Chương 9 .
Sau khi vượt bầu cử
Nixon trúng cử nhiệm kỳ Tổng thống thứ hai với tỷ lệ cao: 60,7% phiếu bầu so với 37,5% phiếu bầu cho Mc Govern. Nỗi lo của Nixon về cuộc bầu cử đã qua, nhưng ở Thượng viện, Đảng Cộng hoà lại mất ba ghế, và ở Hạ viện Đảng Dân chủ vẫn nắm đa số. Như vậy lực lượng đối lập với Nixon không những không giảm đi mà còn tăng thêm. Xu hướng đòi chấm dứt nhanh chóng cam kết của Mỹ ở Đông Dương lại mạnh lên. Khó khăn của Tổng thống mới vẫn còn đó.
Mâu thuẫn giữa Washington và Sài Gòn vẫn gay gắt và bùng nổ công khai. Nếu như Nixon coi thoả thuận tháng 10 với ta là “hoàn hảo" thì ngày 01 tháng 1 tại Sài Gòn, Thiệu tuyên bố công khai rằng đó là một Hiệp định “đầu hàng".
Nixon cho rằng “sau bầu cử nhiệm vụ đầu tiên là phải chấm dứt chiến tranh" nhưng Thiệu tỏ ra phản đối mà Nixon không thể bỏ rơi ông ta được.
Nixon phải cử tướng Haig đi Sài Gòn thuyết phục Thiệu, nói cho ông ta rõ rằng Thượng viện Mỹ còn bồ câu hơn trước bầu cử, mặt khác Mỹ tổ chức cầu hàng không - với cái tên Enhance plus tăng cường nữa- ồ ạt đưa vũ khí vào Sài Gòn.
Thiệu vẫn gửi thư cho Nixon đòi sửa đổi trên 60 điểm trong hiệp định - những đòi hỏi mà Nixon cho là không thực tế.
Trên đường sang Pháp gặp Lê Đức Thọ và Xuân Thuỷ, Kissinger mang theo đòi hỏi của Thiệu - đặc biệt các vấn đề liên quan đến khu phi quân sự - tình hình riêng biệt của miền Nam và vấn đề rút một phần Quân đội miền Bắc khỏi miền Nam.
Nixon biên thư cho Thiệu một mặt hứa sẽ hết sức cố gắng để thực hiện các sửa đổi của Thiệu, nhưng mật khác cũng nhắc Thiệu rằng đừng nuôi dưỡng nhiều ảo tưởng vào khả năng và nghị lực của Mỹ có thể đi quá xa trong việc sửa đổi để làm tốt hơn nữa một Hiệp định mà Mỹ xem như đã hoàn hảo (R.Nixon. Hồi ký. Sđd, tr. 717, 718).
Ngày 18 tháng 11, Thiệu còn cử đặc phái viên Nguyễn Phú Đức sang Washington gặp Nixon. Thiệu muốn trì hoãn cuộc gặp giữa Kissinger và Lê Đức Thọ. Nhà cầm quyền Mỹ còn gặp đại diện Liên Xô và Trung Quốc để tìm cách tác động đến Hà Nội theo hướng ôn hoà hơn, nghĩa là theo yêu cầu của Mỹ.
Trong buổi chiêu đãi Kiều Quán Hoa, Thứ trưởng Bộ Ngoại giao Trung Quốc cầm đầu phái đoàn Bắc Kinh tại khoá họp của Liên Hợp Quốc ở New York, Kissinger đã nêu lên nhiều vấn đề, đặc biệt là vấn đề Campuchia.
Như ta đã biết, Washington muốn có ngừng bắn cùng một lúc ở ba nước Đông Dương để cứu vớt bọn Lon Nol mà Kissinger gọi là “đứa con mồ côi của Mỹ" (H.Kissinger ở Nhà Trắng. Sđd, tr. 1471). Ông ta nhấn mạnh với Kiều Quán Hoa sự thống nhất về quyền lợi giữa Trung Quốc và Mỹ đối với một nước Campuchia độc lập, không bị nước ngoài (ám chỉ Việt Nam) đô hộ. Kiều chỉ gợi ý Kissinger gặp Sihanuc đang ở Bắc Kinh. Kissinger từ chối.
Lúc ấy, qua tiếp xúc với Việt Nam, Hoàng thân Sihanuc tỏ ra muốn thương lượng, nhưng lực lượng kháng chiến ở trong nước do Khơme đỏ chỉ huy không muốn nói chuyện. Họ muốn chiến thắng hoàn toàn.
Tại Paris ngày 27 tháng 10, Mỹ gửi công hàm cho Việt Nam nói rằng "Hoa Kỳ hiểu sự không hài lòng do sự không thực hiện được thời gian biểu gây ra" và đề nghị một đợt gặp riêng khác bắt đầu từ ngày 1 tháng 11 năm 1972 và “kéo dài chừng nào cần thiết đế hoàn thành Hiệp định”.
Phía Hoa Kỳ cũng khẳng định lại là một khi đã thoả thuận được một văn bản tại Paris và trong khi những cuộc trao đổi tiếp sau đó Hoa Kỳ sẽ hoàn toàn chấm dứt ném bom miền Bắc. Hoa Kỳ cũng đồng ý không yêu cầu thêm sự thay đổi nào nữa sau khi đạt tới thoả thuận sau cuộc gặp tới Hoa Kỳ (gạch dưới - Tác giả). Hoa Kỳ cũng khẳng định lại Kissinger sẽ đi Hà Nội ký tắt văn bản Hiệp định vào 20 tháng 11.
Mãi đến ngày 4 tháng 11, ta mới trả lời công hàm này. Ta chọn thời điểm này để tỏ ra ta không vội vã, cũng không trông chờ kết quả bầu cử ở Mỹ. Điều đó cũng có nghĩa nếu Mc Govern hay Nixon thắng cuộc, ta đều chủ động. Trong công hàm ta đề nghị cuộc họp tới bắt đầu từ 14 tháng 11.
Ngày 7 tháng 11, Mỹ nhận họp vào 15 tháng 11. Nhưng do Lê Đức Thọ ốm nên ta lui lại 20 tháng 11.
Đi vào giai đoạn đàm phán lại này hai bên đã có một cơ sở chung là văn bản Hiệp định 20 tháng 10 năm 1972. Ta có tư thế vững vàng, thuận lợi hơn từ sau tuyên bố 26 tháng 10. Dư luận quốc tế đồng tình và ủng hộ ta, đòi Mỹ sớm ký Hiệp định. Ta có cơ sở để giữ vững nguyên tắc và nội dung. Tuy ta có cơ sở vững vàng còn Mỹ thì yếu về đạo lý, nhưng ta dễ sa vào thế phòng ngự.
Về thời gian, ta không bị thúc bách như hồi tháng 10, trái lại Mỹ ở vào thế phải sớm chấm dứt chiến tranh, nhất là Quốc hội mới sắp bắt đầu họp lại.
Nhưng vấn đề phức tạp trong giai đoạn mới này là việc Thiệu tham gia - tuy không trực tiếp - vào cuộc nói chuyện làm cho nó gay gắt hơn.
Chủ trương của ta trong cuộc đàm phán lại là giữ vững những vấn đề về nguyên tắc và nội dung đã đạt được, đòi Mỹ không được sửa đổi các nguyên tắc và nội dung đó và phải sớm ký kết Hiệp định. Từ lâu ta đã thấy Mỹ dùng con bài thể thức hoặc trao đổi với Nguỵ để kéo dài. Ta phải tìm cách ngăn chặn. Ta phấn đấu buộc Mỹ ký Hiệp định vào khoảng 20 tháng 1 năm 1973.
"Hà Nội cũng tính đến khả năng thứ hai là nếu Mỹ - Nguỵ giành được lợi thế trên chiến trường, Mỹ lợi dụng được hoà hoãn với Liên Xô, Trung Quốc, gây khó khăn cho ta, bám giữ những yêu sách vô lý và dùng nguỵ để kéo dài đàm phán thì chiến tranh còn tiếp tục Cần hết sức đề phòng và chuẩn bị cho khả năng này".
Khi nhận được công hàm ngày 7 tháng 11 của Mỹ, đoàn ta ở Paris đã phát hiện nhiều ẩn ý của Washington. Họ đề ra một chương trình làm việc trong bốn ngày, mà ngày đầu tiên là bàn về những vấn đề thuộc về nội dung Hiệp định. Ngày thứ hai, thứ ba là bàn về các thay đổi về kỹ thuật và so sánh hai bản tiếng Việt và tiếng Anh, ngày thứ tư giải quyết những vấn đề còn lại.
