã tuyên bố từ chức từ hai tháng trước tuyển cử và thời gian Thiệu từ chức có thể mềm dẻo...
Các ông đòi bảo đảm tự do dân chủ ở Nam Việt Nam chúng tôi đã đưa vào kế hoạch những bảo đảm về tự do dân chủ. Các ông đòi miền Nam có hiến pháp mới. Chúng tôi đồng ý là sau cuộc bầu cử mới các lực lượng chính trị ở Nam Việt Nam sẽ họp nhau để sửa đổi hiến pháp trong thời gian một năm.
Kissinger kết luận là Mỹ đã đáp ứng mọi khía cạnh của đề nghị chính trị của Việt Nam.
Còn các điểm khác trong đề nghị bảy điểm, Mỹ đã đáp ứng mọi điểm về thực chất của nó!...
Bồi thường chiến tranh, Kissinger nói rằng Hoa Kỳ không chấp nhận được, nhưng sẵn sàng nghiên cứu một chương tình kiến thiết lớn cho cả Đông Dương. Về thời gian thi hành, Kissinger đề nghị: ba tháng sau khi thoả thuận về nguyên tắc, đàm phán xong các chi tiết về việc thi hành các nguyên tắc đó, bốn tháng thì hoàn thành việc rút quân Mỹ, năm tháng sau khi Mỹ rút, thoả thuận các chi tiết về giải pháp chính trị. Cuộc bầu cử có thể diễn ra sớm hơn. Sửa đổi hiến pháp trong một năm...
Lê Đức Thọ hỏi thêm một vài điểm cụ thể nhưng phát biểu tập chung phê phán việc Mỹ ném bom miền Bắc và diễn văn ngày 27 tháng 7 của Nixon ví miền Bắc như phát xít Hít le. Ông Thọ vạch rõ đó là lời vu khống vô đạo lý nhất, ông nói:
- Mỹ có thể đem tất cả sức mạnh của mình để tàn phá nước chúng tôi... nhưng có một điều mà Mỹ không bao giờ làm được là phá tan quyết tâm sắt đá của nhân dân chúng tôi... Chúng tôi cho rằng để cho cuộc đàm phán đó có kết quả tốt, cả hai bên phải tạo những không khí thuận lợi cho việc nói chuyện này.
“Nếu các ông cứ tiếp tục ném bom các thành phố, khu đông dân các công trình thuỷ lợi và đê điều gây ra nạn lụt ở miền Bắc thì chúng tôi không thể ngồi nói chuyện với các ông như hiện nay và các ông phải hoàn toàn chịu trách nhiệm”.
Lê Đức Thọ đòi Mỹ chấm dứt ném bom và thả mìn.
Tiếp đó ông trao cho Kissinger bản ghi nhận các nguyên tắc về chính sách Mỹ mà Kissinger đã nói hôm 19 tháng 7. Ông cũng ghi nhận việc Mỹ đồng ý giải quyết cả vấn đề chính trị và quân sự song song.
Về kế hoạch mười hai điểm của Mỹ, Lê Đức Thọ nhận xét có một vài điểm mới nhưng về cơ bản lập trường về giải pháp của Mỹ vẫn chưa có gì thay đổi, đặc biệt trong vấn đề then chốt là vấn đề chính trị ở Nam Việt Nam.
Trong khi Kissinger chờ đợi những nhận xét khác nữa thì Lê Đức Thọ trình bày kế hoạch mười điểm mới của ta.
Đề nghị mười điểm mới của ta vẫn là phương án cao; đòi Mỹ rút quân trong một tháng, lập Chính phủ hoà hợp dân tộc ba thành phần, có đầy đủ quyền lực đối nội, đối ngoại, xoá bỏ hẳn hai Chính quyền hiện có. Chỗ mềm dẻo là không còn đòi Thiệu từ chức ngay như một điều kiện, mà đồng ý Thiệu từ chức sau khi ký kết Hiệp định toàn bộ. Đề nghị cũng mở ra việc nói chuyện giữa Chính phủ Cách mạng Lâm thời và Chính quyền Sài Gòn khi Hoa Kỳ và Việt Nam Dân chủ Cộng hoà thoả thuận về các vấn đề về nguyên tắc, điều mà trước đây ta không chịu. Đề nghị mới cũng nêu ra trách nhiệm của Chính phủ Mỹ đóng góp vào xây dựng lại hai miền Việt Nam để hàn gắn vết thương chiến tranh.
