MỤC 1 KHỦNG HOẢNG TOÀN DIỆN CUỐI NHÀ TRẦN
Cai trị nước ta suốt 174 năm, từ năm 1226 đến 1400, vương triều Trần trải qua 12 đời vua. Giai đoạn trị vì của 6 vua đầu nhà Trần (*) kéo dài 115 năm là thời kỳ lịch sử lớn, đánh bại 3 lần giặc xâm lược Nguyên Mông, góp phần xây dựng nền văn minh rực rỡ của dân tộc: văn minh Đại Việt. Tuy nhiên, đến đời vua Dụ Tông (1341 - 1369), nhà Trần đã bắt đầu suy vi, kế tục thêm 5 vua nữa (*) trong vòng 30 năm thì ngôi nhà Trần thực sự chấm dứt. Hai vua Hậu Trần: Giản Định Đế (1407 - 1409) và Trùng Quang Đế (1409 - 1413) chỉ là sự nối tiếp nhà Trần, với các vua của thời kỳ đất nước đã rơi vào tay giặc Minh xâm lược.
I. MẦM MỐNG SUY SỤPThực ra, ngay từ thời vua Trần Minh Tông, vương triều Trần đã bước đến giai đoạn quá độ hưng thịnh đến suy vi. Triều đại vua Minh Tông tuy vẫn còn giữ được truyền thống vẻ vang của nhà nước Đông A trong việc đối nội, đối ngoại nhưng nó cũng đã bộc lộ hiện tượng suy yếu, trong triều đã chia rẽ phe nhóm tranh chấp quyền lực, triệt hạ nhau, trật tự xã hội bắt đầu rối ren, nhân tâm có phần xao xuyến... Đại Việt sử ký toàn thư chép: “Vua đem văn minh sửa sang đạo trị nước, làm rạng rỡ công nghiệp của người xưa, giữ lòng trung hậu, lo nghĩ sâu xa, trong yên ngoài phục, kỷ cương đủ bày. Tiếc rằng không nhận biết mưu gian của Khắc Chung, để đễn nỗi Quốc Chẩn phải chết, đó là chỗ kém thông minh vậy” (*) .
Nguyên năm Mậu Thìn (1328), vua Minh Tông trị vì ở ngôi đã 15 năm mà vẫn chưa lập được Thái tử. Cha của Hoàng hậu Lệ Thánh là Quốc phụ Thượng tể Trần Quốc Chẩn (chú ruột của vua Minh Tông) vẫn muốn đợi Hoàng hậu có con rồi sẽ lập Thái tử. Trong khi đó, trong triều có một phe khác gồm Thiếu bảo Trần Khắc Chung cùng Cương Đông Văn hiến hầu là con (có sách chép là em) của Thái sư Trần Nhật Duật, lại muốn đưa ngay Trần Vượng là con của một bà phi họ Lê lên làm Thái tử. Quyết tâm triệt hạ Quốc Chẩn, Văn hiến hầu sai người đem 100 lạng vàng đến đút lót cho gia thần của Quốc Chẩn là Trần Phẩu, bảo Phẩu vu cáo Quốc Chẩn âm mưu làm phản. Sự việc diễn ra đúng như âm mưu của Văn hiến hầu, vua tin là thực, hạ lệnh bắt giam Quốc Chẩn, cấm tuyệt không cho ăn uống, bắt phải tự tử. Hoàng hậu Lệ Thánh phải lấy áo tẩm nước lén vào nơi giam cho cha uống, uống xong thì Quốc Chẩn chết. Sau đó, vua ra lệnh bắt hơn 100 người nghi có liên can với Quốc Chẩn... Nhưng vài năm sau, vụ án này được minh oan. Vì vợ cả, vợ lẽ của Trần Phẩu ghen nhau nên đem chuyện Văn hiến hầu âm mưu cùng Trần Phẩu vu cáo Quốc Chẩn nói ra cho mọi người biết. Trần Phẩu bị xử lăng trì nhưng chưa kịp hành hình thì gia nô của con của Quốc Chẩn đã giết và ăn hết thịt Phẩu! Văn hiến hầu thì bị giáng làm dân thường, bị xóa tên trong sổ hoàng tộc...
Dù sự kiện diễn ra như vậy, song ngay sau khi Quốc Chẩn chết thì Trần Vượng cũng đã được phong làm Đông cung Thái tử, tiếp đến được phong Hoàng Thái tử rồi 7 ngày sau, Thái tử Trần Vượng được vua Minh Tông truyền ngôi cho, tức vua Trần Hiến Tông. Lúc đó vua Hiến Tông mới 10 tuổi, quyền chính vẫn nằm trong tay Thượng hoàng Minh Tông.