Đó là mâu thuẫn nổi bật so với công hàm ngày 27 tháng 10 của họ và trái với tuyên bố của Mỹ nói rằng văn bản Hiệp định "xem như đã hoàn thành". Mỹ lại đòi "có hai tuần sau khi hoàn thành văn bản Hiệp định đế có những cuộc trao đối cuối cùng” (với Sài Gòn - Tác giả). Họ còn đòi thêm, bàn cả Nghị thư và Uỷ ban Quốc tế. Đó là những vấn đề rất dễ kéo dài.
Mỹ đã lật lọng thì những ẩn số đó càng làm cho Hà Nội thêm cảnh giác.
Ngày 20 tháng 11, các nhà báo đã vây ngôi nhà của hoạ sĩ F.Léger, và từ bên kia đường General Leclerc, đối diện với ngôi nhà của hoạ sĩ Pháp, một số nhà báo đã dựng lên những chòi cao để từ đó quan sát và chụp ảnh quang cảnh bên trong và các Đại biểu hai bên khi nghỉ ngơi ra dạo ngoài sân hay trong vườn. Kissinger cho rằng việc này do ta bố trí, còn Lê Đức Thọ thì nói đó là nhờ Kissinger sắp xếp hộ.
Dự đoán được sự bực bội của ta sau sự lật lọng của Hoa Kỳ, Kissinger tìm cách làm cho không khí hoà dịu thoái mái. Ông ta nhắc lại lời mời Lê Đức Thọ sang giảng bài ở Đại học Havard có thể ngay trong học kỳ mùa xuân sắp tới - vui vẻ hỏi thăm sức khoẻ của Thứ trưởng Ngoại giao Nguyễn Cơ Thạch hôm đó cũng đến dự. Khi Xuân Thuỷ đề nghị hôm nay làm việc đến 16 giờ thì Kissinger vui vẻ nhận lời ngay, cho như vậy là quá sớm vì ông ta đã quen làm việc đêm...
Nhưng tất cả không ngăn được Lê Đức Thọ đọc một bài chuẩn bị sẵn dài năm trang, nói lên thiện chí của Việt Nam, tố cáo sự lật lọng của Mỹ và kết luận:
“Chúng tôi đã bị người Nhật, người Pháp, người Mỹ lừa dối, nhưng chưa bao giở sự lừa dối lại trắng trợn như lần này".
Về sự cần thiết phải có sự hiểu biết và tin cậy lẫn nhau, Lê Đức Thọ nhắc lại lời nói đó của Kissinger trước đây và hỏi:
- Ông nói với chúng tôi như vậy rồi ông lại lật ngược đi thì ông nghĩ chúng tôi hiểu ông là người như thế nào?
Tuy bị phê phán Kissinger cố giữ bình tĩnh mà còn khen Lê Đức Thọ vẫn khỏe mạnh, vẫn mở cuộc tấn công như thường lệ. Ông ta còn nói rằng đã góp phần thống nhất hai miền vì “cả miền Nam lẫn miền Bắc đều ghét tôi". Ông khen Lê Đức Thọ và Xuân Thuỷ thương thuyết có nguyên tắc, nói là biểu dương công khai thiện chí và thái độ nghiêm chỉnh của ta sau ngày 8 tháng 10.
Bây giờ Kissinger mới thanh minh rằng cuộc chiến tranh này đã quá kéo dài nên khi đi đến gần giải pháp thì mới thấy nẩy ra những vấn đề phức tạp... cả những vấn đề chưa kịp suy nghĩ tới. Ông ta cho rằng Việt Nam có nhiều tuần lễ để suy nghĩ trao đổi với đồng minh trước khi đưa ra dự thảo ngày 8 tháng 10. Còn Mỹ thì thời gian sau ngày đó rất chật hẹp. Cuối cùng ông ta nhắc lại ý muốn chấm dứt chiến tranh sớm, không muốn kéo dài thương lượng. Ông ta còn bịa ra câu chuyện rằng ông ta được tin chắc chắn là sẽ mở cuộc tấn công lớn khi ông ta vào Hà Nội do đó việc Mỹ không ký Hiệp định là một việc may mắn
Kissinger trịnh trọng tuyên bố.
- Chúng tôi giữ nguyên tắc đã được thoả thuận, giữ thực chất đã đạt được trong tháng 10. Chúng tôi chắc rằng chúng ta có thể giải quyết được vấn đề trong mấy tuần sắp tới. Chúng tôi chắc rằng có thể làm xong phần lớn văn bản trong tuần này. Sau khi chúng tôi thoả thuận xong trong tuần này thì chúng tôi không đòi thêm gì nữa.
Lê Đức Thọ hỏi lại:
- Vừa rồi ông nói là ông giữ nguyên tắc và thực chất đã đạt được trong tháng 10?
Kissinger:
- Tôi đã nói như vậy.
Lê Đức Thọ:
- Nếu các ông có thái độ như vậy thì chúng tôi cũng có thái độ như vậy.
Kissinger, với lời lẽ lắt léo:
- Hai bên sẽ có ý kiến khác nhau thực chất là như thế nào.. Chúng ta sẽ bàn...
Lê Đức Thọ:
- Tôi cũng tạm thời đồng ý với ông như ông đã nói dứt khoát không thay đổi nữa. Lần này mà thay đổi thì chắc chắn là chỉ còn có tiếp tục chiến tranh.
Cuộc thăm dò về ý đồ thương lượng lại của nhau như vậy đã mất hết buổi sáng.
Buổi chiều, Kissinger đưa ra những sửa đổi.
Đầu tiên ông ta đòi xoá bỏ tên Chính phủ Cách mạng Lâm thời Cộng hoà miền Nam Việt Nam trong Lời mở đầu cũng như ở tất cả các chỗ khác nơi nào có ghi tên chính thức của Chính phủ Cách mạng Lâm thời. Họ không muốn thừa nhận có hai Chính quyền ở miền Nam!
Điều lớn thứ hai là Kissinger đòi rút tất cả lực lượng không phải Nam Việt Nam ra khỏi miền Nam. Họ không muốn công nhận có hai Quân đội ở Nam vĩ tuyến 17. Kissinger còn đòi số quân mà hai bên phải phục viên phải trên cơ sở bên này một thì bên kia cũng một, và đưa ra số quân phục viên về sinh quán của họ. Ông ta còn đòi một sự di chuyển của lực lượng vũ trang đó trên thực tế - không phải ghi vào Hiệp định - một sự di chuyển về thực tế mà người ta có thể chấp nhận được.
Trong vấn đề Lào và Campuchia, Kissinger đòi lực lượng vũ trang các nước Đông Dương phải ở bên trong các Quốc gia của họ, đòi thay đổi vùng do các bên kiểm soát thành vùng đóng quân khi ngừng bắn. Họ không chấp nhận có hai địa bàn ở Nam Việt Nam.
Về vấn đề trao trả người của các bên bị bắt còn bị giam giữ, Kissinger không nói gì đến các nhân viên dân sự của Chính phủ Cách mạng Lâm thời còn bị tù đày mà còn đòi ta phải trao trả càng sớm nếu có thể được một số tù binh Mỹ trên toàn Đông Dương cho nhà cầm quyền Washington và phải cam kết với Mỹ và Uỷ ban Quốc tế về những người của Mỹ bị mất tích.
Về vấn đề chính trị nội bộ miền Nam, ngoài việc đòi bỏ tên Chính phủ Cách mạng Lâm thời, Kissinger đòi xoá bỏ ba thành phần của Uỷ ban hoà hợp hoà giải dân tộc, bỏ hệ thống cấp dưới, và tổ chức này không có khả năng đôn đốc hai Chính quyền trong việc thi hành Hiệp định. Cố vấn Nhà Trắng nói nhiều đến khu phi quân sự, đòi tổ chức Hội nghị bảo đảm quốc tế ở Genève chứ không phải ở Paris. Ông ta còn đòi thảo luận các Nghị định thư về Uỷ ban Quốc tế và Uỷ ban Liên hợp song song với việc thảo luận Hiệp định tại Hội nghị bốn bên ở Kléber.
Kissinger cố tình giảm nhẹ trách nhiệm của Mỹ.