Trong phần giải thích Cố vấn đặc biệt Lê Đức Thọ nêu ra số tiền 8 tỷ đô la: miền Bắc: 4,5 tỷ, miền Nam: 3,5 tỷ.
Về cách đàm phán ông Thọ nêu ra bốn diễn đàn:
1- Diễn đàn giữa Hoa Kỳ và Việt Nam Dân chủ Cộng hoà thảo luận và giải quyết những vấn đề quân sự và những nguyên tắc cùng nội dung chủ yếu các vấn đề chính trị.
2- Diễn đàn giữa Chính phủ Cách mạng Lâm thời và Chính quyền Sài Gòn sau khi diễn đàn một đã được thoả thuận, sẽ mở ra để thảo luận và thực hiện những điều đã thoả thuận ở diễn đàn một và bàn bạc giải quyết những vấn đề cụ thể về quân sự và chính trị ở miền Nam Việt Nam.
3- Diễn đàn tay ba giữa Việt Nam Dân chủ Cộng hoà, chính phủ Cách mạng Lâm thời và Chính quyền Sài Gòn để giải quyết các vấn đề cụ thể liên quan đến hai miền.
4- Diễn đàn bốn bên giải quyết những vấn đề liên quan đến bốn bên.
Kissinger hỏi một số điểm cụ thể và nhận xét rằng phía ta cũng như phía Hoa Kỳ đã đưa ra một đề nghị có ý nghĩa và không phải như một tối hậu thư. Ông ta cũng thanh minh Hoa Kỳ không đánh vào đê điều. Việc ném bom đê điều không phải là chính sách của Washington. Mỹ không ý định gây nạn lụt ở miền Bắc. Ông ta cũng nhắc lại việc ngừng bắn tạm thời bốn tháng, việc giảm chiến sự. Sơ bộ Kissinger đưa ra một số bình luận về kế hoạch mới của ta.
- Hoa Kỳ sẽ không hoàn toàn rời khỏi Đông Dương nếu còn tù binh Mỹ ở Đông Dương. Hoa Kỳ không chấp nhận việc bồi thường chiến tranh nhưng sẵn sàng có hiểu biết và đóng góp vào chương trình tái thiết ở Đông Dương nhưng chưa cam kết được số tiền vì còn phải chờ ý kiến của Quốc hội Mỹ nhưng sẽ cố gắng để trước khi đàm phán kết thúc có được một con số thực tế để phía Việt Nam xem xét.
Kissinger cũng đồng ý bốn diễn đàn, nhưng chia làm hai bước:
Bước một - Hoa Kỳ, Việt Nam Dân chủ Cộng hoà thoả thuận các vấn đề quân sự toàn Đông Dương và những nguyên tắc về chính trị ở miền Nam Việt Nam, ký hiệp định chung, ngừng bắn.
Bước hai - Người Việt Nam sẽ giải quyết các vấn đề chính trị ở Nam Việt Nam trên cơ sở những nguyên tắc mà Hoa Kỳ và Việt Nam Dân chủ Cộng hoà đã thoả thuận. Bước hai này sẽ làm xong trong ba tháng.
Hai bên hẹn gặp nhau vào ngày 14 tháng 8 năm 1972. Kissinger cho ta biết là sau đó đến tháng 9 mới gặp nhau lại được vì ông ta còn bận họp Đại hội Đảng Cộng hoà.
Cuộc họp ngày 14 tháng 8: Vừa thăm dò vừa vừa mặc cả.
Trong tháng ngày đầu tháng 8, cuộc giành giật giữa hai bên trên chiến trường vẫn diễn ra gay go và quyết liệt. Kế hoạch ba tháng của Mỹ - Nguỵ nhằm chiếm lại những vùng đã mất nói chung vẫn giậm chân tại chỗ. Trong khi đó ở nhiều nơi, nhất là ở đồng bằng Mỹ - Nguỵ mất thêm dân thêm đất. Ở các đô thị, Chính quyền Sài Gòn phải có những biện pháp trắng trợn hơn trong việc đàn áp các nhóm đối lập và phong trào đô thị. Tuy vậy Mỹ - Ngụy vẫn hết sức cố gắng chiếm lại thị xã Quảng Trị và thúc đẩy bình định.