Vua Hiến Tông “tư trời tinh anh, sáng suốt” nhưng ở ngôi không được lâu, đến năm 22 tuổi thì vua mất (năm Tân Tỵ - 1341). Thực ra triều Hiến Tông cũng là triều của Minh Tông, tuy không được hưng thịnh như trước, lúc này nhà Trần đã bộc lộ hướng suy sụp ở nhiều mặt, nhưng quân đội Đại Việt vẫn còn đủ sức chinh Nam chinh Tây, ngán ngừa được ngoại xâm, tình hình đối nội, đối ngoại vẫn tương đối ổn định...
Từ khi vua Hiến Tông mất, nguy cơ đổ nát của nhà Trần đã đến.
II. CUỘC KHỦNG HOẢNG TOÀN DIỆNA. ĐỐI NỘI
Tháng 6 năm Tân Tỵ (1341), vua Trần Hiến Tông mất. Vì vua Hiến Tông không có con nên Thượng hoàng Minh Tông lập người con thứ 10 của mình là Hoàng tử Trần Hạo (con của vua Minh Tông và bà Hiến Từ Hoàng hậu) lên nối ngôi, tức vua Trần Dụ Tông (1341 - 1369).
Từ đời vua Dụ Tông, nhà Trần đã bộc lộ suy sụp nhiều mặt, bắt đầu trượt nhanh xuống dốc.
1. Sự suy thoái của tầng lớp cầm quyềnCuối nhà Trần, hầu hết các vua đều không xứng đáng. Một số bất tài lại thiếu đạo đức. Một số chỉ có hư vị vì nhu nhược hoặc vì còn nhỏ tuổi... Chỉ trong vòng hơn 50 năm, nhà Trần đã thay vua đến 7 lần. Triều đình chia bè kéo cánh, tranh giành quyền lợi, giết hại lẫn nhau. Những kẻ bất tài dua nịnh thì được thăng quan tiến chức, còn người trung liệt thì treo ấn từ quan...
1.1. Những ông vua bất xứnga) Vua Dụ Tông trụy lạc, sa đọa: Dụ Tông lên ngôi vào tháng 8 năm Tân Tỵ (1341), lúc ấy vua mới 6 tuổi. Lúc đầu vì còn Thượng hoàng Minh Tông thay Dụ Tông trị nước nên nói chung tình hình trong nước chưa xảy ra điều gì quá tồi tệ. Đến tháng 2 năm Đinh Dậu (1357), Thượng hoàng Minh Tông qua đời. Năm ấy vua Dụ Tông cũng đã trưởng thành, không còn ai kiềm chế, can gián, cũng từ lúc ấy, nhà vua bắt đầu “tự do” chìm đắm trong hoan lạc.
Bản tính vua Dụ Tông là người thích đánh bài, ham mê uống rượu, háo sắc... Vua tha hồ rượu chè, trụy lạc, xây cung điện, đào hổ chơi, đắp núi giả, biến cung đình thành sòng bạc, quán rượu, yến tiệc linh đình suốt ngày đêm...
Thuở nhỏ, lúc lên 4 tuổi, có lần vua đi chơi thuyền ban đêm ở hồ Tây bị ngã xuống nước. Vua được vớt lên và nhờ có lương y Trâu Canh dùng phương pháp chữa trị bằng kim châm nên thoát chết nhưng lớn lên vua mang chứng bệnh liệt dương. Năm Tân Mão (1351), vua được 16 tuổi, Trâu Canh có dâng phương thuốc trị bệnh bằng cách giết một đứa bé trai, lấy mật hòa với dương khởi thạch mà uống và thông dâm với chị hay em ruột của mình thì sẽ hiệu nghiệm. Vua làm theo, thông dâm với chị ruột là Công chúa Thiên Ninh, quả nhiên công hiệu (*) .
Suốt ngày vua tổ chức rượu chè, ca hát, chơi bời... Sử chép: “Mùa hạ, tháng 4, gọi Chánh chưởng phụng ngự cung Vĩnh An là Bùi Khoan cùng uống rượu. Khoan lập mẹo vờ uống hết 100 thăng rượu, được thưởng tước 2 tư. Tháng 5, vua đi hóng gió chơi trăng. Vì uống rượu quá say, lại lội xuống sông tắm, nên bị ốm” (*) . “Rồi năm sau, tháng 6, vua ngự thuyền nhỏ đến chơi nhà Thiếu úy Trần Ngô Lang ở hương Mễ Sở (huyện Châu Giang, tỉnh Hải Hưng), đến canh ba mới về. Khi tới sông Chử Gia (huyện Châu Giang, Hải Hưng), bị cướp mất ấn báu, gươm báu. Vua tự biết mình không sống lâu, càng thả sức chơi bời” (*) .