Ông ta nói về điều 1:
“Tổng thống tôi nhận thấy rằng viết như thế này thì Mỹ dường như là người phạm tội và nếu chúng ta xác nhận lại mối quan hệ trong thời gian tới thì viết như thế là điều không tốt. Chúng tôi sẵn sàng có nghĩa vụ tôn trọng độc lập, chủ quyền... của Việt Nam nhưng chúng tôi không có cách nào để ký một Hiệp định mà trong đó chúng tôi tự cho mình như người phạm tội”.
Ông ta đưa ra công thức:
“Nền độc lập, thống nhất, chủ quyền của Việt Nam phải được tất cả các nước công nhận".
Ông ta cũng bỏ cả đoạn trong văn bản tháng 10 nói
“Hoa Kỳ không cam kết với bất cứ xu hướng chính trị nào hoặc cá nhân nào ở miền Nam, không tìm cách áp đặt một Chính phủ thân Hoa Kỳ nào ở Sài Gòn”.
Kissinger không nói gì về trách nhiệm của Mỹ trong việc hàn gắn vết thương chiến tranh ở Việt Nam, không nói gì đến số tiền mà có lúc ông ta đã hứa. Kissinger để lộ sẽ thông qua vấn đề Mỹ viện trợ để giải quyết việc này như đối với các Quốc gia khác xin viện trợ của Mỹ.
Cố vấn Nhà Trắng còn đòi ngừng bắn cùng một lúc ở Lào và ở Campuchia sau khi có ngừng bắn ở Việt Nam. Ông nói sẽ đề nghị với đồng minh của Mỹ ở Phnom Pênh ra một tuyên bố đơn phương và mong rằng phía bên kia cũng làm như vậy. Ngoài ra ông còn đòi lập lại Uỷ ban Quốc tế ở Campuchia.
Kissinger thêm rằng ông ta đã nói với Thứ trưởng Bộ Ngoại giao Trung Quốc Kiều Quán Hoa về hậu quả nghiêm trọng nếu chiến tranh tiếp diễn ở Campuchia để ông này nói với những người đến Bắc Kinh thì nói cho người đó biết là ý kiến của Mỹ. Kissinger thêm:
- Tôi cũng đã nói với ông Thứ trưởng Bộ Ngoại giao Trung Quốc là sau một thời gian yên tĩnh ở Campuchia thì triển vọng cuộc thương lượng sẽ lớn hơn nhiều.
- Tôi muốn biết ông Kiều Quán Hoa trả lời như thế nào? - ông Lê Đức Thọ hỏi.
Kissinger nói:
- Tôi cho rằng họ không nói trái với quan điểm của chúng tôi, tức là đồng ý với chúng tôi. Nhưng cũng có thể vì lịch sự mà họ không muốn nói gì trái. Cảm tưởng của tôi là họ đã hiểu lập trường của chúng tôi về vấn đề này.
Trước khi đến Paris, Lê Đức Thọ cũng đã dừng chân ở Bắc Kinh nên Kissinger hỏi ông về thái độ của Trung Quốc về vấn đề Campuchia.
Lê Đức Thọ trả lời:
- Họ nói với chúng tôi lúc nào cũng phải tôn trọng các quyền dân tộc của mỗi nước. Việc giải quyết công việc của mỗi nước là công việc của nhân dân nước đó.
Kissinger tiếp tục nói về đề nghị mới của Mỹ trong cách đàm phán: bỏ việc ký kết hai bên mà đề ra việc ký bốn bên cùng một lúc với một số Nghị định thư. Ông ta lại đưa ra một thời gian biểu mới:
- Thoả thuận xong các văn bản Hiệp định cuối tuần này, hai ngày sau đó thì chấm dứt ném bom miền Bắc, ký tắt vào ngày 10 tháng 12 chính thức ký Hiệp định ngày 15 tháng 12.
Nhìn lại một cách tổng quát thì Mỹ đòi sửa lại hầu hết các chương trong Hiệp định, nhất là các chương về ngừng bắn, rút quân và chính trị nội bộ miền Nam, gồm các vấn đề thực chất sau đây: Đòi rút quân miền Bắc, không công nhận Chính phủ Cách mạng Lâm thời, hạ thấp vai trò của Uỷ ban hoà hợp hoà giải dân tộc muốn duy trì miền Nam thành một Quốc gia riêng, giảm nhẹ trách nhiệm của Mỹ, nâng cao yêu sách về Campuchia và Lào.
Tất cả các sửa đổi đó nhằm nâng cao thế mạnh về chính trị và pháp lý cho Nguỵ quyền Sài Gòn, hạ thấp uy thế của cách mạng miền Nam - không muốn công nhận trên danh nghĩa hai Chính quyền, hai Quân đội, hai địa bàn ở miền Nam, chuẩn bị cho những hoạt động phá hoại sau này của Nguỵ.
Kissinger sau này viết:
“Bài phát biểu cốt để gây cảm xúc nhưng tác dụng của nó đã bị hỏng ngay lập tức khi tôi đề cập đến sáu mươi chín điều sửa đổi do Sài Gòn đòi hỏi. Đó là một sai lầm nặng nề về chiến thuật. Danh sách đó quá vô lý, nó vượt quá những điều mà tôi đã dự tính công khai cũng như trong nội bộ và chắc chắn nó làm tăng thêm ý đồ vốn mạnh mẽ của Hà Nội giữ nguyên lập trường cũ của họ và chờ đợi cho chúng ta bị nghẹt thở vì thời gian mà Quốc hội định ra cho chúng ta. Nếu tôi đưa ra những yêu sách đó là cốt để cho người ta khỏi trách tôi là không chú ý tới quyền lợi của Sài Gòn và đề nghị cho Thiệu dễ chấp nhận" (H.Kissinger. Ở Nhà Trắng. Sđd, tr. 1476).
Một điều đáng chú ý là trong suốt buổi gặp này Kissinger luôn tỏ ra vui vẻ, luôn nói rằng các đề nghị ông ta đưa ra không phải là thực chất, chỉ là câu chữ, sửa đổi như vậy là để rõ ràng hơn, để dễ dàng cho công việc. Khi Lê Đức Thọ nhận xét những điều ông ta đưa ra là tiêu cực thì ông ta vội bào chữa rằng sửa đổi đó là trung lập xen thêm vào các câu nói bông đùa và những khái niệm lý thuyết về triết học, cốt là cho đối phương nuốt trôi được những cục xương quá cứng. Kissinger tỏ ra không hiểu đối phương. Ông ta còn nói rằng người ta còn yêu cầu ông ta sửa đổi nhiều hơn nữa nhưng ông ta không làm và mong ông Thọ hiểu cho.
Lê Đức Thọ nói cho Kissinger biết những vấn đề ông ta nêu ra có những vấn đề thực chất và nguyên tắc. Đó là khó khăn lớn và nhấn mạnh:
- Nếu đó là những đề nghị cuối cùng của các ông không thay đổi nữa thì không giải quyết được.
Kissinger đáp:
- Đó là những đề nghị cuối cùng nhưng không phải là tối hậu thư.
Thương lượng lại
Sau cuộc gặp này, đoàn ta ở Paris thấy rằng ngoài một số câu chữ, Kissinger đã đề ra đến sáu vấn đề về thực chất.
Trong lúc Mỹ tăng cường hoạt động quân sự và tăng cường lực lượng cho Nguỵ để giành ưu thế trên chiến trường thì trong đàm phán và hoạt động ngoại giao họ đã đưa ra nhiều đòi hỏi quá đáng, ép ta phải lùi so với những điều kiện hai bên đã thoả thuận trước, nhất là những vấn đề liên quan đến yêu cầu tối thiểu của ta đã nói ở trên.
Hà Nội cho rằng ý đồ của Mỹ là nếu ép được ta nhượng bộ thì Mỹ có thể giải quyết nhanh để kết thúc chiến tranh có lợi cho Mỹ, nếu không thì Mỹ kéo dài đàm phán, tiếp tục chiến tranh.
Vẫn phải đề phòng hai khả năng:
- Nếu trong đàm phán Mỹ phải lùi trên những vấn đề về thực chất thì có thể ký Hiệp định trước ngày 20 tháng 1 năm 1973.
- Nếu Mỹ giữ lập trường ngoan cố thì điều đó chứng tỏ Mỹ muốn kéo dài đàm phán để tiếp tục chiến tranh.
Nhưng dù Mỹ muốn đi vào giải quyết sớm thì cũng khó đi đến thoả thuận trong đợt gặp riêng này mà còn phải kéo dài vài cuộc gặp nữa.