Ở miền Bắc, mức đánh phá của Mỹ vẫn ác liệt liên tiếp oanh tạc các khu đông dân ở hơn hai mươi tỉnh và thành phố, kể cả Hà Nội và Hải Phòng. Mỹ tăng phi vụ B52 quanh Đồng Hới và Vĩnh Linh, đánh một số đê trong ngày 2 và 3 tháng 8 ở Thái Bình, Nghệ An và Quảng Bình, Mỹ tiếp tục đe doạ ném bom phong toả miền Bắc và đe doạ dùng B52 rộng rãi hơn trên miền Bắc.
Mặt khác Mỹ tiếp tục chống đỡ với sự lên án của ta và dư luận rộng rãi về việc ném bom giết hại thường dân, phá đê đập trong mùa lũ gây nạn lụt đồng thời phản kích lại, vu cáo ta tàn sát ở miền Nam.
Dư luận ngày càng nói nhiều đến thất bại của Mỹ trong việc ném bom và phong toả, không ngăn chặn được viện trợ từ bên ngoài vào miền Bắc và từ miền Bắc vào miền Nam, không ngăn chặn được việc tấn công của Việt cộng ở miền Nam, mặc dù tháng 5 năm 1972, Mỹ đã sử dụng một số lượng bom đạn hàng tháng cao hơn tháng cao nhất dưới thời Johnson.
Tại Mỹ và trên thế giới cũng lên án mạnh mẽ việc Mỹ ném bom tàn sát thường dân. Một số chính giới có tên tuổi ở Mỹ lên tiếng tố cáo chính sách của Nixon làm tổn thương đến đạo lý và danh dự của nước Mỹ. Họ cũng công kích Nixon lấy bom đạn và tàn phá làm biện pháp giải quyết chiến tranh nhưng biện pháp đó không đạt được kết quả.
Một bộ phận dư luận cũng cho rằng Nixon tiếp tục ném bom và phong toả miền Bắc để tiếp tục duy trì chế độ Thiệu ở Sài Gòn.
Thượng nghị viện Mỹ trong vòng mười ngày đã hai lần bỏ phiếu với đa số đòi rút toàn bộ quân Mỹ trong vòng bốn tháng với điều kiện duy nhất là tù binh được thả. Tuy đa số trong Hạ viện đã bác bỏ những dư luận cho rằng thái độ của Thượng nghị viện phản ánh chiều hướng chung của công chúng Mỹ đòi sớm và dứt khoát chấm dứt dính líu của Hoa Kỳ vào Việt Nam vì bốn năm nay Nixon đã nói đến kế hoạch bí mật chấm dứt chiến tranh nhưng chiến tranh vẫn tiếp diễn.
Nhưng một bộ phận của dư luận vẫn tin luận điệu của Nixon rằng thời gian tới là thuận lợi nhất để thương lượng có kết quả vì Nixon muốn giữ lời hứa để được tái cử, vì Việt Nam có khó khăn do sức ép của Liên Xô và Trung Quốc.
Qua thăm dò dư luận về cuộc chạy đua vào Nhà Trắng, thượng nghị sĩ Mc Govern còn thua kém hơn Nixon. Dư luận cũng tỏ ra bi quan về tình hình thương lượng giữa hai bên ở Paris. Thiệu vẫn tuyên bố rất gay gắt kiên quyết chống cộng, gạt mọi ý kiến cho rằng cộng sản tham gia vào Chính quyền, kêu gọi Mỹ không ngừng bắn tại chỗ và tiếp tục ném bom miền Bắc. Trước tình hình đó dư luận cho Thiệu lo ngại có thể đi đến thoả thuận về một giải pháp bất lợi cho Thiệu.