Tháng giêng năm Nhâm Dần (1362), vua ra lệnh cho các vương hầu, công chúa dâng các trò tạp hý, vua đích thân xét duyệt, thấy trò nào hay thì ban thưởng. Bên cạnh việc ham chơi đàn hát, vua cũng đam mê bài bạc, tổ chức đánh bạc ngay trong cung. “Lại cho gọi các nhà giàu trong nước, như ở làng Đình Bảng thuộc Bắc Giang, làng Nga Đình thuộc Quốc Oai, vào cung đánh bạc làm vui. Có tiếng bạc đặt tới 300 quan tiền, ba tiếng thì đã gần ngàn quan rồi” (*) .
Để phục vụ cho những cuộc vui chơi của mình, vua Dụ Tông sai đào hồ ở vườn ngự, chất đá làm núi, bốn mặt khai ngòi cho nước thông vào. Sau đó còn đào một hồ nhỏ khác bắt dân Hải Đông chở nước mặn về chứa vào hồ để nuôi hải sản (đồi mồi, cua, cá, cá sấu...).
Nhận xét về vua Dụ Tông, Việt sử thông giám cương mục chép: “Nghiện rượu, mê đàn hát, xa xỉ làm cung điện nguy nga và tường vách chạm trổ, lãng phí tiền của, hoang dâm chơi bời, món gì Dụ Tông cũng mắc! Cơ nghiệp nhà Trần sao khỏi suy được?” (*)
b) Ngai vàng nhà Trần lọt vào tay một ông vua họ Dương hoang dâm vô độ: Năm Kỷ Dậu (1379), Dụ Tông qua đời, không có con. Ngày sắp mất, vua xuống chiếu đón người con nuôi của Cung Túc Đại vương Dục (anh ruột của vua Dụ Tông, đã chết) là Dương Nhật Lễ vào truyền cho nối ngôi. Việc này được bà Hiến Từ Hoàng Thái hậu tích cực đồng tình, bảo: “Dục là con đích trưởng mà không được ngôi vua, lại sớm lìa đời. Nhật Lễ chẳng phải là con của Dục ư?” (*) . Như vậy, thực sự đã bỏ tôn thất nhà Trần mà lập vua họ khác! (*)
Nhật Lễ lên ngôi (từ tháng 6 năm Kỷ Dậu - 1369) cũng là một ông vua đam mê tửu sắc, tổ chức yến ẩm linh đình suốt ngày đêm. Sử chép: “Nhật Lễ tiếm vị, rượu chè dâm dật, hàng ngày chỉ rong chơi, thích các trò hát xướng, muốn đổi lại là họ Dương. Người tôn thất và các quan đều thất vọng” (*) . Thấy Hiến Từ Hoàng Thái hậu tỏ ý tiếc việc đưa mình lên ngôi, Dương Nhật Lễ đã giết bà ở trong cung.
Bây giờ Cung Định vương Phủ (con của Thượng hoàng Minh Tông và Minh Từ Hoàng thái phi) thấy tình hình như vậy nên lo sợ. Trần Phủ vốn là người nhu nhược lại không có ý tranh giành ngôi vua nên bỏ trốn lên mạn Đà Giang. Mười hôm sau, triều thần họp nhau lại dẫn quân về kinh, phế Nhật Lễ, tôn Cung Định vương Phủ lên ngôi.
Vụ chính biến Dương Nhật Lễ kéo dài 17 tháng, ngôi nhà Trần một phen suýt mất về tay họ Dương. Qua đó cũng cho thấy triều Trần đã bắt đầu thối nát trầm trọng. Vua Dụ Tông là một vị vua bất xứng, vô đạo làm cho triều chính ngửa nghiêng, lòng người ly tán. Anh vua là Cung Túc Đại vương Dục mê đào hát, cướp vợ dân...