Ta cũng cho rằng về thời gian ta không vội. Nếu Nixon muốn giải quyết chiến tranh trước khi nhận nhiệm vụ nhiệm kỳ mới 20 tháng 1 năm 1973 và muốn đưa một số tù binh về nước trước lễ Noel thì chính họ bị thời gian thúc bách. Ta cần phát huy lợi thế của ta để buộc họ phải giữ nội dung đã thoả thuận.
Hà Nội vẫn theo đường lối đã có: vừa đấu tranh công khai và bí mật, vừa kết hợp trong và ngoài nước, kết hợp hoạt động ngoại giao và đấu tranh trên dư luận tố cáo âm mưu của địch.
Hà Nội cũng tăng cường những biện pháp phòng thủ để sẵn sàng đánh trả những bước phiêu lưu đầy tội ác của Nixon. Đợt gặp lại trong thời gian này dưới con mắt của Hà Nội đã trở thành một cuộc thương lượng lại đầy khó khăn do Mỹ gây ra.
Hôm sau, 21 tháng 11, khi bước vào cuộc họp, Lê Đức Thọ tỏ rõ ngay một thái độ không khoan nhượng. Ông nhắc lại công hàm của Nixon nói Hiệp định xem như đã hoàn thành, và bài phát biểu của Phó Tổng thống Mỹ Agnew hôm 29 tháng 10 năm 1972, nói rằng chỉ còn vài câu chữ cần nói rõ thêm chứ không thêm gì về thực chất, và ông Thọ phê phán khá gay gắt những vấn đề lớn mà Kissinger đưa ra hôm qua không phải là những vấn đề chi tiết mà là những vấn đề về thực chất và nguyên tắc quan trọng mà ta không thể chấp nhận được.
Trước hết, Lê Đức Thọ nêu ra việc Kissinger đòi bỏ hết vai trò của chính phủ Cách mạng Lâm thời mà chỉ nói các bên tham gia Hội nghị, và nhất quyết đòi ghi tên Chính phủ cách mạng Lâm thời và tên các Chính phủ khác vào Hiệp định. Ông Thọ nêu rõ vai trò to lớn của Chính phủ Cách mạng Lâm thời ở miền Nam cũng như trên trường quốc tế lúc đó đã được hơn sáu mươi nước công nhận.
Thứ hai, Lê Đức Thọ nêu rõ rằng từ nhiều năm nay ở miền Nam Việt Nam có ba vùng - một vùng do Chính quyền Sài Gòn kiểm soát - một vùng do chính phủ Cách mạng Lâm thời kiểm soát và một vùng tranh chấp. Việc Kissinger đòi xoá bỏ các vùng do Chính phủ Cách mạng Lâm thời kiểm soát - một điều cả quân Mỹ và quân Nguỵ không làm được từ xưa tới nay - là một đòi hỏi vô lý, ông Thọ đòi phải giữ lại quy định cũ ghi rõ chữ “vùng kiểm soát của mỗi bên” trong Hiệp định.
Lê Đức Thọ bác bỏ mạnh mẽ nhất là việc Mỹ đòi rút quân miền Bắc. Ông nhắc lại quan điểm của ta nhiều năm nay, khẳng định quyền chống xâm lược của nhân dân Việt Nam và vạch rõ không thể đặt việc rút quân gọi là "miền Bắc" ngang hàng với việc rút quân Mỹ. Đặt vấn đề như vậy không chính đáng, trái với đạo lý, chính trị và pháp lý mà Kissinger trước đây đã phải công nhận.
Lê Đức Thọ lại nhắc đến diễn văn của Phó Tổng thống Mỹ không thể đề ra việc rút quân miền Bắc khỏi miền Nam được. Đuối lý Kissinger nói:
- Chúng tôi phải cách chức người đã soạn diễn văn đó cho Agnew.
Sang Chương III, về việc trao trả những người bị bắt, Lê Đức Thọ càng tỏ ra cứng rắn thêm: rút lui sự thoả thuận của ta hồi tháng 10 đối với tù chính trị ở miền Nam và đòi thả hết các nhân viên dân sự miền Nam còn bị giam giữ cùng một thời gian với việc rút quân Mỹ. Ông Thọ nói lại: đấy là trách nhiệm của Mỹ chứ không phải Sài Gòn. Dẫn chứng từ báo cáo của đoàn điều tra của Hạ viện Mỹ ở miền Nam, ông Thọ nói rõ chính các nghị sĩ Mỹ đã vạch rõ Mỹ đã bỏ tiền túi xây nhà tù ở miền Nam. Lê Đức Thọ nói:
- Bây giờ ông nêu ra ký bốn bên thì bốn bên phải thả hết. Mỹ đã không chịu ký Hiệp định vào thời điểm đã thoả thuận cho nên vấn đề này lại phải đặt ra. Và đây là vấn đề chúng tôi không thể chấp nhận như cũ được.
Rồi ông hỏi Kissinger:
- Ông thấy trên thế giới có cuộc chiến tranh nào giữa các bên khi đã chấm dứt rồi, một bên trao trả những người bị bắt, còn bên kia cứ giữ lại không? Nếu một bên giữ lại thì bên kia cũng giữ lại. Đó là công bằng và hợp lý nhất... Và vấn đề này không giải quyết được thì không những nhân dân Việt Nam mà cả nhân dân thế giới cũng phẫn nộ.
Lê Đức Thọ còn đòi rút hết nhân viên dân sự Mỹ đưa vào làm các việc liên quan đến quân sự.
Ông dành nhiều thời gian để phê phán những sửa đổi của Mỹ về quyền tự quyết của nhân dân miền Nam Việt Nam:
- Có thể nói các ông đã sửa đổi đến một mức không còn giá trị gì nữa. Những vấn đề Hội đồng hoà hợp dân tộc ba thành phần là vấn đề nguyên tắc và thực chất mà các ông đã đồng ý - bây giờ các ông lại đòi sửa đổi. Đó là điều không chấp nhận được.
Để tăng thêm sức phản kích, Lê Đức Thọ đòi lập Hội đồng ba thành phần 15 ngày sau ngừng bắn, đòi tổng tuyển cử ở miền Nam 6 tháng, đòi Thiệu phải từ chức hai tháng trước tuyển cử - hai điểm này Kissinger đưa ra hôm 15 tháng 9.
Lê Đức Thọ nói những đề nghị mà Kissinger đưa ra không thể xem xét được mà đòi lập cơ cấu Chính quyền ba thành phần như cũ. Ông nhấn mạnh:
- Hội đồng Quốc gia hoà hợp hoà giải dân tộc không phải là một Chính phủ, cũng không phải là một cơ quan hành chính, mà nó phải có quyền lực trong phạm vi nhất định trong nhiệm vụ đôn đốc việc thi hành các Hiệp định đình chiến, thực hiện tự do dân chủ...
Tuy vậy, Lê Đức Thọ cũng đồng ý với một số đề nghị mà phía Mỹ đưa ra: đổi giờ Đông Dương trong văn bản cũ thành giờ GMT, ký Hiệp định bốn bên.
Về Điều 1, Lê Đức Thọ nói:
- Đúng là Hoa Kỳ phải tôn trọng các quyền dân tộc cơ bản của nhân dân Việt Nam, nhưng vì chiếu cố đến danh dự của các ông nên chúng tôi đồng ý viết lại là: “Tất cả các nước tôn trọng độc lập chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Việt Nam”.
Cùng với lý do trên, ông Thọ đồng ý thay câu: “Hoa Kỳ không được áp đặt một xu hướng chính trị hay một cá nhân nào cho miền Nam Việt Nam”, bằng chữ: “Nước ngoài”.
Ta cũng đồng ý khi ký các Hiệp định thì ký luôn các Nghị định thư, nhưng không đồng ý với việc Mỹ đòi thay thế các loại vũ khí “đã dùng hết”.
Ngoài ra Lê Đức Thọ cũng đưa ra một công thức về khu phi quân sự: "Trong khi chờ đợi thống nhất Việt Nam, miền Nam và miền Bắc tôn trọng khu phi quân sự và sẽ thoả thuận về qui chế khu phi quân sự và định ra thể thức qua lại giới tuyến quân sự tạm thời".
Kissinger hoan nghênh ngay và cho đó là một tiến bộ về thực chất. Nhưng sau này ta sẽ thấy nó trở thành vấn đề rất phức tạp.