Trên thế giới, ngày 10 tháng 8 năm 1972, Hội nghị các nước không liên kết họp ở Georgetown công nhận Chính phủ Cách mạng Lâm thời là thành viên chính thức của phong trào.
Tóm lại, tình hình có thuận lợi cho ta, nhưng cũng chưa cấp bách cho Nixon, nhất là trên chiến trường, và cuộc bầu cử cũng chưa đến điểm cao.
Chúng ta cho rằng sau Đại hội Đảng Cộng hoà, tuỳ tình hình chiến trường và bầu cử ở Mỹ, Nixon mới đi vào thương lượng, đi vào giải quyết hay không.
*
* *
Trước cuộc gặp riêng lần thứ mười sáu tại Paris, ngày 5 tháng 8 năm 1972, Mỹ gửi công hàm cho ta đòi đưa tin về cuộc gặp riêng sắp tới xem như một điều kiện cho cuộc gặp đó. Công hàm viết:
“Phía Hoa Kỳ không có lựa chọn nào khác hơn là công bố việc gặp riêng khi cuộc gặp đang diễn ra... Tuỳ phía Bắc Việt Nam quyết định liệu có muốn tiếp tục các cuộc gặp riêng trên cơ sở đó hay không..."
Công hàm ngày 9 tháng 8 của ta trả lời cho Mỹ như sau:
“Rõ ràng phía Hoa Kỳ chỉ chú ý đến việc đưa tin về các cuộc gặp riêng nhằm mục đích tuyên truyền chứ không chú ý đem lại kết quả cho đàm phán".
Mặc dầu vậy, cuộc họp ngày 14 tháng 8 vẫn diễn ra.
Bước vào cuộc họp, Kissinger đã đặt ra vấn đề đưa tin với lý do lần này ông vắng mặt lâu (chiều nay phải đi Thuỵ Sĩ về việc gia đình, ngày mai phải đi Sài Gòn để thăm dò sâu về chính trị...) nhưng không làm thay đổi được ý kiến của Lê Đức Thọ và Xuân Thuỷ về vấn đề này.
Hôm ấy Kissinger trao cho ta ba văn kiện: Tuyên bố về chính sách của Mỹ; một đề nghị mới mười điểm; và văn bản về cách thương lượng. Thực ra là để trả lời các văn kiện tương tự của ta đã đưa ra hôm mồng 1 tháng 8.
Trình bày kế hoạch mới, Kissinger vẫn dùng những lời lẽ ngọt ngào hấp dẫn rằng ông ta đã xem lại từng điểm một trong đề nghị của hai bên và viết lại theo danh từ mà ông tin là hai bên có thể chấp nhận được, trừ vấn đề chính trị còn để trống sẽ bổ sung sau.
Ông nhấn mạnh rằng vấn đề chính trị là trung tâm của các vấn đề đặt ra cho hai bên và nhiệm vụ của hai bên là cùng nhau vượt qua trở ngại đó thông qua một giải pháp phù hợp với những nguyên tắc sâu sắc hai bên.
Ông ta nói tiếp:
- Hoa Kỳ đã làm hết sức để đáp ứng những mối quan tâm hợp lý của Việt Nam, nhưng đến nửa đầu tháng 9 sau khi đi Sài Gòn về mới đáp ứng các đề nghị chính trị của Việt Nam một cách chi tiết.
Trước khi đi vào giới thiệu mười điểm, Kissinger trao cho Lê Đức Thọ bản tuyên bố về chính sách Mỹ gần giống như ông đã nói hôm 19 tháng 7, nhưng lại bỏ lại hai điểm về việc Hoa Kỳ không đòi có một Chính phủ thân Mỹ ở miền Nam và điểm nói về Đông Nam Á.
Trong đề nghị mười điểm mới, Mỹ chỉ nêu vấn đề quân sự nhưng để trống thời hạn rút quân Mỹ. Khi được hỏi, Kissinger nói: Tôi cho đó không phải là vấn đề phức tạp, rồi nói thêm: Có thể là ngắn hơn bốn tháng và dài hơn một tháng.
Xuân Thuỷ châm biếm:
- Trước ông nói bốn tháng còn bây giờ là ba tháng hai mươi chín ngày chứ gì?
