← Quay lại trang sách

Chương 8 .

Dự thảo Hiệp định ngày 8 tháng 10 năm 1972, một sáng kiến quyết định.

Ngày 30 tháng 9, báo cáo về Hà Nội, Lê Đức Thọ và Xuân Thuỷ cho rằng nên gạt bỏ khả năng cắt đứt đàm phán và đề nghị chủ trương là:

“Để sau tuyển cử ta khó mà buộc Mỹ nhân nhượng hơn những điểm mà ta có thể đạt được trước ngày bầu cử và còn có khả năng Mỹ - Ngụy lật lọng những điều Mỹ thoả thuận với ta trước tuyển cử.

Như Bộ Chính trị đã phân tích, căn cứ vào so sánh lực lượng ở miền Nam Việt Nam, một giải pháp chấm dứt hoàn toàn dính líu của Mỹ vào miền Nam, công nhận có hai Chính quyền, hai Quân đội, hai địa bàn và bảo đảm tự do dân chủ là điều kiện cần thiết để chuyển hình thức đấu tranh đưa cách mạng tiến lên.

Hiện nay có thể đạt được những điều cơ bản trên đây.

Ta có thể tranh thủ thời cơ bầu cử để ép Mỹ đồng thời mở đường cho Nixon bằng cách đưa ra một giải pháp với những yêu cầu nhất cần thiết cần đạt và có thể đạt được, gác những vấn đề phức tạp lại. Như vậy có khả năng tranh thủ Mỹ ký kết chấm dứt chiến tranh vào thời điểm Bộ Chính trị đã định.

Tranh thủ chấm dứt chiến tranh trước bầu cử Mỹ chuyển hình thức đấu tranh là có lợi cho ta.

Hai ông đã đề ra nội dung giải pháp và mức độ cùng khả năng trong các vấn đề:

“1- Về chấm dứt hoàn toàn dính líu của Mỹ, phải đạt được và có thể đạt được. Chỉ còn lại vấn đề Mỹ gắn vấn đề chấm dứt viện trợ cho Ngụy và vấn đề viện trợ cho miền Bắc. Ta giữ lập trường cũ nhưng gạt vấn đề này cho tốt.

2- Về vấn đề nội bộ miền Nam:

a) Công nhận sự tồn tại của hai Chính quyền, hai quân đội, hai địa bàn là yêu cầu cơ bản của ta - có khả năng buộc địch công nhận trên thực tế.

b) Về yêu cầu bảo đảm các quyền tự do dân chủ là yêu cầu quan trọng, chỉ cần đấu tranh ghi thêm tự do tổ chức và tự do cư trú. Còn đòi xoá bỏ luật lệ và thể chế của Chính quyền Sài Gòn thì Mỹ rất khó nhận, ta cần xem xét thêm.

c) Yêu cầu lập Hội đồng hoà hợp dân tộc, Mỹ đã nhận Uỷ ban hoà giải dân tộc có chức năng thực hiện các Hiệp định và tổng tuyển cử, có hệ thống từ Trung ương xuống tỉnh. Ta có thể linh hoạt trong tên gọi và việc cử các uỷ viên để có thể làm ngay sau khi ký kết. Vấn đề cần đạt được là có một tổ chức liên hợp để thực hiện và bảo đảm ngừng bắn.

d) Về tổng tuyển cử, theo ý kiến chỉ đạo là có thể ghi chung chung bầu ra các cơ quan hành pháp, lập pháp hoặc bầu ra các cơ quan quyền lực Nhà nước. Ngoài các yêu cầu trên sẽ đề ra thời hạn hai tháng giải quyết các vấn đề tồn tại thuộc nội bộ miền Nam.

3- Yêu cầu Mỹ bồi thường, có khả năng đạt cam kết riêng. Số tiền 2 đến 3 tỷ như Mỹ tuyên bố.

4- Về Đông Dương, ta có thể thoả thuận với Mỹ quân đội nước ngoài chấm dứt mọi hành động chiến tranh, mọi hành động xâm phạm chủ quyền, an ninh của các nước Đông Dương. Tất cả quân đội nước ngoài rút khỏi Đông Dương.

5- Giám sát quốc tế.

a) Thoả thuận được bốn nước thì tốt, nếu không ngoài Ba Lan và Canađa ra sẽ thỏa thuận sau.

b.) Bộ máy Uỷ ban Quốc tế. Sẽ do bốn bên thoả thuận số tổ và số người. Trong khi chờ đợi thoả thuận tiếp thì nhân viên do Ba Lan và Canađa cung cấp. Việc kiểm soát các vấn đề nội bộ miền Nam do hai bên miền Nam giải quyết, chỉ yêu cầu miền Bắc và Mỹ thoả thuận về số tổ và số người vấn đề liên quan đến các nước Đông Dương do các bên Đông Dương giải quyết.

6- Vấn đề ký kết Hiệp định. Nếu yêu cầu đối phương ký kết các Hiệp định thư như ta đã chuẩn bị thì cũng khó. Có thể đơn giản hoá hoặc bỏ bớt, nếu cần thì bổ sung vào Hiệp định”

Về thời điểm, cách đàm phán và việc Kissinger vào Hà Nội hai ông đề nghị:

“Cuộc gặp riêng ngày 7 - 8 - 9 tháng 10 năm 1972 có thể đạt thêm một thoả thuận - Ta cho Kissinger vào Hà Nội vài ngày sau đó (Lê Đức Thọ không cần về). Việc Kissinger vào có thể tính đến việc ký kết Hiệp định trước bầu cử mà cũng có thể chưa ký văn bản giữa Hà Nội và Mỹ, với bảo đảm là sẽ ký trước ngày 1 tháng 11 năm 1972. Điều kiện Kissinger vào: Mỹ chấm dứt ném bom, thả mìn sông ngòi miền Bắc Việt Nam".

Hà Nội đã họp liên tục nhiều ngày liền xem xét kỹ lưỡng tình hình thế giới, tương quan lực lượng trên chiến trường, dự kiến phát triển tình hình trong tương lai và nhất trí quyết tâm theo đường lối đúng đắn đã vạch ra từ tháng 7.

Cơ quan tham mưu dưới sự chủ toạ của Bộ trưởng Ngoại giao Nguyễn Duy Trinh đã soạn ra dự thảo Hiệp định và một số Nghị định thư cần thiết. Ngày 26 tháng 9, Lưu Văn Lợi trợ lý Bộ trưởng Bộ Ngoại giao, một trong những người dự thảo các văn kiện trên, đã mang các dự thảo cho Paris. Ngày 3 và 4 tháng 10, Bộ Chính trị còn xem lại một lần nữa.

Điện của Nguyễn Duy Trinh ngày 3 tháng 10 gửi đoàn của ta ở Paris viết:

“Hiệp định này nhằm yêu cầu chủ yếu là chấm dứt sự dính líu về quân sự của Mỹ và chỉ nêu ra một số nguyên tắc về vấn đề nội bộ miền Nam".

Ngày 4 tháng 10, Hà Nội thông báo cho Lê Đức Thọ và Xuân Thuỷ như sau:

Ta cần tranh thủ khả năng chấm dứt chiến tranh trước ngày bầu cử ở Mỹ, đánh bại âm mưu của Nixon kéo dài đàm phán để vượt tuyển cử, tiếp tục Việt Nam hoá chiến tranh, thương lượng trên thế mạnh. Ta cần ép Mỹ ký kết một Hiệp định chính thức có ngừng bắn tại chỗ, rút quân Mỹ và thả tù binh. Muốn đạt được mục đích này ta cần chủ động về yêu cầu của giải pháp, nội dung của Hiệp định, thời điểm, cách đàm phán và cách đấu tranh trong cuộc gặp ngày 8, 9 và 10 tháng 10.

Yêu cầu lớn nhất của ta hiện nay là chấm dứt chiến tranh của Mỹ ở miền Nam. Mỹ rút hết, chấm dứt sự dính líu quân sự của Mỹ ở miền Nam và chấm dứt cuộc chiến tranh không quân, hải quân, thả mìn chống miền Bắc. Việc chấm dứt sự dính líu về quân sự của Mỹ ở miền Nam và ngừng bắn ở miền Nam đưa đến việc thừa nhận trên thực tế hai Chính quyền, hai Quân đội, hai địa bàn ở miền Nam Việt Nam. Đạt được yêu cầu này là một thắng lợi có ý nghĩa quan trọng đối với cả hai miền trong điều kiện so sánh lực lượng hiện nay ở miền Nam Việt Nam, sẽ tạo ra một tình hình so sánh lực lượng mới nhất có lợi cho ta. Ngoài yêu cầu cơ bản lớn nhất đó, ta đòi tự do dân chủ ở miền Nam và đòi bồi thường.