Lê Đức Thọ cũng dự kiến trong tuần làm xong văn bản Hiệp định. Hai mươi bốn giờ sau đó Mỹ chấm dứt ném bom miền Bắc, dành một tuần nữa cho Mỹ trao đổi với Sài Gòn. Sau đó Kissinger vào Hà Nội ký tắt.
Sau khi ký tắt có thể ngừng bắn trên thực tế.
Kissinger hoan nghênh những nhân nhượng mà ông Thọ mới nêu ra nhưng cho rằng những nhân nhượng đó chỉ cải thiện không khí thương lượng chứ không ảnh hưởng gì đến các điều khoản thật sự và thực chất thi hành Hiệp định.
Ông ta vẫn giữ ý kiến cho rằng bốn bên sẽ ký với tên gọi chính thức của họ - vẫn hỏi tại sao không thể ngừng bắn cùng một lúc ở Lào và Campuchia.
Ông ta còn than phiền rằng Lê Đức Thọ đã rút đi tất cả những nhân nhượng mà Việt Nam đã đưa ra hồi tháng 10 về vấn đề tù dân sự còn bị giữ ở miền Nam. Ông ta nói những đề nghị bầu cử ở miền Nam trong sáu tháng mà ông đưa ra hồi tháng 9 đã lỗi thời. Kissinger nói rằng chắc chắn Sài Gòn sẽ không chấp nhận rằng tất cả lực lượng được gọi là kẻ địch vẫn ở lại đất nước của họ, hơn nữa lực lượng đó lại được bổ sung 30.000 người đang bị giam giữ. Ông ta nói:
- Nếu các ông giải quyết thoả đáng vấn đề lực lượng quân sự thì vấn đề tù dân sự sẽ được giải quyết một cách dễ dàng hơn. Tôi tin chắc rằng nếu có một sự rút lui các lực lượng thì việc thả người bị giam giữ có thể được thúc đẩy dễ dàng hơn.
Kissinger nêu ra một khó khăn về kỹ thuật là nếu sau này Việt Nam nói có lực lượng miền Bắc ở miền Nam thì ông ta e ngại rằng các đơn vị này của Bắc Việt Nam sẽ không bị ràng buộc bởi các điều khoản ngừng bắn của Hiệp định.
Lê Đức Thọ phản ứng ngay:
- Ông chỉ nói có một nửa câu thôi, vì cái mà ông gọi là lực lượng Bắc Việt Nam đó là những đơn vị gồm những con em miền Nam, có những người thanh niên miền Bắc tổ chức thành những đơn vị vào thật. Những đơn vị đó thuộc lực lượng Quân đội Giải phóng miền Nam và do đó đã nói trong Hiệp định rồi.
Kissinger cố thuyết phục ông Thọ rằng có hai chỗ ông ta nói về phục viên số quân đã giảm về sinh quán và việc lực lượng vũ trang các nước Đông Dương ở trong biên giới của mình - cốt cho cụ thể hơn - và Việt Nam Dân chủ Cộng hoà không cần phải thú nhận là có lực lượng vũ trang ở ngoài biên giới Việt Nam Dân chủ Cộng hoà.
“Chúng tôi hiểu vấn đề nguyên tắc của các ông... chúng tôi đồng ý không nói rõ trong Hiệp định... mà thêm vào cốt để duy trì nguyên tắc đã nói tới nhưng chưa rõ”.
Kissinger vẫn không chịu ghi "vùng kiểm soát" của hai bên.
Kết thúc buổi họp, Kissinger nói hai bên đã vượt được một chặng đường dài và hy vọng hòa bình sẽ được lập lại trong mấy tuần tới.
- Điều đó không tuỳ thuộc chúng tôi mà tuỳ thuộc các ông - Lê Đức Thọ trả lời.
Cuộc thảo luận bước sang ngày thứ ba (22 tháng 11). Kissinger chấp nhận điều 1 sửa đổi mà Lê Đức Thọ đã nêu ra. Nhưng vẫn đòi làm rõ tất cả các lực lượng có mặt tại Nam Việt Nam phải chấm dứt hoạt động quân sự khi ngừng bắn. Ông ta cũng đề nghị các nhân viên dân sự Mỹ đưa vào không được làm những nhiệm vụ mà họ đã không làm trước ngày 1 tháng 11 hay 15 tháng 10. Về vấn đề này ông Thọ trả lời ngay:
- Chúng tôi vẫn giữ lập trường cũ. Nếu là nhân viên dân sự Mỹ về kinh tế thì các ông giữ lại, còn những nhân viên dân sự phục vụ quân sự thì phải rút đi. Ý các ông muốn tiếp tục chiến tranh hay hoà bình là ở chỗ này.
Trở lại vấn đề rút các lực lượng không phải Nam Việt Nam, Kissinger nói rằng vấn đề này có tính chất quyết định đối với việc Chính quyền Sài Gòn có chấp nhận hay không Hiệp định này. Nhưng để tỏ thiện chí một lần nữa chúng tôi chấp nhận như cũ.
Nhưng Kissinger vẫn đòi được thay thế vũ khí đã dùng hết. Lê Đức Thọ nói ngay:
- Đây cũng là để tỏ thiện chí, chúng tôi đồng ý để các ông dùng chữ đã dùng hết. Đó là một nhân nhượng lớn lắm. Như vậy là các ông thả cửa đưa vũ khí vào!.
Kissinger:
- Không phải. Chúng tôi không muốn tiếp tục chiến tranh. Vấn đề quan trọng ở đây là dù có ghi điều khoản như thế nào đi nữa, nếu chúng ta muốn tiếp tục chiến tranh thì chúng ta cũng có cách tiếp tục chiến tranh. Một khi các ông chiến đấu trở lại thì các ông lại chiến đấu lâu dài.
Lê Đức Thọ vừa cười vừa thăm dò:
- Chắc là nếu chiến đấu một lần nữa thì các ông không vào nữa
Kissinger:
- Tôi chỉ nói rằng nếu Hiệp định bị vi phạm thì tình hình sẽ rất nguy hiểm.
Lê Đức Thọ:
- Nhưng nếu vi phạm thì chắc chắn là không phải chúng tôi vi phạm trước.
Về vấn đề tù dân sự ở miền Nam, Kissinger đề nghị:
- Chúng tôi cho rằng giữ văn bản cũ mà chúng ta đã thoả thuận là cơ sở tất nhất để giải quyết vấn đề này.
Lê Đức Thọ:
- Đó không phải là tốt nhất - Chúng tôi chưa đồng ý.
Sang vấn đề chính trị nội bộ miền Nam, Kissinger vẫn giữ lập trường hôm trước, chỉ đồng ý thêm:
“Hai bên Nam Việt Nam sẽ tham khảo về tổ chức chi tiết”.
- Câu này đúng là trừu tượng? - Lê Đức Thọ nhận xét ngay.
Vào cuối buổi, Kissinger đưa ra một thời điểm:
Thỏa thuận xong văn bản vào thứ bảy hay chủ nhật.
Ngày 3 tháng 12, Kissinger đi Sài Gòn; ở đó các ngày 5-6-7 tháng 12.
Ngày 8 và 9 tháng 12, Kissinger đi Hà Nội.
Ngày 10 tháng 12, Kissinger về Mỹ.
Ngày 11 tháng 12, tối,..: giờ Washington, công bố Hiệp định ngừng bắn trên thực tế.
Ngày 14 hoặc 15 tháng 12, ký Hiệp định tại Paris.
Cuộc họp tạm nghỉ. Khi họp lại lúc mười bảy giờ, Lê Đức Thọ nhận xét là Kissinger cũng có một số thiện chí nhưng trong những vấn đề nguyên tắc lớn mà ông Thọ đưa ra thì Kissinger chưa đáp ứng, như vấn đề những người dân sự bị bắt, việc ghi tên Chính phủ Cách mạng Lâm thời, vấn đề chính trị nội bộ miền Nam. Còn vấn đề gọi là quân miền Bắc thì Kissinger tuy có sửa đổi một số câu chữ nhưng ông ta vẫn còn bị ám ảnh. Ngoài ra còn một số vấn đề cụ thể chưa thấy ông ta nói.
Kissinger:
- Chỗ ám ảnh về quân miền Bắc chỉ còn hai câu.
- Như thế là chưa bỏ hẳn - ông Thọ nói.