Thực ra mười điểm này chỉ là việc sắp sếp lại các đề nghị ngày 1 tháng 8 của Việt Nam và của Mỹ, theo thứ tự của bản Việt Nam, có chỗ lấy hẳn ý kiến của Việt Nam làm ra vẻ đáp ứng yêu cầu của ta và hai bên đã thoả thuận được nhiều vấn đề lớn - nhưng cũng có điểm thụt lùi hơn đề nghị trước của họ.
Kết thúc bản trình bày, Kissinger nêu ra các lĩnh vực mà theo ông hai bên đã đồng ý với nhau về thực chất:
- Việc rút toàn bộ quân Mỹ và quân đồng minh.
- Việc thống nhất Việt Nam do Nam và Bắc Việt Nam quyết định.
- Việc tôn trọng Hiệp định Genève năm 1954 và 1962.
- Đông Dương là một khu vực hoà bình, độc lập, trung lập.
- Một cuộc ngừng bắn tại chỗ có giám sát quốc tế và kiểm soát quốc tế và bảo đảm quốc tế ở trong vùng.
Còn những sự khác nhau giữa hai bên là:
- Thời hạn rút quân và đồng minh - nhưng vấn đề này không phải là không giải quyết được.
- Vấn đề viện trợ quân sự cho Chính phủ Việt Nam.
- Các vấn đề chính trị - lần sau ông ta sẽ trả lời.
- Còn vấn đề tái thiết - Hoa Kỳ không cam kết bồi thường nhưng sẵn sàng đi vào một sự hiểu biết sẽ có một chương trình tái thiết toàn Đông Dương.
Về cách thương lượng, Kissinger đề nghị:
Sau khi Hoa Kỳ và Việt Nam Dân chủ Cộng hoà thoả thuận một vấn đề thì chuyển ngay vấn đề đó cho diễn đàn khác.
Mỹ còn đòi lực lượng vũ trang Việt Nam ở miền Nam sẽ do diễn đàn ba bên ở Việt Nam giải quyết.
Cuối cùng ông ta đưa ra một nhận xét mà ông cho là quan trọng rằng phía Việt Nam có hai cách đề cập khác nhau ở gặp riêng và ở diễn đàn công khai. Ở Hội nghị Kléber phía Việt Nam tạo ra một cảm tưởng rằng hai bên đi vào chỗ bế tắc hoàn toàn nhằm tăng cường sức ép ở Mỹ để chống lại Nixon, trong khi ở gặp riêng Việt Nam lại hy vọng Hoa Kỳ nhân nhượng ở mức tối đa và không muốn tiết lộ điều này ra ngoài mặc dù có tiến bộ đáng kể ở đây.
Trước khi phát biểu, Lê Đức Thọ hỏi Kissinger về tình hình chính trị ở miền Nam trước khi ông đi Sài Gòn. Lúc đầu ông ta không muốn nói nhưng Lê Đức Thọ hỏi lại thì trả lời:
- Tôi thừa nhận thực tế là có hai quân đội mà một trong hai quân đội đó là lực lượng của các ông, còn lực lượng thứ ba tôi công nhận là có nhưng không đặt ngang hàng với hai lực lượng chính kia... Có hai rưỡi.
Lê Đức Thọ liền nắm ngay vấn đề này đòi lập Chính phủ hoà hợp ba thành phần. Sau đó ông Thọ phê phán khá dài nhiều điều Kissinger đã nêu ra.
Bắt đầu ông nói ngay rằng hai bên mới gặp riêng có hai buổi, mới tỏ ra thiện chí chứ chưa có kết quả gì về cơ bản hay tiến bộ đáng kể như Kissinger nói. So sánh lập trường của hai bên còn nhiều điểm khác xa nhau. Vấn đề then chốt là vấn đề chính trị thì hai bên còn xa nhau lắm.
Lê Đức Thọ nói:
- Các ông thừa nhận thực tế ở miền Nam Việt Nam có hai Chính quyền, hai lực lượng vũ trang, ba lực lượng chính trị, mà lại gạt Chính phủ Cách mạng Lâm thời ra ngoài... Đề nghị của các ông là trái với chính nguyên tắc các ông đề ra hôm 19 tháng 7. Nguyên tắc các ông đề ra so với nguyên tắc của chúng tôi chỉ giống nhau về câu chữ, còn cơ bản khác nhau... Các ông muốn duy trì Chính quyền Sài Gòn còn chúng tôi muốn có một chính quyền mới.