Để tập trung mũi nhọn đấu tranh lợi dụng thời cơ ép Nixon để đạt yêu cầu trên đây của ta trước ngày bầu cử, ta cần tạm gác một số yêu cầu khác của vấn đề nội bộ miền Nam.

Những vấn đề ta chưa đạt được trong Hiệp định này là do tình hình chưa cho phép đạt được, dầu ta có tiếp tục đàm phán đến sau bầu cử Mỹ thì ta cũng không đạt được, nếu chưa có sự thay đổi mới trong so sánh lực lượng ở miền Nam Việt Nam. Nhưng nếu chấm dứt được sự dính líu quân sự ở miền Nam thì trong đấu tranh với Nguỵ sau này ta có điều kiện để đạt được các vấn đề đó và giành những thắng lợi lớn hơn.

Dự thảo Hiệp định của Hà Nội dự định đưa ngày 8 tháng 10 là căn cứ vào đề nghị mười điểm của ta ngày 26 tháng 9 và mười điểm của Mỹ ngày 27 tháng 9 gồm 10 chương, 23 điều khoản ngoài Lời nói đầu.

Chương I: Chỉ có một điều khoản là Mỹ tôn trọng các quyền dân tộc cơ bản của Việt Nam: hoà bình, độc lập, thống nhất, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ.

Chương II và III chấm dứt chiến sự ở miền Nam, miền Bắc, ngừng bắn, rút quân Mỹ (trong bốn mươi lăm ngày), trao trả những người của các bên bị bắt.

Chương IV là về thực hiện các quyền tự quyết của nhân dân miền Nam. Chương này, theo điện của Nguyễn Duy Trinh nói trên, gác lại những điều cụ thể về tổ chức cơ quan hoà hợp dân tộc ở miền Nam. Chỉ ghi nguyên tắc về quyền tự quyết, tổng tuyển cử, giừ gìn hoà bình, hoà hợp dân tộc và ghi một câu ngắn "thành lập Chính quyền hoà hợp dân tộc các cấp gồm ba thành phần với nhiệm vụ đôn đốc và giám sát các bên thi hành các Hiệp định ký kết".

Các chương tiếp theo là về vấn đề thống nhất Việt Nam, việc hàn gắn vết thương chiến tranh và khôi phục kinh tế hai miền, Ban liên hợp, Uỷ ban quốc tế, Hội nghị quốc tế, đối với Lào và Campuchia; quan hệ giữa Mỹ và Việt Nam Dân chủ Cộng hoà và các điều khoản khác.

Những điều khoản về quân sự, ngừng bắn, rút quân Mỹ được đề ra rất cụ thể, ký xong là thi hành ngay. Còn các vấn đề chính trị miền Nam thì sau ngừng bắn hai bên miền Nam sẽ hiệp thương để giải quyết. Uỷ ban quốc tế, Nguyễn Duy Trinh còn nói thêm: "Vấn đề này rất phức tạp nên điều gì rất cần thiết mới nói, điều gì chưa thật cần thiết thì đế sau này giải quyết".

Ngoài dự thảo Hiệp định ra, Hà Nội còn chuẩn bị một bản “Thoả thuận về những nguyên tắc thực hiện quyền tự quyết của nhân dân miền Nam" trong đó cụ thể hoá một số các chức năng, cách làm việc của cơ quan hoà hợp dân tộc và hệ thống các cấp.

Yêu cầu của ta trong các vấn đề này là ký được “Hiệp định chấm dứt chiến tranh, lập lại hoà bình ở Việt Nam" vào khoảng 15 tháng 10 năm 1972, cùng lắm có thể kéo dài đến 20 tháng 10. Nếu chậm nữa thì Nixon sẽ vượt tuyển cử mà ta không còn thời gian để chuyển hướng đấu tranh.

Về cách ký kết, chỉ thị ngày 4 tháng 10 cho Paris chỉ rõ: “ta cần chủ động... buộc Kissinger phải tiến hành cuộc gặp riêng tới theo ý đồ của ta”. Theo tinh thần đó, Hà Nội chủ trương ngày 6 tháng 10, đoàn ta gửi trước văn kiện cho Mỹ, buộc Mỹ phải trả lời vào ngày mồng 8, nhưng đoàn ta ở Paris lui lại. Còn văn bản về quyền tự quyết của nhân dân miền Nam, Hà Nội cho Paris biết: "Ký một lúc hoặc sau cũng được, nếu ký được thì tốt, không ký được thì thôi”. Nhưng thực tế sau này ngày 17 tháng 10, ta trao cho Mỹ và cả hai bên cũng không đề cập đến vấn đề đó nữa. Về việc ký kết, Hà Nội chủ trương Việt Nam Dân chủ cộng hoà và Mỹ với sự thoả thuận của đồng minh ký là đủ.

Để rút ngắn thời gian, ta chủ trương không ký các Nghị định thư nữa vì nội dung chính các Nghị định thư đã đưa vào Hiệp định.

Chỉ thị cũng nói thêm:

“Nếu trong cuộc gặp gỡ ngày 8, 9, 10 tháng 10 này ta và Mỹ đạt được thoả thuận cơ bản về nội dung Hiệp định thì ta đồng ý Kissinger vào Hà Nội một vài ngày sau cuộc gặp riêng... để cùng hoàn thành việc giải quyết vấn đề Việt Nam và bàn các vấn đề hai bên quan tâm... với điều kiện là Mỹ chấm dứt hoàn toàn ném bom và thả mìn Bắc Việt Nam".

Hà Nội cũng báo cho Lê Đức Thọ và Xuân Thuỷ chủ trương cần tranh thủ Liên Xô và Trung Quốc đồng tình với ta gây thêm sức ép với Mỹ. Vào khoảng mồng 6 tháng 10 Nguyễn Duy Trinh sẽ đi Liên Xô. Lê Thanh Nghị sẽ đi Trung Quốc thông báo chủ trương của ta và về hai văn kiện ta sẽ trao cho Mỹ (gần cùng một lúc với việc ta trao văn kiện đó cho Mỹ).

Thực tế thì trong ngày 9 tháng 10 tại Matxcơva, Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Liên Xô Brêgiơnép tiếp Nguyễn Duy Trinh và ở Bắc Kinh, Thủ tướng Chu Ân Lai tiếp Lê Thanh Nghị.

Brêgiơnép đánh giá cao chủ trương đưa dự thảo Hiệp định của ta và cho rằng đạt được hai mục tiêu cơ bản chấm dứt dính líu quân sự của Mỹ, công nhận thực tế ở miền Nam có hai Chính quyền là thắng lợi rất quan trọng.

Còn Thủ tướng Chu Ân Lai bày tỏ “đồng tình với sách lược đấu tranh của Việt Nam và hứa quyết tâm ủng hộ Việt Nam”.

*

* *

Gần bốn năm qua, trong điều kiện so sánh lực lượng trên chiến trường miền Nam chưa thuận lợi cho ta, ta kiên trì đòi giải quyết hai vấn đề quân sự và chính trị song song. Đó đúng là chiến lược chờ đợi chưa giải quyết như có lúc Kissinger đã nói. Đến nay ta chủ trương giải quyết vấn đề theo hai bước đầu tiên là vấn đề quân sự và một số nguyên tắc về vấn đề chính trị ở miền Nam, bước hai là để hai bên miền Nam giải quyết các vấn đề nội bộ miền Nam. Chủ trương đó phù hợp với thực tế khách quan ở miền Nam Việt Nam và xu hướng của đa số nhân dân và chính giới Mỹ lúc bấy giờ. Trước đây Kissinger cũng đã đề ra phương hướng tương tự nhưng ta chưa chấp nhận được. Thực tế lúc này đã khác. Sự linh hoạt của Hà Nội đã tỏ ra sáng suốt và đúng đắn.

Đề nghị mới của Việt Nam: không thể bác bỏ được

Tại Paris ngày 29 tháng 9, phía Mỹ gửi công hàm cho đoàn ta nói rằng:

“Phía Hoa Kỳ nhận thấy có những yếu tố mới quan trọng trong đề nghị cuối cùng của Việt Nam Dân chủ Cộng hoà, các yếu tố đang được nghiên cứu hết sức cẩn thận. Tuy nhiên khả năng thực tế làm cho vấn đề tiến bộ có thể bị ảnh hưởng rất lớn nếu có sự tranh luận công khai về những vấn đề này trong lúc tướng Haig còn ở Sài Gòn và trước khi Tiến sĩ Kissinger có thể thảo luận riêng những đề nghị này với đại diện Bắc Việt Nam tại phiên họp tới ngày 7 tháng 10. Phía Hoa Kỳ đồng ý là phiên họp tới sẽ có tính chất rất quan trọng".