Kissinger nói đại ý:
- Trong những sửa đổi của Mỹ có ba điểm lớn: Một là vấn đề Hội đồng hoà hợp hoà giải dân tộc; hai là lực lượng vũ trang miền Bắc ở Nam Việt Nam - và một sự thay đổi về điều 20 (về Campuchia và Lào).
Lê Đức Thọ:
- Nhưng đó là những thay đổi quan trọng đối với chúng tôi, và những vấn đề sửa đổi của Mỹ là những vấn đề chính trị lớn lắm.
Kissinger nói rằng ông ta đã bỏ đi những điều gây khó khăn cho Việt Nam - không nói đến lực lượng miền Bắc ở Nam Việt Nam nữa. Trước Hoa Kỳ nói mập mờ về quá trình chính trị nay không nói như vậy nữa.
Một lần nữa ông lại nói:
- Chúng tôi nhận thấy rằng có hai Chính quyền, hai Quân đội về thực chất hai bên ở Nam Việt Nam. Đó là lý do chúng tôi nói đến các lực lượng khác một cách chung chung ở miền Nam. Chúng tôi không phủ nhận thực tế của vấn đề. Trong vấn đề giảm quân số, chúng tôi chỉ nói rõ thêm về thủ tục: phục viên về nguyên quán. Trong vấn đề Lào và Campuchia chúng tôi cũng muốn nói cho rõ thêm.
Lê Đức Thọ không trả lời về các vấn đề này mà nói về thời điểm mà Kissinger đưa ra:
- Tôi cho rằng phải cố gắng giải quyết theo thời điểm mà ông nêu ra. Nhưng ông Cố vấn đừng dùng thời điểm này để ép tôi như lần trước. Chúng ta đã định ra thời điểm thì phải làm cho đúng.
- Có lẽ ta nói 15 tháng 1 vậy - Kissinger đáp.
Lê Đức Thọ:
- Điều đó tuỳ ông, chúng tôi không có ý kiến gì vì tôi rút kinh nghiệm lần trước. Ông Cố vấn để tôi về Hà Nội, rồi ông không vào. Ông là người trực tiếp lừa dối tôi. Toi là người bị ông trực tiếp lừa dối.
Kissinger tỏ ra hối tiếc về việc đã xảy ra và nói:
- Lần này chúng tôi thận trọng hơn, không tuỳ tiện, không lừa dối các ông, không làm cho các ông bất lợi vĩnh viễn.
Cuộc họp kết thúc. Phía Mỹ đưa cho Việt Nam hai dự thảo Nghị định thư về Uỷ ban Quốc tế và Uỷ ban Liên hợp quân sự bốn bên ở Việt Nam.
Hai bên hẹn gặp lại nhau ngày mai, 23 tháng 11 năm 1972.
Ngày hôm sau, khi vào họp, Lê Đức Thọ đã lưu ý ngay Kissinger đến việc Mỹ tăng cường dùng B52 ném bom dữ dội từ vĩ tuyến 20 trở vào với mức độ rất ác liệt có thể nói là cao nhất từ trước tới nay. Ông nói rõ những hành động đó làm trở ngại cho đàm phán và yêu cầu Kissinger chuyển lời phản đối của Việt Nam đến Tổng thống Mỹ. Kissinger hứa sẽ làm việc đó và tỏ ý hy vọng sớm đạt được kết quả để chấm dứt ném bom.
Lê Đức Thọ nói đến vấn đề thủ tục, nhắc lại rằng lần này hai bên thoả thuận xong là thôi, không thay đổi gì nữa. Kissinger đồng ý và nêu ra hai vấn đề mà hôm qua ông chưa đề cập đến: vấn đề khu phi quân sự và nhân viên dân sự Mỹ.
Về vấn đề nhân viên dân sự Mỹ, Kissinger nói Hoa Kỳ không biến những chức năng quân sự thành những chức năng dân sự, mà Hoa Kỳ có một số lớn làm việc đó ở miền Nam. Và để tỏ thiện chí, Hoa Kỳ đã giảm bớt đi rất nhiều số người đó, số còn lại chỉ ở lại trong một thời gian hạn chế để huấn luyện người Nam Việt Nam sử dụng vũ khí và sau khi làm xong nhiệm vụ họ sẽ rút
Lê Đức Thọ nêu ra còn hai chương rất khó khăn, đó là Chương III (Vấn đề trao trả người bị bắt) và Chương IV (vấn đề chính trị miền Nam), nhưng ông tạm gác lại và đòi giải quyết các vấn đề khác trước.
Trước hết là Phần mở đầu của Hiệp định, Lê Đức Thọ vẫn một mực đòi ghi rõ bốn bên là ai, còn sau đó trong nội dung thì có thể viết đơn giản hơn cũng được.
Ông nói rõ:
- Chính phủ Cách mạng Lâm thời sẽ không ký nếu không ghi tên chính thức của họ.
Kissinger vẫn giữ cách làm của Mỹ là không ghi Sài Gòn, cũng không ghi Chính phủ Cách mạng Lâm thời, nhưng mỗi bên khi ký Hiệp định thì ghi tên chính thức của họ. Ông Thọ không chấp nhận và đòi ghi rõ như trong Hiệp định Genève năm 1954 và 1962 về Lào tên các Chính phủ ký Hiệp định.
Còn nhân viên dân sự Mỹ, Lê Đức Thọ đòi rút hết trong 60 ngày. Ông tiếp tục đòi bỏ câu "lực lượng các nước Đông Dương phải ở trong biên giới của mình", và hỏi Kissinger:
- Đối với Mỹ, có điều nào nói Quân đội Mỹ phải ở trong biên giới của mình đâu.
Lê Đức Thọ đưa ra cách viết về Lào và Campuchia:
“Các bên tham gia Hội nghị Paris sẽ triệt để tôn trọng các nghĩa vụ của mình đối với Hiệp định Genève năm 1954 về Campuchia và 1952 về Lào, và sẽ tôn trọng các quyền dân tộc cơ bản của Lào và Campuchia".
Kissinger đồng ý nhưng vẫn đòi ngừng bắn đồng thời ở Lào cùng với ngừng bắn ở Việt Nam. Ông ta cho rằng đó là một sự hợp lý. Vì sau khi chiến tranh ở Việt Nam chấm dứt mà chiến tranh ở Lào kéo thêm một tháng thì Mỹ sẽ phải ném bom và phía Việt Nam cũng bị lôi cuốn vào.
Tiếp đó Kissinger đưa ra công thức về khu phi quân sự:
“Miền Nam và miền Bắc sẽ tôn trọng khu phi quân sự và lãnh thổ của nhau như đã qui định trong (điều 24) Hiệp định Genève năm 1954".
Hàm ý của Mỹ là muốn nêu lại vấn đề về tập kết quân vào Hiệp định như chuyện giữa ta và Pháp năm xưa.
Lê Đức Thọ đề nghị lại:
"Trong khi chờ đợi thống nhất Việt Nam, miền Nam và miền Bắc Việt Nam sẽ tôn trọng khu phi quân sự ở hai bên giới tuyến quân sự tạm thời".
Ông giải thích thêm:
- Trước đây chúng tôi chiến đấu chống Pháp, nay chúng tôi chiến đấu chống các ông. Khi các ông rút ra rồi thì cả hai bên đều phải tôn trọng và cả hai bên đều không đưa vũ khí, dụng cụ chiến tranh vào miền Nam.
Kissinger nói:
- Tôi bị ám ảnh ở hai điều: về đường mòn Hồ Chí Minh và về cái gọi là lực lượng miền Bắc. Đường mòn Hồ Chí Minh chúng ta đã giải quyết xong rồi, còn về vấn đề cái gọi là quân miền Bắc, hôm qua chúng tôi rút đề nghị đó nhưng chúng tôi muốn nêu ra một ý kiến là: "Trước khi Hiệp định có hiệu lực hoặc sau đó một, hai ngày có lẽ hai bên bố trí lại lực lượng của họ như là một cử chỉ đơn phương... Việc bố trí lại lực lượng này không phải là một bộ phận của Hiệp định..." Nếu bố trí lại lực lượng đó thì người ta đã thấy đó là một việc đóng góp tích cực rất nhiều. Ví dụ các lực lượng ở trong phần miền Bắc của Nam Việt Nam được bố trí lại thì thấy được rất dễ.
Lần trước khi Kissinger yêu sách thêm về vấn đề Lào, Lê Đức Thọ đã khó chịu. Lần này Kissinger lại huỷ bỏ điều hôm qua ông ta vừa chấp nhận, ông Thọ càng bực bội.