Về vấn đề quân sự, hôm nay ông lại đưa việc thảo luận vấn đề quân miền Bắc vào diễn đàn tay ba. Rõ ràng các ông hàm ý đòi quân miền Bắc rút khỏi miền Nam là điều trái với tinh thần, chính trị và pháp lý mà chúng tôi không thể nào chấp nhận được...
Ngoài ra còn những vấn đề như thả tù binh, ngừng bắn toàn Đông Dương, viện trợ quân sự cho Chính quyền Sài Gòn, thay thế vũ khí, trách nhiệm của Mỹ trong việc hàn gắn vết thương chiến tranh... còn nhiều ý kiến khác nhau.
Lê Đức Thọ cũng nêu ra ý đồ của Mỹ trong việc vạch ra hai bước đàm phán là để duy trì chế độ độc tài phát xít ở miền Nam. Trong điều kiện Chính quyền đó tồn tại với đầy đủ bộ máy kìm kẹp trong tay thì cái gọi là cơ quan độc lập để bầu cử và vấn đề tự do dân chủ mà Kissinger nêu ra không eo nghĩa lý gì... Ông Thọ nhấn mạnh:
- Như vậy thì làm sao bảo đảm quyền tự quyết của nhân dân miền Nam Việt Nam được.
Và kết luận:
- Hoa Kỳ không thể dùng đàm phán làm một việc mà lực lượng quân sự khổng lồ của Mỹ mười năm qua đã không làm được.
Kissinger tỏ vẻ thất vọng sau khi nghe Lê Đức Thọ và nói:
- Hoa Kỳ đã có những cố gắng lớn nhưng theo lời phát biểu của Cố vấn đặc biệt Lê Đức Thọ thì chúng ta chưa đồng ý được vấn đề gì cả.
Sau này ông ta thừa nhận Lê Đức Thọ đã đưa ra “nhiều đề nghị khá nghiêm túc... và chúng ta (Mỹ) còn có cơ may để ký kết một nền hoà bình trong danh dự. Nhưng Hà Nội cũng chưa đi quá xa để sau này không thể trở lại đòi hỏi cũ của họ" (H.Kissinger. Ở Nhà Trắng. Sđd, tr. 1392,1379 - 1374, 1386)
Mặt khác ông ta than thở rằng kế hoạch của ông ta đã bị những đề nghị của Lê Đức Thọ làm cho trở nên lỗi thời vô hiệu. Thực tế là kế hoạch đó không bao giờ được thảo luận đến".
Còn Tổng thống Nixon cũng cho rằng “Không có tiên bộ nào" (tất nhiên theo yêu càu của Mỹ - Tác giả).
“Sự thất vọng do thất bại trong thương lượng mà Kissinger thực hiện có thể sẽ tai hại về chính trị... Điều mà chúng ta cần nhất là một kế hoạch cho phép chúng ta hoặc là ngừng cuộc thương lượng hoặc là làm cho nó có hứa hẹn nếu ta tiếp tục" (H. Kissinger. Ở Nhà Trắng Sđd. tr 1375, 1387)
Hôm đó hai bên hẹn gặp lại nhau vào 15 tháng 9 năm 1972. Không ai tỏ ra vội cả.
Kết quả hai tháng thăm dò.
Đánh giá ba cuộc gặp riêng tháng 7 và tháng 8, Lê Đức Thọ và Xuân Thuỷ nhận định:
Vừa qua ta đã nhận định tình hình chung, thế ta và thế đối phương, tình hình Mỹ năm bầu cử, tình hình quốc tế, và càng thấy trên mặt trận thương lượng ta bước vào giai đoạn giải quyết khác với trước đây. Vì vậy qua ba lần gặp riêng vừa rồi ta chủ trương:
- Đưa Mỹ đi dần vào thương lượng thực sự.
- Ta đi từng bước vừa thăm dò vừa tìm hiểu ý đồ c