Điều mà công hàm nói có sự tranh luận công khai ở đây là do việc báo chí Mỹ và các nước đưa tin Bộ trưởng Xuân Thuỷ phê phán về những đề nghị của Mỹ về Uỷ ban bầu cử và tính chất không thoả đáng của nó.

Thật ra trong phiên họp lần thứ 161 của Hội nghị bốn bên ngày 28 trước đó, Xuân Thuỷ có phê phán Uỷ ban bầu cử độc lập mà Mỹ đưa ra ngày 25 tháng 1 năm 1972 là không có thực quyền.

Nhưng Mỹ lấy cớ đó để gửi công hàm lưu ý ta. Đây là một việc nhằm hai mục đích: ngăn chặn Việt Nam đưa nội dung gặp riêng công khai, nhưng cũng là một động tác giả tỏ cho ta biết tướng Haig đi Sài Gòn để xem xét tình hình như để nghiên cứu đáp ứng yêu cầu của ta. Hôm sau ta trả lời cho Mỹ nói rõ sự việc trên và thêm:

“Phía Việt Nam Dân chủ Cộng hoà cho rằng cuộc gặp trong ba ngày tới đã đến lúc phải quyết định một cách dứt khoát chiều hướng của cuộc đàm phán: hoặc là hai bên thoả thuận được về cơ bản các vấn đề đã được nêu ra thì mới có thể đảm bảo được thời điểm mà hai bên đã thoả thuận là chấm dứt chiến tranh và ký kết Hiệp định toàn bộ vào cuối tháng 10 năm 1972 hay sớm hơn càng tốt; hoặc là hai bên không đạt được thoả thuận, cuộc đàm phán sẽ bế tắc và chiến tranh sẽ tiếp tục thì Mỹ phải hoàn toàn chịu trách nhiệm”.

Ngày 3 tháng 10, phía Mỹ lại báo cho ta rằng vì tướng Haig phải kéo dài cuộc đi thăm ở Sài Gòn nên hoãn cuộc họp từ ngày 7 đến các ngày 8, 9 và 10 tháng 10. Họ cũng xác nhận lại các cuộc họp đó là hết sức quan trọng.

Trong đợt họp ba ngày bắt đầu từ ngày mồng 8 tháng 10, phía Mỹ có thêm tướng Haig (sau này có lúc làm Bộ trưởng Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ) vừa ở Sài Gòn về và bắt đầu bằng những câu chuyện vui. Trước hết là việc Kissinger xin lỗi vì ông hoãn công việc lại một ngày làm cho Xuân Thuỷ không đi Nhà thờ được và nói vui: “Nếu linh hồn các ông không được cứu thì tôi chịu trách nhiệm”.

Xuân Thuỷ nói:

- "Hôm nay trời đẹp mà phải đến đây làm việc vì sự nghiệp hoà bình. Chúng ta cùng xin lỗi Chúa".

Lê Đức Thọ thêm rằng:

- "Chúa cũng muốn hoà bình, không muốn chiến tranh!'.

Câu chuyện chuyển sang việc đua ngựa. Kissinger kể rằng ở trường đua Auteuil của Paris, trên đường ngựa chạy có một quãng có rặng cây che lấp ngựa. Sau rặng cây đó những người đua ngựa quyết định ai thắng ai thua.

Lê Đức Thọ hỏi ngay:

- Chúng ta chạy đua đến hoà bình hay đến chiến tranh?

Kissinger:

- Đến hoà bình và đang ở đằng sau rặng cây.

Lê Đức Thọ:

- Chúng ta vượt rặng cây hay để rặng cây chặn lại?

Kissinger:

- Chúng ta vượt và sẽ đi đến thoả thuận.

Lê Đức Thọ:

- Nếu các ông vượt thì chúng tôi cũng vượt.

Kissinger:

- Cả hai bên đều vượt.

Lê Đức Thọ:

- Hai con ngựa song song.

Kissinger:

- Nhưng vượt qua đã đến đích rồi các ông còn nói chúng tôi chưa cụ thể.

Lê Đức Thọ:

- Chắc chắn như vậy.

Xuân Thuỷ đề nghị bắt đầu làm việc và mời Kissinger phát biểu trước vì lần trước ông hứa nghiên cứu tài liệu của ta và cử tướng Haig đi Sài Gòn.

Kissinger giới thiệu tướng Haig và bắt đầu bằng những lời lẽ quen thuộc về thiện chí, tuyên bố sẵn sàng thảo luận với phía ta, trong bốn ngày liền và đưa một đề nghị mới.. Nhưng cùng như thường lệ, trước khi giới thiệu đề nghị mới, ông bình luận về đề nghị trước của ông ta.

Ông ta nói kế hoạch của ta có hai khuynh hướng. Trước tiên, tất cả các nghĩa vụ về kiểm soát đều nhằm vào phía Mỹ còn phía Việt Nam Dân chủ Cộng hoà thì rất ít nhiệm vụ, có quyền can thiệp không hạn chế vào các nơi trong vùng Đông Dương. Thứ hai, kế hoạch của Việt Nam chỉ nói tới Nam Việt Nam thôi, không có điều khoản nào khác nói tới các nước Đông Dương khác. Lực lượng của ta ở Lào và Campuchia, các chiến khu của Campuchia và Lào sẽ tiếp tục phục vụ các lực lượng của ta ở miền Nam Việt Nam và việc đưa quân đội của ta vào các chiến khu đó không bị hạn chế gì cả.

Ông nói nhiều lần rằng kế hoạch của ta có một số yếu tố tích cực như cơ quan ba thành phần làm việc theo lối nhất trí, có nhiều đảm bảo để không bên nào khống chế được cơ quan đó và chỉ có quyền hạn thi hành các điều khoản quân sự và chính trị và các Chính quyền hiện nay ở Nam Việt Nam vẫn tồn tại...

Ông cũng nhận phía ta có một bước tiến bộ lớn. Tuy nhiên những yếu tố tích cực nói trên không có yếu tố nào có ý nghĩa nếu các nhà cầm quyền hiện nay ở Sài Gòn không có khả năng tồn tại. Những yếu tố đó của ông ta cộng lại với nhau sẽ gây tác động tối đa với cơ cấu chính trị hiện nay ở Sài Gòn, làm cho phía Mỹ lo ngại. Rồi ông kê ra những yếu tố tiêu cực: muốn gạt Thiệu ngay sau khi ký Hiệp định, xoá bỏ hiến pháp Sài Gòn, lập một cơ quan giống như là cơ quan Chính phủ từ Sài Gòn đến xã, muốn Mỹ rút nhanh trong khi lực lượng ta còn ở lại, muốn Mỹ chấm dứt viện trợ cho Sài Gòn trừ vấn đề thay thế vũ khí trong khi không muốn có sự kiểm soát nào đối với viện trợ quân sự cho miền Bắc và cho miền Nam nữa, mà như ông nói nhiều năm nay xe tăng của ta đưa vào miền Nam mà Mỹ không thể nào biết được... Kế hoạch của ta không dự kiến một cuộc ngừng bắn ở các nước Đông Dương.

Ông ta nói rằng nêu ra như vậy không phải đòi ta thoả mãn mà chỉ muốn ta hiểu cần phải đối phó với những vấn đề đó.

Sang đề nghị mới, Kissỉnger nói:

- Về vấn đề chính trị, chúng tôi thừa nhận trên thực tế nguyên tắc cơ bản cho rằng có hai Quân đội, hai Chính quyền và ba lực lượng chính trị ở Nam Việt Nam. Đề nghị của Mỹ thể hiện rõ quan niệm đó. Ngoài ra còn đáp ứng một nguyên tắc cơ bản khác nữa là cần có cơ quan ba thành phần làm trung gian và làm Cố vấn cho cả đôi bên và có thể đóng góp vào việc thi hành các Hiệp định được ký kết. Đề nghị mới của Mỹ hôm đó là một nhượng bộ lớn!