Lê Đức Thọ nói đúng vào thâm ý của Kissinger:
- Trong Hiệp định chúng tôi loại trừ tất cả những gì làm cho người ta có thể hiểu rằng đó là ám chỉ tới quân miền Bắc. Chúng tôi không bao giờ nhận để ghi vào Hiệp định một chữ nào để cho người ta có thể hiểu như thế. Chúng tôi kiên quyết và dứt khoát về chỗ đó. Chúng tôi đề ra việc giảm quân số và phục viên là thiện chí lắm rồi, là công bằng và hợp lý rồi.
Kissinger cho rằng như vậy chúng ta sẽ hướng việc chuyên chở vũ khí bằng đường mòn Hồ Chí Minh và ông ta lại bị ám ảnh một lần nữa.
Lê Đức Thọ nói:
- Các ông luôn luôn bị ám ảnh về đường mòn Hồ Chí Minh còn chúng tôi thì luôn luôn nghĩ tới các lực lượng của các ông ở Thái Lan, ở Philippin và hạm đội của các ông ở Thái Bình Dương rồi đây chưa biết sẽ ra sao.
- Khi hoà bình lập lại Hoa Kỳ sẽ giảm các lực lượng đó đi - Cố vấn Nhà Trắng trả lời.
Sau giờ nghỉ, Lê Đức Thọ cho là đã có tiến bộ như trong vấn đề thay thế vũ khí, vấn đề khu phi quân sự, nhưng còn lại một câu trong vấn đề Lào và Campuchia và tên bốn Chính phủ.
Lê Đức Thọ trở lại Chương III, Chương IV và nói:
- “Để giải quyết toàn bộ Chương III và chương IV, nếu các ông giữ đúng các điều đã thoả thuận ở Chương IV và giải quyết vấn đề ở Chương III như ý kiến chúng tôi thì chúng tôi có thể có những hiểu biết về quan tâm của các ông đến một thực tế là chúng tôi sẽ thảo luận với Chính phủ Cách mạng Lâm thời Cộng hoà miền Nam Việt Nam điều chỉnh lại một số lực lượng ở phía Bắc của Nam Việt Nam tức là phía Nam khu phi quân sự một cách tượng trưng. Và với việc ngừng bắn ở Lào, chúng tôi có thể bàn với đồng minh của chúng tôi để làm sao có thể ngừng bắn sớm hơn một tháng như trước đây chúng tôi đã nói với các ông”.
Kissinger hỏi ngay, giọng có vẻ khiêu khích:
- Sớm hơn một ít là thế nào, có phải là 28 ngày không? Tại sao không ngừng bắn ở Lào cùng một lúc với ngừng bắn ở Việt Nam?
Lê Đức Thọ nói một cách bực bội:
- Đây là vấn đề của nước khác, chúng tôi phải bàn với họ. Chúng tôi không thể bắt người ta làm ngay mà phải bàn với họ. Và trong đàm phán, có cái họ đồng ý, có cái họ chưa đồng ý. Về vấn đề Lào, trước đây các ông nói đã thoả mãn rồi nay các ông lại đòi thêm nữa. Cho nên các ông phải hết sức cố gắng về vấn đề tù binh và về vấn đề chính trị miền Nam, nếu không thì đàm phán sẽ bế tắc. Chúng tôi không thể có cố gắng nào nữa. Thiện chí của chúng tôi cũng có giới hạn. Không thể có hoà bình với bất cứ giá nào? Và cũng không thể có việc giải quyết nào mà bỏ hết nguyên tắc. Đó là cố gắng cuối cùng của chúng tôi.
Kissinger hỏi Lê Đức Thọ sẽ di chuyển lực lượng đi đâu, lực lượng đó là bao nhiêu - có phải về Tây Nguyên không. Ông ta còn nhận xét thêm rằng ta đưa ra hai yêu sách quan trọng, một là liên quan đến những người dân sự bị bắt, hai là rút nhân viên dân sự Hoa Kỳ, ngoài ra vấn đề khu phi quân sự và ngừng bắn ở Lào cũng có thay đổi chút ít. Còn việc di chuyển một số lực lượng ở phía Bắc của Nam Việt Nam thì ta chưa nói rõ số lượng.
Lê Đức Thọ:
- Đó là đề nghị của chúng tôi. Ông muốn điều chỉnh lực lượng bao nhiêu, ông muốn ngừng bắn ở Lào như thế nào? Nếu các ông đáp ứng Chương III và Chương IV thì chúng tôi có đáp ứng những điều nói trên. Nhưng tôi nhắc ông rằng Chương IV các ông đã thoả thuận với chúng tôi rồi, đáng lẽ không cần có sự hiểu biết nào nữa, nhưng đàng này chúng tôi đã có thiện chí nhiều lắm rồi.
Kissinger:
- Chúng ta không nên tranh cãi Chương IV đã được thoả thuận hay chưa thoả thuận. Hai bên chúng ta đang thảo luận để đi tới thoả thuận.
Lê Đức Thọ:
- Chính công hàm của Tổng thống gửi cho chúng tôi đã nói văn bản Hiệp định đã hoàn thành. Vậy thì lời nói của Tổng thống các ông thế nào?
Cuộc họp trở nên rất căng thẳng. Lê Đức Thọ nhấn mạnh:
- “Đây là cô gắng cuối cùng của chúng tôi. Nếu các ông không chịu giải quyết thì có thể nói đàm phán sẽ bế tắc không có cách nào khác. Hoà bình hay chiến tranh điều đó hoàn toàn tuỳ thuộc vào các ông”
Mặc dầu ta đã tỏ thiện chí muốn giải quyết vấn đề, nhưng Kissinger vẫn không chấp nhận. Ông ta vẫn nói rằng Sài Gòn không thể chấp nhận và vấn đề bây giờ chưa giải quyết.
Về Chương IV, ông ta đồng ý chữ tổng tuyển cử thay cho chữ tuyển cử trong toàn quốc và thêm:
- Nếu như ông Cố vấn đặc biệt đồng ý như chúng tôi đề nghị Hội đồng Quốc gia hoà giải dân tộc đại diện cho tất cả các xu hướng chính trị ở Nam Việt Nam và các thành viên sẽ được lựa chọn bằng nhau thì chúng tôi sẵn sàng nói về hội đồng các cấp dưới như cũ.
Kissinger đòi giao cho chuyên viên bàn về nhiệm vụ “đôn đốc các bên" của Hội đồng. Ông ta vẫn nhắc lại cơ cấu hành chính trong văn bản tiếng Việt, và nói vấn đề giảm quân số và phục viên số quân đã giảm còn phải xem lại.
Lê Đức Thọ tỏ ra bực mình hơn:
- Việc trao trả những người bị bắt và giam giữ, chính ông Cố vấn nói với chúng tôi có sự hiểu biết về việc điều chỉnh lại một số lực lượng ở phía Bắc của Nam Việt Nam thì sẽ dễ dàng cho việc giải quyết vấn đề nhân viên dân sự bị bắt. Nhưng bây giờ chúng tôi đề ra việc đó thì ông lại không giải quyết gì cả. Như vậy thì đàm phán thế nào?
Kissinger tìm cách thay đổi ý kiến trước đó nên nói rằng ông ta muốn nói việc bố trí một số lực lượng là để làm cho việc đi đến Hiệp định. Đó là điều quan trọng nhưng không quyết định. Thứ hai là ông ta muốn việc bố trí lại một cách đáng kể một số lượng nhiều hơn là một số lượng tượng trưng thì sẽ làm dễ dàng việc giải quyết những vấn đề người dân sự bị giam giữ.
Lê Đức Thọ:
- Nếu chỉ là vấn đề ký Hiệp định thì không có gì, chúng tôi phải có sự hiểu biết về việc bố trí lại lực lượng vì Hiệp định này đã được thoả thuận giữa các ông và chúng tôi rồi.
Lê Đức Thọ nhắc lại công hàm của Nixon. Kissinger tỏ ra bí nhưng vẫn ngoan cố, nói phải xin ý kiến của Tổng thống. Ông ta đề nghị nghỉ để ngày mai thảo luận các Nghị định thư. Lê Đức Thọ từ chối:
- Mới hôm qua đây ông đồng ý với chúng tôi là thảo luận xong Hiệp định mới thảo luận Nghị định thư, bây giờ chưa thảo luận xong Hiệp định, ông lại đề nghị thảo luận Nghị định thư. Vậy thì lời nói của ông có giá trị như thế nào?