Kissinger nói:

- Hoa Kỳ chấp nhận cơ quan có 12 uỷ viên và đề rõ cách cử các thành phần, vấn đề ai làm Chủ tịch, ấn định một cách chính xác quyền tự do dân chủ, tán thành Uỷ ban sẽ quy định thể thức bầu cử và giám sát bầu cử, vì vậy vai trò của nó bây giờ giống với vai trò Chính phủ hoà hợp dân tộc của Việt Nam.

Tất nhiên Mỹ không chấp nhận đó là một Chính phủ vì theo Kissinger nhiệm vụ Uỷ ban đó không phải là của một Chính phủ và nó chỉ có tính lâm thời. Nếu Việt Nam không đồng ý chữ Uỷ ban thì sẵn sàng xem đó là uỷ hội (commission) và sẵn sàng xem xét đề nghị khác của Việt Nam.

Còn vấn đề đề bầu cử Quốc hội hay Tổng thống thì Kissinger nói chưa thuyết phục được Sài Gòn vì kế hoạch của Việt Nam chưa có đi có lại và còn mơ hồ. Trong đề nghị mới của Mỹ vấn đề này còn để trong dấu ngoặc. Kissinger hứa sẽ dùng ảnh hưởng tối đa của Mỹ đối với Sài Gòn về việc đó và đề nghị gác vấn đề này lại sau.

Ông trình bày tiếp về những điểm mới của Mỹ:

- Chấp nhận và tán thành dùng chữ Thống nhất trong các quyền dân tộc cơ bản của Việt Nam.

- Đưa thời hạn rút quân Mỹ xuống còn bảy mươi lăm ngày nhưng vẫn đòi thực hiện ngừng bắn duy nhất cho các nước toàn Đông Dương. Đề nghị hai bên dùng ảnh hưởng của mình đối với đồng minh của mỗi bên ở Lào - nay các bên đang có nói chuyện với nhau - thực hiện ngừng bắn cùng một lúc khi ký Hiệp định về Việt Nam - rồi có bộ máy kiểm soát để đáp ứng mối quan tâm của Mỹ về các con đường thâm nhập qua Lào. Đối với Campuchia, tuy chưa có nói chuyện giữa hai bên ở đó - nhưng ông đề nghị Việt Nam Dân chủ Cộng hoà và Mỹ cùng dùng ảnh hưởng của mình thuyết phục các vị chỉ huy quân sự Campuchia họp lại để thu xếp một cuộc ngừng bắn.

- Hoa Kỳ cũng chấp nhận việc các lực lượng vũ trang Việt Nam ở miền Nam do các bên Nam Việt Nam giải quyết, nhưng đề nghị khi thực hiện ngừng bắn các bên trao đổi bản kê ghi rõ vị trí các lực lượng của mình ở Nam Việt Nam để làm dễ dàng cho việc giám sát quốc tế đảm bảo rằng các đơn vị dùng vào việc tấn công mùa xuân vừa qua không còn ở Nam Việt Nam nữa.

Ông ta không quên nhắc lại quan điểm của Mỹ rằng Mỹ sẽ không ký kết một văn kiện nói về trách nhiệm của Mỹ trong việc bồi thường chiến tranh, nhưng sẵn sàng tham gia vào một chương trình tái thiết lớn trên toàn Đông Dương. Mỹ sẵn sàng viết cam kết đó trong một tuyên bố đơn phương. Kissinger cũng tuyên bố Mỹ sẽ rút các lực lượng hải quân, các lực lượng đã tăng viện vào Việt Nam mùa xuân vừa qua ra khỏi hải phận Việt Nam như Lê Đức Thọ yêu cầu là cách bờ biển Việt Nam ba trăm hải lý.

Hôm đó, ngoài đề nghị mới, phía Mỹ còn trao cho ta sáu văn kiện trong đó có ba bản nói về việc rút lực lượng ta ra khỏi Lào và Campuchia và việc trao trả tù binh ở hai nước trên. Còn tuyên bố đơn phương của Mỹ về việc đóng góp vào tái thiết Đông Dương thì rất gọn gàng:

"Hoa Kỳ sẽ coi tất cả các nước Đông Dương là đáng được giúp đỡ trong những chương trình tái thiết sau chiến tranh...".

Hôm ấy có một buổi nghỉ trưa tương đối dài.

Quá mười sáu giờ, hai bên họp lại. Lê Đức Thọ mở đầu bằng khen Kissinger đã nêu lên một số điểm về chính trị gần với quan điểm của ta. Kissinger tỏ vẻ chăm chú hơn vì hôm nay có lẽ Lê Đức Thọ khác với mọi hôm (luôn luôn phê phán và chỉ trích như một thày giáo giảng bài cho học trò) - Hôm nay ông Thọ có vẻ cởi mở tươi cười hơn.

Lê Đức Thọ nhắc lại thời điểm hai bên đã thoả thuận và nói:

- ‘Với những vấn đề mà hai bên đã trình bày thì chúng tôi thấy chúng ta khó mà đi nhanh được, khó mà bảo đảm thời điểm mà chúng ta đã thoả thuận”.

Kissinger cũng như tướng Haig và cả đoàn Mỹ chú ý hơn. Ông Thọ nói tiếp:

- Để bảo đảm nhanh chóng chấm dứt chiến tranh lập lại hoà bình và để tỏ thiện chí của chúng tôi, hôm nay chúng tôi đưa ra đề nghị mới về cả nội dung và cách đàm phán rất thiết thực, đơn giản như sau.

Cả đoàn Mỹ lặng im. Lê Đức Thọ dõng dạc:

- Trên cơ sở mười điểm của chúng tôi và của các ông, Việt Nam Dân chủ Cộng hoà và Hoa Kỳ sẽ thoả thuận và ký kết “Hiệp định về chấm dứt chiến tranh, lập lại hoà bình ở Việt Nam" mà chính ông có lúc đã đề nghị. Hiệp định này chỉ nhằm giải quyết các vấn đề quân sự như vấn đề rút quân Mỹ, vấn đề trao trả những người của các bên bị bắt trong chiến tranh, vấn đề ngừng bắn và có kiểm soát và giám sát quốc tế ở Việt Nam bao gồm cả vấn đề Hoa Kỳ chịu trách nhiệm hàn gắn vết thương chiến tranh, khôi phục kinh tế miền Bắc Việt Nam. Còn các vấn đề quân sự và chính trị ở miền Nam Việt Nam thì chúng ta chỉ thoả thuận về những nguyên tắc chính, sau khi ký Hiệp định này thì sẽ ngừng bắn ngay.

Bây giờ thì Cố vấn Nhà Trắng thật sự ngạc nhiên. Ông ta không ngờ rằng điều ông ta đề xuất bốn năm - và nói lại nhiều lần trong ba năm qua thì hôm nay chính Lê Đức Thọ lại chấp nhận.

Ông Thọ nói tiếp:

- Ngoài Hiệp định nói trên, chúng ta sẽ ký một văn bản ghi “Những điều thoả thuận về việc thực hiện quyền tự quyết của nhân dân miền Nam Việt Nam" bao gồm những điểm về nguyên tắc về việc giải quyết những vấn đề về lực lượng vũ trang Việt Nam ở miền Nam mà các ông và chúng tôi đã thoả thuận trong diễn đàn này. Văn bản này sẽ được chuyển cho hai bên miền Nam Việt Nam thảo luận và thực hiện sau khi ngừng bắn.

Đương nhiên Việt Nam Dân chủ Cộng hoà và Hoa Kỳ sẽ tiếp tục gặp nhau để giải quyết những vấn đề tồn tại giữa hai bên hoặc giải quyết những mắc míu ở những diễn đàn nói trên.

Trong khi đưa ra những đề nghị mới này chúng tôi không để vấn đề chính trị miền Nam Việt Nam là vấn đề khó khăn nhất kéo dài cuộc đàm phán của chúng ta nhằm nhanh chóng chấm dứt chiến tranh, đáp ứng nguyện vọng hoà bình của nhân dân hai nước, đồng thời chúng tôi đã chú ý tới những mối quan tâm nhất của các ông...

Từ khi Lê Đức Thọ nói về nội dung cụ thể, Kissinger đã chú ý ghi liên tiếp, nhưng đến đây ông ta vội nói:

- Các ông có đưa cho chúng tôi bản đề nghị này không để tôi khỏi phải ghi?

- Chúng tôi sẽ đưa bản đề nghị đó cho các ông. Lê Đức Thọ trả lời.

Kissinger thở dài khoan khoái. Ông Thọ tiếp:

- Trong đề nghị này chúng tôi không đòi lập Chính quyền hoà hợp dân tộc trước khi có ngừng bắn, mà để hai bên miền Nam thực hiện việc đó chậm nhất trong vòng ba tháng sau ngừng bắn.

Như người vớ được của quý, Kissinger liền hỏi:

- Như vậy vấn đề đó để lại sau này?

Lê Đức Thọ:

- Đúng như vậy. Chúng tôi - ông Thọ nói tiếp - sẵn sàng mở diễn đàn hai bên miền Nam Việt Nam ngay sau khi ngừng bắn mà không đặt điều kiện nào. Như vậy là thời gian Thiệu từ chức cũng có khác trước.

Đến đây thì sự vui mừng lộ rõ trên nét mặt của Kissinger cũng như của các thành viên trong đoàn Mỹ. Lê Đức Thọ nghỉ một lát rồi giới thiệu những điểm chính trong dự thảo Hiệp định:

Điều 1- Về các quyền dân tộc cơ bản của Việt Nam, như vậy đề nghị của các ông với chúng tôi đã thoả thuận. Về vấn đề chính trị miền Nam, trước hết là việc tổng tuyển cử chỉ cần viết một câu ngắn:

“Nhân dân Nam Việt Nam tự quyết định chế độ chính trị của miền Nam Việt Nam qua bầu cử thật sự tự do và dân chủ”.

Sau này hai bên miền Nam Việt Nam sẽ bàn với nhau về bầu cử Tổng thống hay Quốc hội.

Về chính quyền ba thành phần... nếu chúng ta thoả thuận được về quyền lực và nhiệm vụ của nó thì chúng ta có thể tìm ra được công thức thích hợp về tên gọi của nó.

Kissinger hỏi ngay:

- Tổ chức này bắt đầu làm việc từ lúc nào?

Lê Đức Thọ:

- Sau khi hai miền Nam Việt Nam thoả thuận với nhau thì mới thành lập ra tổ chức này và nó bắt đầu làm việc.

Về chức năng của tổ chức này ông Thọ nêu: chỉ đạo, đôn đốc và giám sát việc thi hành Hiệp định đồng thời giải quyết các vụ xung đột giữa hai bên.

Ta đòi tổ chức này có hệ thống đến tận xã.

Trong việc rút quân Mỹ, ta đề ra thời hạn sáu mươi ngày. Như vậy hai bên còn cách nhau mười lăm ngày. Lê Đức Thọ nói:

- Nếu thoả thuận thì đem mười lăm ngày chia đôi ra.

Kissinger hưởng ứng ngay:

- Ông Cố vấn đặc biệt nghĩ đúng như tôi. Tôi có đề nghị đề ra sáu mươi bảy ngày rưỡi.

Lê Đức Thọ:

- Tôi chỉ nói sáu mươi ngày thôi. Đối với chúng tôi mấy ngày không quan trọng. Các ông đã ở lại đất nước chúng tôi trên mười năm mà chúng tôi vẫn đủ sức đối phó với các lực lượng của các ông thì có thêm bảy ngày nữa cũng không sao?

Ông Thọ nói tiếp sang vấn đề viện trợ quân sự: Cả hai bên không được viện trợ cho các bên ở miền Nam Việt Nam kể cả Chính phủ Cách mạng Lâm thời và Chính quyền Sài Gòn. Lê Đức Thọ cũng chấp nhận việc thay thế vũ khí mà phía Mỹ đề ra nhưng nhắc lại nguyên tắc công bằng và thêm: để vấn đề đó cho hai bên miền Nam Việt Nam thảo luận.

Để đảm bảo ngừng bắn, dự thảo Hiệp định đề ra việc thành lập các ban liên hợp hai bên, bốn bên, bên cạnh Uỷ ban Quốc tế.

Lê Đức Thọ nhắc lại những nguyên tắc giải quyết vấn đề lực lượng vũ trang Việt Nam ở miền Nam là trên tinh thần hoà hợp dân tộc, tôn trọng lẫn nhau, không có sự can thiệp của nước ngoài, phù hợp với tình hình sau chiến tranh và giảm nhẹ sự đóng góp của nhân dân - ông nhấn mạnh:

- Chỉ ghi nguyên tắc như vậy thôi rồi các bên miền Nam Việt Nam sẽ bàn với nhau.

Riêng về trách nhiệm của Mỹ, dự thảo Hiệp định ghi Mỹ có trách nhiệm hàn gắn vết thương chiến tranh nhưng Lê Đức Thọ đề nghị ký Nghị định thư về việc này.

Cứ như vậy, ông Thọ giới thiệu các đề nghị về Uỷ ban Quốc tế về Hội nghị Quốc tế, và nhắc lại quan điểm của Việt Nam về Lào và Campuchia.

Khi Lê Đức Thọ dứt lời, Kissinger trân trọng:

- Thưa ông Cố vấn đặc biệt, thưa ông Bộ trưởng, trước hết tôi xin nói rằng tôi hoàn toàn chia sẻ những ý kiến mà ông Cố vấn đặc biệt vừa mới phát biểu. Hai nước chúng ta phải đi tới hoà bình, phải mở ra quan hệ giữa hai nước chúng ta. Mối quan hệ đó sẽ thay đổi tình hình đối địch giữa hai nước chúng ta trong nhiều năm qua. Căn cứ vào lời phát biểu và cách trình bày của ông Cố vấn đặc biệt, tôi nghĩ các ông đã mở một trang sử mới trong thương lượng và có khả năng chúng ta có thể giải quyết sớm.

Kissinger đề nghị tạm nghỉ và khi hai bên họp lại ông ta nói:

- Các ông đã trao cho chúng tôi một văn kiện hết sức quan trọng và rất cơ bản.

Tiếp đó ông đưa ra một lịch công tác:

- Hai ngày tới hoặc dài hơn, hoàn thành văn kiện. Ông ta sẽ về Washington xin ý kiến Tổng thống, sau đó Sài Gòn. Rồi từ Sài Gòn đi Hà Nội, qua Guam để hoàn tất và ký tắt Hiệp định. Ngày 22 tháng 10 là xong tất cả.

Lê Đức Thọ hỏi lại:

- Ngày 22 tháng 10 là xong tất cả, ký kết ở Paris?

Kissinger khẳng định:

- Trung tuần 22 tháng 10 là xong tất cả mọi thứ.

Ông ta còn nhắc lại và nói rõ ký Hiệp định ở Paris vào ngày 25 hoặc 26 tháng 10. Trước khi nghỉ họp ông nhắc lại một số vấn đề, đặc biệt là vấn đề ngừng bắn ở Lào và Campuchia, việc rút quân Việt Nam ở hai nơi này, danh sách các đơn vị miền Bắc đã vào miền Nam trong mùa xuân vừa qua.

Về cuộc gặp này, Kissinger viết trong Hồi ký của ông như sau:

“Hầu hết các đồng sự của tôi và tôi hiểu ngay tầm cỡ của những điều chúng tôi vừa nghe. Tôi yêu cầu ngừng phiên họp ngay. Lord (thành viên trong đoàn Mỹ), và tôi nắm tay nhau và tuyên bố. Chúng ta đã thành công! Tướng Haig, người đã từng chỉ huy ở miền Nam Việt Nam xúc động tuyên bố. Chúng ta đã cứu vớt danh dự cho bao người đã chiến đấu, đau khổ và hy sinh ở nơi đó. Tôi chưa bao giờ cảm động bằng buổi quá trưa mát mẻ của ngày chủ nhật mùa thu ấy. Chúng ta sẽ đạt được điều mà chúng ta tìm kiếm: một nền hoà bình phù hợp với danh dự và trách nhiệm quốc tế của chúng ta!” (H. Kissinger. Ở Nhà Trắng. Sđd, tr. 1402, 1403, 1404.)

Dự thảo Hiệp định và cách đàm phán của Hiệp định đưa ra là rất thực tế và rất khách quan. Mỹ không thể không chấp nhận. Đúng như vậy. Kissinger phân tích có ba cách: bác bỏ về nguyên tắc kế hoạch của Lê Đức Thọ xem đó là không thích đáng; chấp nhận về nguyên tắc và thương lượng để cải tiến thêm; trì hoãn thời gian bằng cách sẽ về Washington tham khảo (H. Kissinger Sđd, tr. 1402, 1403, 1404.)

“Tôi nghĩ đến cái gì sẽ xảy ra nếu chúng ta bác bỏ đề nghị đó và nếu Hà Nội đưa nó ra công khai - một điều gần như chắc chắc (Thực tế họ đã làm như vậy cuối tháng 10 - Tác giả) - Rất dễ dàng đề hình dung ra cơn bão tố mà chúng ta gây ra khi bác bỏ không nhận những đề nghị đó của chính chúng ta mà nay Hà Nội đưa ra” (H. Kissinger: Ở Nhà Trắng Sđd, tr. 1402, 1403, 1404).