Kissinger nói khiêu khích:
- Vì thấy Bộ trưởng Xuân Thuỷ ít việc làm nên chỉ làm mỗi việc là tuyên bố mập mờ.
Lê Đức Thọ tiếp tục:
- Chúng tôi đã cố gắng hết sức. Cả thế giới đều biết. Còn bây giờ các ông đề nghị không thảo luận nữa chúng tôi cũng tán thành.
Và hỏi lại Kissinger:
- Các ông có muốn đàm phán nữa không? Nếu ông Cố vấn muốn thôi thì chúng tôi cũng thôi, mà muốn bàn nữa thì chúng tôi bàn, mà bàn thì phải có đi có lại.
Kissinger hỏi:
- Ông Cố vấn đưa ra một tối hậu thư?
Lê Đức Thọ đập bàn:
- Về Chương IV thì đúng như thế. Mấy chữ chúng tôi nói không thể nào thay đổi: ba thành phần, hội đồng các cấp, tên hội đồng. Ba điều đó chúng tôi không nhân nhượng!
Kissinger:
- Tôi phải về xin ý kiến Tổng thống?
Lê Đức Thọ:
- Tuỳ các ông. Giải quyết được thì có hoà bình, không giải quyết được thì chiến tranh tiếp tục.
Cuộc thảo luận kết thúc trong không khí nặng nề. Không hẹn ngày gặp lại - Kissinger chỉ nói sáng mai sẽ liên hệ với Việt Nam. Tình thế tỏ ra bế tắc.
Họp hẹp - Gián đoạn
Nhưng ngay đêm đó Kissinger đã gửi cho ta một công hàm đề nghị một cuộc họp hẹp vào sáng hôm sau tại số nhà 11 phố Darthé. Phía Mỹ có hai người: Kissinger và Haig, còn bên ta có Lê Đức Thọ, Xuân Thuỷ và phiên dịch.
Sau khi nhắc lại ý muốn hoà bình của hai bên và hai bên đã đi đến bước quyết định, Kissinger đọc một bức điện Nixon gửi riêng cho ông, mà đáng lẽ là không nên đọc ra, nhưng thấy cần cho ta biết thái độ của Nixon.
"Tôi thấy bực mình về giọng nói và thực chất trong phiên họp vừa qua. Trong hoàn cảnh như vậy, trừ phi phía bên kia tỏ ra sẵn sàng chú ý tới sự quan tâm hợp lý của chúng ta, tôi chỉ thị cho ông ngừng đàm phán và chúng ta sẽ phải tiếp tục lại các hoạt động quân sự cho đến khi phía bên kia sẵn sàng đàm phán theo điều kiện có danh dự. Phải làm cho phía bên kia từ bỏ những ý nghĩ của họ là chúng ta không có sự lựa chọn. nào khác ngoài việc phải giải quyết theo như điều kiện hiện nay. Ông phải trực tiếp báo cho họ là chúng ta có cách khác.
Nếu họ ngạc nhiên là Tổng thống có hành động mạnh mẽ như trước ngày gặp gỡ cấp cao ở Matxcơva và trước ngày bầu cử thì họ sẽ thấy rằng chúng ta bây giờ sẽ tiến hành mọi hành động cần thiết để bảo vệ lợi ích của Hoa Kỳ".
Trong khi đọc, Kissinger nhắc lại đây không phải là thông điệp chính thức nên lời lẽ không được ngoại giao lắm.
Đọc xong, Kissinger nói thêm: tôi chưa có liên lạc với Tổng thống. Chúng tôi có được quyền để có thêm một cố gắng tối đa nữa sẽ đưa ra trong ngày mai. Rồi ông ta lại giải thích khó khăn của Mỹ: phải chú ý đến ý kiến của Sài Gòn. Ông ta nói rằng Mỹ cần một văn kiện trong đó họ có thể chứng minh một cách quyết tâm rằng một số ý kiến của Sài Gòn đã được lắng nghe - mà các văn kiện có thể dự kiến thấy được còn rất xa với sự đòi hỏi của Sài Gòn. Nếu bị đẩy quá giới hạn tối đa thì bế tắc hoàn toàn. Bây giờ hai bên đang đứng trước ngã ba đường. Cả hai chúng ta đã đến một điểm như cái tủ đã rỗng hết rồi.
Ông đề nghị sáng mai có phiên chính thức vào mười hai giờ trưa. Ai cũng thấy đây là một sự đe doạ. Nhưng sau buổi họp hôm qua, Lê Đức Thọ trở lại bình tĩnh và nói:
- Chúng tôi không thể nào ký một Hiệp định trong đó lại ghi điểm nói rằng quân miền Bắc phải rút khỏi miền Nam.
Tổng thống Nixon nói đến danh dự của Mỹ, chúng tôi cũng có danh dự của chúng tôi. Các ông đem quân đến xâm lược nước chúng tôi, bây giờ các ông phải rút đi, và đòi chúng tôi, những người chống xâm lược cũng rút đi. Nếu có như vậy trong Hiệp định thì nhân dân chúng tôi làm sao mà chịu nổi. Làm sao chúng tôi có thể ký một Hiệp định trong khi hàng vạn người của chúng tôi còn bị giam giữ mãi
Thứ ba, trong vấn đề chính trị miền Nam, chúng tôi đã cố gắng rất lớn. Bây giờ chỉ còn một cái Hội đồng như vậy với ba thành phần, còn phải do hai bên lựa chọn - ngoài ra hai bên còn ba tháng hiệp thương rồi mới lựa chọn - Hội đồng các cấp do hai bên lựa chọn ra. Chỉ còn ba vấn đề đó thôi.
Ông có thể tưởng tượng xem chúng tôi có thể ký một Hiệp định có câu ám chỉ quân miền Bắc, những người bị bắt không được thả, Chính phủ ba thành phần không được lập, Thiệu vẫn còn nguyên, Hội đồng còn phải sửa nữa!
Lê Đức Thọ còn nói đã chiếu cố đến quan tâm của Mỹ đối với ngừng bắn sớm hơn ở Lào, và tiếp tục:
- Tôi cũng đồng ý bây giờ đã đến bước quyết định - chỉ còn có cách giải quyết hoà bình hay chiến tranh. Chúng tôi muốn hoà bình, nhưng thiện chí của chúng tôi cũng có mức độ. Nhân nhượng quá mức chỉ là đầu hàng trá hình. Nhân dân chúng tôi không bao giờ đầu hàng.
Kissinger cũng mong ta thông cảm khó khăn của Mỹ không thể nào nói với Sài Gòn ký một Hiệp định mà còn 200.000 người đối địch trên lãnh thổ của họ. Cho nên việc bố trí lại một số lực lượng là một cử chỉ rất có ích. Và ông ta đưa ra con số 100.000 quân (một trăm ngàn).
Lê Đức Thọ:
- Tôi xin nói là ý nghĩ của ông quá chủ quan.
Cuối cùng ông Thọ mới phê phán bức điện đe doạ của Nixon:
- Đe dọa chúng tôi chẳng tác dụng gì đâu. Chúng tôi đã đánh nhau với các ông mười năm rồi, và cũng đã thương lượng với nhau nhiều năm rồi, nên nay phải có thái độ đi đến giải quyết, không thể dùng đe doạ được đâu?
Cuộc họp hẹp hôm ấy rất ngắn. Chỉ có 1 giờ 30 phút, kể cả việc phiên dịch.
Cái nan giải của Mỹ, một cường quốc mạnh nhất thế giới, là đã đưa một đội quân lớn hơn nửa triệu người đi quá nửa vòng quả đất mà không đàn áp nổi một phong trào giải phóng dân tộc ở một nước kém phát triển.
Kissinger đã nhận định: “đối với chiến tranh du kích, không thua nghĩa là thắng, còn đối với quân đội chính quy, không thắng có nghĩa là thua" (H.Kissinger. Ở Nhà Trắng. Sđd, tr 242.).
Và trong tình thế phải rút quân về không thể không thương lượng với đối phương được. Trong thương lượng với ta, Kissinger đã nói Mỹ chẳng may mà gặp ta chứ họ không chọn đối phương là ta
Còn cái không may của Kissinger, một nhà ngoại giao nhiều thủ đoạn, nhà thuyết khách có tài, lại đối mặt với một người như Lê Đức Thọ, một chiến sĩ đã được tôi luyện