Và Kissinger quyết định tiến lên. Ông ta cho rằng Hà Nội đã đáp ứng mọi yêu cầu của Mỹ. Nhưng ông ta cũng viết thêm:

"Tất nhiên không có vấn đề Quân đội ở miền Bắc Việt Nam rút khỏi miền Nam Việt Nam. Nhưng bản thân chúng ta đã từ bỏ yêu sách đó trong đề nghị ngừng bắn từ ngày 7 tháng 10 năm 1970, trong kế hoạch bí mật bảy điểm ngày 31 tháng 5 năm 1971 và trong đề nghị công khai của Nixon ngày 25 tháng 1 năm 1972 và ngày 8 tháng 5 năm 1972... Mười năm chiến tranh và ba Chính quyền đã không làm được việc đó” (H.Kissinger: Ở Nhà Trắng Sđd tr: 1404)

Điều đó cũng đúng với phía ta đối với Chính quyền Thiệu. Phương ngôn ta có câu: "Đánh mà không được thì tha”. Điều đó đúng cho cả hai bên - nhưng hai bên còn ý đồ riêng.

Tuy nhiên, nếu như Mỹ phải từ bỏ yêu sách đòi quân miền Bắc rút khỏi miền Nam lúc đó, thì sau này theo đòi hỏi của Thiệu, Kissinger vẫn nhắc lại vấn đề này để đòi Việt Nam nhân nhượng ở các vấn đề khác.

Hôm đó, để bù lại cái vui mừng khôn xiết, cả đêm và sáng hôm sau đoàn Mỹ lăn lưng ra lao động để soạn một dự thảo Hiệp định của phía họ để hôm sau trao cho ta. Và cũng chưa xong. Họ đề nghị cuộc họp hôm sau hoãn đến mười sáu giờ, không họp từ mười bốn giờ như thoả thuận.

Về phía ta, tối hôm đó đoàn họp lại đánh giá, so sánh thời điểm của ta (ngày 15 tháng 10) và lịch phía Mỹ đưa ra, vẫn thấy có hai khả năng:

- Một là Mỹ đi vào giải quyết vào thời điểm 25 tháng 10;

- Hai là Mỹ kéo dài để vượt tuyển cử.

Nếu Mỹ thật sự muốn giải quyết thì đến ngày 25 mới ký cũng không có vấn đề gì - Nhưng họ âm mưu kéo dài để vượt tuyển cử thì phải ngăn ngừa trước. Nếu để ngày 25 tháng 10 ta mới chủ trương phá thì không kịp.

Chuẩn bị cho phiên họp sau, đoàn chủ trương:

Ta phấn đấu giữ thời điểm của ta, không nhận thời điểm của Mỹ. Sau hai, ba ngày tới nếu thấy họ thật sự đi vào giải quyết và chịu ký Hiệp định thì dù họ muốn kéo dài thêm dăm ba ngày ta cũng có thể nhận.

Ta cần buộc họ là: Thời điểm thứ nhất: hai, ba ngày tới phải đạt thoả thuận cơ bản; thời điểm thứ hai: ký Hiệp định vào ngày 20 tháng 10. Còn việc Kissinger có vào Hà Nội hay không thì tuỳ ông ta. Dĩ nhiên nếu ông ta vào thì cũng có mặt lợi.

Vào cuộc họp ngày 9 tháng 10, một lần nữa Kissinger nói rằng các văn kiện hôm qua của ta rất quan trọng và tin là có thể thoả thuận được. Ông ta đề nghị cần làm việc càng nhanh càng tốt, và đưa một lịch làm việc cụ thể hơn hôm trước:

- Ngày 11 tháng 10 năm 1972: hoàn thành Hiệp định, sau đó Kissinger về Washington. Bốn mươi tám giờ sau sẽ cho Việt Nam biết phản ứng của Nixon.

- Ngày 15 tháng 10, Kissinger đi Sài Gòn làm việc: 15, 16, 17 và 18 tháng 10.

- Chiều 18 tháng 10, Hoa Kỳ sẽ chấm dứt ném bom miền Bắc.

- Ngày 19 tháng 10, Kissinger đi Hà Nội nếu Việt Nam đồng ý.

- Ngày 21 tháng 10, Kissinger trở về Washington.

- Ngày 22 hoặc 23 tháng 10... giờ Washington, công bố Hiệp định ở thủ đô của hai nước.

- Ngày 25 hoặc 26 tháng 10: ký Hiệp định.

Theo đề xuất của Kissinger, hai bên trao đổi khá lâu về việc ông ta vào Hà Nội từ nội dung đến việc đi lại, kỹ thuật tiếp đón máy bay, v.v... Lúc đó qua sông Hồng phải đi cầu phao, nên có lúc Lê Đức Thọ nói đùa là “có khi phải nhảy dù!"

Qua trao đổi này, Kissinger muốn gây cho ta ấn tượng rằng việc Kissinger đến Hà Nội hôm đó là chắc chắn, là dứt khoát không có gì thay đổi nữa. Nhưng ông Thọ vẫn tỏ ra nghi ngờ.

Dự thảo Hiệp định mà Kissinger đưa ra hôm đó dựa vào dự thảo của ta, có chương lấy nguyên cách viết của ta như Lời mở đầu và một số điều khoản khác, nhưng sắp xếp lại, đảo trật tự các chương; cũng có chương Mỹ bỏ hẳn như vấn đề trách nhiệm của Mỹ trong việc hàn gắn vết thương chiến tranh.

Qua dự thảo, Mỹ chấp nhận các vấn đề sau đây:

- Mỹ cam kết tôn trọng các quyền dân tộc cơ bản của nhân dân Việt Nam: hoà bình, độc lập, thống nhất, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ - nhưng đưa xuống Chương IV.

- Ngừng bắn tại chỗ, rút quân Mỹ và đồng minh trong sáu mươi ngày, chấp nhận miệng sẽ chuyển các tàu sân bay ra khỏi hải phận Việt Nam 300 dặm như ông Thọ yêu cầu.

- Không dính líu quân sự vào miền Nam - nhưng tiếp tục viện trợ quân sự cho Chính quyền Sài Gòn - vấn đề thay thế vũ khí và dụng cụ chiến tranh hao mòn và bị phá huỷ.

- Chấp nhận về nguyên tắc, trao trả những người bị bắt.

- Chấp nhận tôn trọng quyền tự quyết của nhân dân miền Nam Việt Nam, bảo đảm tự do, dân chủ, hoà hợp dân tộc.

Họ cũng chấp nhận chức năng của Ban liên hợp quân sự hai bên và bốn bên.

Về chính trị họ chấp nhận chức năng của Uỷ ban hoà giải dân tộc gần như chức năng Chính quyền hoà hợp dân tộc của ta nhưng không dùng danh từ “đôn đốc" các bên thi hành Hiệp định sẽ ký.

Tuy vậy, phía Mỹ giữ đòi hỏi cao ở nhiều vấn đề:

- Đòi ngừng bắn là vô thời hạn và độc lập với các điều khoản khác - đòi được thay thế các loại vũ khí đã dùng hết, và bị phá huỷ. Mỹ vẫn gắn viện trợ quân sự cho Chính quyền Sài Gòn với việc miền Bắc nhận viện trợ của các nước xã hội chủ nghĩa.

- Đối với việc rút quân miền Bắc khỏi miền Nam, Mỹ đòi các bên trao bản kê nơi bố trí lực lượng để biết không có đơn vị nào của miền Bắc đưa vào sau ngày 25 tháng 3 năm 1972 còn ở lại trong đó. Mỹ còn bỏ Uỷ ban hoà giải dân tộc cấp dưới, không nói đến tuyển cử địa phương.

- Vấn đề thâm nhập qua Lào và Campuchia là một trong những vấn đề mà Kissinger bám rất lâu vẫn đòi các bên không dùng lãnh thổ Lào và Campuchia để xâm phạm chủ quyền và an ninh của các nước khác, đòi rút quân đội và nhân viên quân sự nước ngoài ra khỏi các nước Đông Dương, các bên dùng ảnh hưởng tối đa của mình để ảnh hưởng đến nội bộ các nước Lào và Campuchia được giải quyết cùng một thời gian với việc hiệp thương giữa các bên Việt Nam bốn tháng.

Khi trình bày, Kissinger còn nhấn mạnh: điều 15 (của Việt Nam) chúng tôi chấp nhận gần hết, nhưng có bổ sung; điều 17 chúng tôi chấp nhận cũng gần hết; điều 18 chúng tôi chấp nhận từng chữ một, chỉ thay một danh từ và phần sau; điều 19 chúng tôi chấp nhận hoàn toàn...

Trong trao đổi, Kissinger lại nhắc lại con đường mòn Hồ Chí Minh, và Lê Đức Thọ nói:

- “Một ngày nào đó sau chiến tranh tôi sẽ đưa ông đi thăm đường Hồ Chí Minh, nhưng chỉ sợ ông không đủ sức để trèo đèo".

Riêng vấn đề trao trả những người bị bắt, Mỹ vẫn dùng từ thường dân vô tội - và đề nghị hai bên Nam Việt Nam giải quyết với nhau. Đây là một vấn đề kéo dài mãi sau này.

Về Uỷ ban Quốc tế, Mỹ vẫn đòi có năm nước - ý nói bốn nước do hai bên thoả thuận, còn nước thứ năm thì do Tổng thư ký Liên Hợp Quốc chỉ định - và ông ta đề nghị luôn Nhật và Inđônêxia vào Uỷ ban Quốc tế.

Hai bên hẹn gặp nhau vào mười giờ sáng hôm sau. Nhưng đến hai mươi hai giờ hôm đó (tức bốn giờ sau khi nghỉ), phía Mỹ lại gửi ngay cho ta một công hàm, nhân danh Tổng thống Mỹ đòi ghi phát biểu của Lê Đức Thọ hôm 8 tháng 10 rằng "ngừng bắn là vô thời hạn và độc lập với bất cứ điều khoản nào”, đòi giám sát các đường thâm nhập - bản kê việc bố trí lực lượng - và tuyên bố Mỹ sẽ ngừng ném bom miền Bắc trước khi ký Hiệp định nếu ta thả một số tù binh Hoa Kỳ cho nhà cầm quyền Hoa Kỳ một tuần sau khi ký.

Thoả thuận về cơ bản

Cuộc họp hôm sau hai bên bàn từng điều khoản cụ thể. Lê Đức Thọ mở đầu bằng việc phê phán Mỹ đã xuyên tạc phát biểu của ta và nhắc lại rằng: Tôi chỉ nói rằng ngừng bắn là vĩnh viễn. - ông cũng lưu ý Kissinger là công hàm đó đã gây thêm phức tạp cho vấn đề. Ông cũng đòi hai bên thoả thuận ở đây là xong, không thể Kissinger về Washington, đi Sài Gòn rồi lại thay đổi, và như vậy sẽ đi vào bế tắc. Và nếu có sửa đổi thì chỉ vì kỹ thuật thôi, không thể sửa về nguyên tắc được.

Ông Thọ hỏi:

- Có phải các ông định ép chúng tôi hơn nữa không?

Kissinger nêu lại là phía Việt Nam đã cố gắng nhiều nhưng phía Mỹ còn phải thuyết phục người khác, nhất là trong việc thi hành Hiệp định. Hiệp định phải thoả đáng cho cả hai bên. Kissinger cũng đồng ý với Lê Đức Thọ rằng làm việc xong sẽ không thay đổi gì về nội dung và nguyên tắc nữa. Làm việc xong ở đây thì có thể xem như đã hoàn thành rồi. Còn đối với Sài Gòn, Mỹ sẽ lo. Ông Thọ nhắc lại quá khứ rằng ta rất tôn trọng các Hiệp định đã ký và việc thi hành Hiệp định phải do hai bên. Kissinger đồng ý.

Đi vào từng chương một - Lê Đức Thọ đòi “Hoa Kỳ tôn trọng các quyền dân tộc cơ bản của Việt Nam" phải đặt trong Chương đầu tiên vì đó là nguyên tắc, là yêu cầu cơ bản của nhân dân Việt Nam, sẽ làm cho hố ngăn cách giữa hai bên giảm bớt và chứng tỏ quan hệ hai nước bước qua giai đoạn mới - cuộc trao đổi đi đến hai bên đồng ý như vậy.

Sang các vấn đề quân sự, ông Thọ nói:

- Qua đề nghị của các ông, chúng tôi thấy có những điểm xây dựng và thoả thuận với chúng tôi, nhưng có nhiều vấn đề các ông không chặt chẽ với các ông nhưng lại chặt chẽ đối với chúng tôi. Như vậy là chưa hợp lý.

Để thúc đẩy nhanh chóng cuộc thảo luận, Lê Đức Thọ chấp nhận sửa đổi của Kissinger nói Hoa Kỳ cam kết chấm dứt chiến tranh, chấm dứt dính líu quân sự (điều 2) chỉ bỏ đi mấy chữ “khi hoàn thành việc rút quân”. Ta cũng chấp nhận vấn đề thay thế vũ khí Mỹ đưa ra nhưng giữ nguyên tắc bình đẳng ngang nhau giữa hai bên miền Nam Việt Nam.

Về việc rút quân, ông Thọ bác bỏ việc trao đổi bản kê khai sự bố trí lực lượng của hai bên nhằm thẩm tra và kiểm soát. Việc này Kissinger muốn nói đến lực lượng miền Bắc nhưng tránh chữ Bắc Việt Nam.

Lê Đức Thọ nhắc lại:

- Đây là vấn đề nguyên tắc đối với chúng tôi mà tôi đã phát biểu với ông trên bốn năm nay, cho nên tôi không thể chấp nhận câu này được. Cách đặt vấn đề như vậy không đúng và chỉ nhằm vào một phía trong khi các ông xây dựng Quân đội Nam Việt Nam lên hàng mười mấy sư đoàn và vẫn để nguyên như vậy

Ông Thọ đề nghị:

- Để giải quyết triệt để chiến tranh, tránh xung đột, các bên Nam Việt Nam giảm quân số và phục viên.

Kissinger hỏi kỹ về vấn đề này. Ông ta nói:

- Tuy không cần phải ghi một điều khoản trong Hiệp định, nhưng muốn có một sự di chuyển đơn phương nào của quân đội của các ông như là ông Thống đốc Harriman cho rằng năm 1968 các ông đã có sự di chuyển đơn phương như vậy.

Về vấn đề chính trị, Lê Đức Thọ đồng ý bổ sung "thời gian thống nhất Việt Nam do hai miền thoả thuận" và từ bỏ việc đòi lập Chính quyền hoà hợp dân tộc sang vấn đề "lập một Chính quyền lấy tên là Hội đồng tối cao hoà hợp dân tộc". Đồng ý đưa vấn đề trách nhiệm của Hoa Kỳ trong việc hàn gắn vết thương chiến tranh vào Chương Quan hệ giữa Việt Nam Dân chủ Cộng hoà và Hoa Kỳ.

Phía Mỹ cũng đáp ứng một số đề nghị của ta, như Chương I nói ở trên, bỏ việc kê khai bố trí lực lượng nhưng đòi có sự di chuyển đơn phương nào đó của Việt Nam như đã nói ở trên.

Nhưng Kissinger nhấn mạnh nhiều đến việc kiểm soát con đường thâm nhập qua Lào, đồng ý rằng vấn đề ngừng bắn. Ở Lào không ghi vào Hiệp định về Việt Nam - nhưng đòi có sự hiểu biết rằng "hai bên làm hết sức mình để cuộc đàm phán ở Lào kết thúc thành công đồng thời với việc ký Hiệp định về Việt Nam".

Đặc biệt về vấn đề trao trả người bị bắt, cụ thể là vấn đề tù chính trị, Mỹ nêu ra một vấn đề mới ghi thành một điều khoản mới, điều 8 (c) mà sau này còn nói nhiều. Ý đồ của Mỹ - Nguỵ là muốn giữ lại một số cán bộ dân sự - cùng một thời hạn với việc hoàn thành việc rút quân Mỹ, thì Kissinger tách vấn đề tù dân sự ra nói rằng “các nhân viên Việt Nam khác sẽ do các bên Nam Việt Nam giải quyết".

Còn trách nhiệm của Mỹ trong việc hàn gắn vết thương chiến tranh, Kissinger không cam kết gì.

Phía ta dùng thời gian biểu do Kissinger đưa ra để ép Mỹ, và phía Mỹ cũng dùng thời hạn tuyển cử ở Mỹ để đòi ta nhân nhượng. Họ hiểu ta muốn giải quyết trước ngày tuyến cử ở Mỹ: 7 tháng 11.

Về vấn đề này, Kissinger có lúc nói "Tôi đề nghị cứ giữ đúng thời điểm cũ", có lúc lại nói "Về phương diện chúng tôi thì chúng tôi có lợi hơn nếu chờ đợi sau bầu cử rồi mới ký”, có lúc lại nói “Nên chăng chúng ta lui thời điểm vài ngày về sau để nghiên cứu các vấn đề một cách kỹ lưỡng".

Lê Đức Thọ:

- Cái đó tuỳ ông. Mới hôm qua chúng ta đã đồng ý với nhau về thời điểm mà hôm nay ông lại đề nghị thời điểm khác. Vừa thoả thuận xong thì đã lại thay đổi rồi. Như vậy đâu có phải nghiêm chỉnh để giải quyết.

Sau khi nghỉ giải lao, Kissinger nêu lên ba khả năng:

- Một là hai bên thoả thuận được với nhau và ông ta có thể bảo đảm chắc chắn là Washington chấp nhận.

- Hai là hai bên thoả thuận được với nhau nhưng phải sau bốn mươi tám giờ mới biết Washington có chấp nhận không

- Ba là chúng ta không đạt được thoả thuận gì.

Lê Đức Thọ chỉ nói có hai khả năng: hoặc là thoả thuận được với nhau, hai là không. Còn khả năng bốn mươi tám giờ nữa thì không có vì Kissinger có thể nói chuyện với Washington bất kỳ lúc nào.

Kết thúc buổi họp hôm đó Mỹ lại nhắc lại vấn đề Lào, còn ông Thọ nói về vấn đề dân thường bị bắt:

- Đây không phải là mục quan trọng nhưng trong bao năm nay, nhiều cán bộ nhân viên của Chính phủ Cách mạng Lâm thời của Mặt trận Dân tộc Giải phóng bị Chính quyền Sài Gòn bắt giam giữ. Đó là một điều đau khổ của những người bị giam giữ trong chiến tranh. Bây giờ chiến tranh đã chấm dứt mà họ còn bị giam giữ thì ông thử nghĩ xem lương tâm của chúng tôi sẽ như thế nào. Cho nên một khi đã ngừng bắn thì phải thả tất cả những người đó ra. Hiệp định Genêve năm 1954 và 1962 về Lào cũng đã làm như vậy.

Hai bên tiếp tục làm việc hôm sau, 11 tháng 10 năm 1972 một cuộc họp dài nhất trong các cuộc gặp riêng, kéo dài mười sáu giờ liền từ chín giờ ba mươi ngày 11 tháng 10 đến hai giờ sáng ngày hôm sau.

Cuộc họp hôm trước đã giải quyết được nhiều vấn đề lớn. Chiều hướng của Kissinger tỏ ra cũng muốn giải quyết. Còn lại hai vấn đề lớn: vấn đề Lào và bồi thường chiến tranh. Lúc này cuộc nói chuyện giữa hai phái ở Lào cũng đã tiến triển tốt. Qua trao đổi với ta các bạn Lào đồng ý xúc tiến nhanh hơn cuộc nói chuyện ở Viêg Chăn để có thể thực hiện việc ngừng bắn ở Lào cùng một lúc với ngừng bắn ở Việt Nam.

Lê Đức Thọ chủ động nói ngay:

- Đối chiếu những lời phát biểu của ông Cố vấn với bản dự thảo của chúng tôi, chúng tôi thấy chúng ta đã đạt được nhiều điểm quan trọng. Nhưng còn hai vấn đề lớn tồn tại giữa chúng tôi và các ông. Chúng tôi rất quan tâm đến việc Mỹ có trách nhiệm hàn gắn vết thương chiến tranh. Đó là một trong những vấn đề quan trọng nhất trong Hiệp định của chúng tôi. Đồng thời ông Cố vấn quan tâm đến một vấn đề lớn, tức là vấn đề Lào. Nếu ông Cố vấn giải quyết một cách thoả đáng về vấn đề hàn gắn vết thương chiến tranh thì chúng tôi cũng có sự hiểu biết về vấn đề Lào. Một khi ở Việt Nam đã ngừng bắn mà ở Lào còn chiến tranh thì các ông e ngại rằng chúng tôi sẽ dùng con đường Hồ Chí Minh để thâm nhập vào Lào và Campuchia và tiếp tế cho lực lượng ở miền Nam Việt Nam và những cái mà các ông gọi là chiến khu ở Lào và Campuchia.

Kissinger:

- Đúng như vậy.

Lê Đức Thọ:

- Nhưng các ông cũng hiểu đúng mối quan tâm của chúng tôi, vì miền Bắc của chúng tôi bị hai cuộc chiến tranh tàn phá thiệt hại lớn lắm. Vì vậy, việc hàn gắn vết thương chiến tranh ở miền Bắc không những là trách nhiệm của Mỹ mà còn để mở ra một thời đại mới trong quan hệ giữa hai nước. Điều đó không những lợi cho chúng tôi mà còn lợi cho các ông nữa.

Kissinger khen Lê Đức Thọ đã hiểu rõ mối quan tâm của Mỹ và ông tỏ ra quan tâm đến yêu cầu của ông Thọ. Ông đồng ý về nguyên tắc có sự đóng góp của Mỹ trong một chương trình ba năm... với số tiền 1,5 tỷ đô la, trong đó 600 triệu dành cho Việt Nam Dân chủ Cộng hoà.

Kissinger đề ra việc lập Ban Liên hợp để xây dựng kinh tế miền Bắc Việt Nam, cho đó là một sự bảo đảm tốt hơn là việc kiểm soát con đường Hồ Chí Minh. Ông nhấn mạnh:

- “Có một Ban Liên hợp như vậy chúng ta đã đạt được một nền hoà bình thật sự”.

Nhưng trong dự thảo đưa cho ta hôm đó, phía Mỹ chỉ ghi mập mờ "thi hành chính sách truyền thông của mình, Hoa Kỳ sẽ góp phần vào hàn gắn vết thương chiến tranh và xây dựng lại sau chiến tranh ở Việt Nam Dân chủ Cộng hoà và Đông Dương”.

Lê Đức Thọ tiếp tục nhấn mạnh mối quan tâm của ta về vấn đề này.

Kissinger nói thêm:

- Khi tôi hứa với các ông thì tôi sẽ giữ. Chúng tôi sẽ làm việc này nhanh chóng và kiên quyết để cải thiện quan hệ hai nước, nhưng để khi sang Hà Nội hai bên sẽ ra một tuyên bố về ý định. Chúng ta sẽ giữ bí mật, đầu năm sau chúng ta sẽ có thể công bố một Hiệp định chính thức giữa hai nước.

Lê Đức Thọ chủ động sang vấn đề Lào và Campuchia:

- Khách quan mà nói, vấn đề Campuchia khác với vấn đề Lào, cho nên giải quyết vấn đề Việt Nam và Lào trước vấn đề Campuchia. Cách giải quyết vấn đề đó chúng tôi tôn trọng nguyên tắc quyền dân tộc của họ. Chúng tôi sẽ bàn với đồng minh của chúng tôi ở Lào để thúc đẩy cuộc thương lượng hiện nay ở Lào đi tới kết quả. Sau khi ngừng bắn ở Việt Nam thì có thể trong vòng một tháng các lực lượng nước ngoài sẽ rút khỏi Lào, không được đưa lại quân đội, vũ khí, dụng cụ chiến tranh, không phải chỉ chúng tôi mà cả các ông nữa. Chúng ta sẽ có hiểu biết với nhau như vậy mà không ghi vào Hiệp định. Chúng tôi sẽ có một bản ghi nhận đưa cho các ông và không ghi vào Hiệp định.

Kissinger tóm tắt ý kiến của Lê Đức Thọ và hỏi:

- Lực lượng Trung Quốc có rút không?

- Chúng tôi không làm được việc đó và các ông cũng không làm được.

Kissinger nói Lê Đức Thọ chưa quan tâm tới mối quan ngại thứ hai của ông ta là vấn đề Campuchia:

- Tôi tin là các ông cũng có khó khăn hơn về chính trị đối với Campuchia hơn là vấn đề Lào vì những người bạn của các ông đặt nơi cư trú ở Bắc Kinh. Như vậy thì tình hình phức tạp hơn. Tôi hiểu các ông.

Nhưng ông ta vẫn nói:

- Nếu không ngăn cản, các ông cứ dùng căn cứ của các ông ở Campuchia sẽ không hạn chế được viện trợ quân sự cho lực lượng quân sự của các ông ở Campuchia. Phía Mỹ đòi có sự hi