c) Vua Nghệ Tông nhu nhược, yếu hèn : Ngày 15 tháng 11 năm Canh Tuất (1370), Cung Định vương Phủ - lúc ấy đã 40 tuổi, lên ngôi Hoàng đế, tức Trần Nghệ Tông (1370 - 1372). Tuy Nghệ Tông làm vua chỉ có 2 năm nhưng ở trên cương vị Thái thượng hoàng suốt cả 3 đời vua sau, trải qua 22 năm (Nghệ Tông mất vào tháng Chạp năm Giáp Tuất - 1394). Trên nguyên tắc, tất cả quyền bính lúc ấy vẫn thuộc về Nghệ Tông nhưng thực tế suốt cuộc đời nắm quyền nguyên thủ quốc gia, bên cạnh Trần Nghệ Tông còn có sự hiện diện của nhân vật Lê Quý Ly. Quý Ly là người được vua Nghệ Tông hết lòng tin dùng, Nghệ Tông hay nghe theo lời Quý Ly nên chính Quý Ly mới thật là người có vai trò quyết đoán mọi việc chính sự của triều Trần kể từ đây...
Bản chất Nghệ Tông là người nhu nhược, không dám quyết đoán việc gì. Ngay từ lúc Nhật Lễ chiếm ngôi, dù thấy họa sắp lây đến với mình, ông vẫn dùng dằng, lưỡng lự, đến khi có nhiều người khuyên nhủ, thúc giục tới nơi, ông mới chịu lánh thân về mạn Đà Giang... Sau đó, triều thần tôn thất cùng nhau khuyên ông về kinh trừ loạn, lúc đầu ông cũng nghẹn ngào từ chối, mọi người hai, ba lần mời lên kiệu, sau cùng ông mới chịu nghe theo... Thấy thế lực phù trợ của ông mạnh, Nhật Lễ mới nghe theo lời Thiếu úy Trần Ngô Lang (đã dự mưu trước cùng với phía Nghệ Tông) viết thư tạ tội và ra tận ngoài thành phủ phục đón đón vua (*) . Trước sự tình ấy, Nghệ Tông cảm động ôm lấy Nhật Lễ khóc lóc kể rằng: “Không ngờ sự thể ngày nay đến thế này!”. Cung Tuyên vương Trần Kính thấy vậy bực mình, giơ kiếm quát: “Nay vâng mệnh trời đánh kẻ có tội. Tên tội nhân kia sao còn được nói lôi thôi! Bệ hạ há nên vì lòng nhân từ bịn rịn mà bỏ mất nghĩa lớn sao!” Nói xong, Cung Tuyên vương cho lôi Nhật Lễ ra, giam vào một nơi. Sau đó cha con Nhật Lễ bị đánh chết (*) .
Sự yếu đuối của Nghệ Tông còn thể hiện nhiều lần khi bị giặc Chiêm Thành tấn công, ông lo sợ cho mang tài sản, tiền bạc vào núi cất giấu, hễ lần nào giặc kéo quân tới uy hiếp thì bỏ kinh thành mà chạy. Tháng 6 năm Quý Hợi (1383), Chiêm Thành vào chiếm đóng Quảng Oai. Kinh đô xao xuyến, kinh hãi. Nghệ hoàng sai Nguyễn Đa Phương đem quân dựng rào lũy tre bằng gỗ ở kinh thành, ngày đêm canh giữ, còn mình thì sửa soạn xa giá để chạy sang lánh giặc ở Đông Ngàn. Nguyễn Mộng Hoa là một kẻ sĩ thấy vậy liền chạy đến bên sông, mặc cả mũ áo chỉnh tể, nhảy xuống nước lôi kéo thuyền ngự, xin Thượng hoàng ở lại đánh giặc nhưng Thượng hoàng cũng không nghe... Việc này sử thần Ngô Sĩ Liên đã có nhận xét: “Nghệ Tông thiếu can đảm. Giặc chưa tới đã lánh trước, thì người trong nước như thế nào? Mộng Hoa là một người học trò, còn biết giữ Nghệ Tông lại, những “kẻ ăn thịt” thực đáng khinh thay! (*)
d) Vua Duệ Tông chủ quan, tự phụ: Trong số các vua Trần mạt, có lẽ chỉ Trần Duệ Tông là ông vua có tài cầm binh, cứng cỏi nhưng lại quá chủ quan và tự kiêu, tự phụ. Bản tính ấy đã dẫn ông đến thất bại mà thất bại đau xót nhất là sự kết liễu cuộc đời ông tại chiến trường trên đất nước Chiêm Thành.
Trần Nghệ Tông làm vua được 2 năm, đến tháng 11 năm Nhâm Tý (1372) thì nhường ngôi cho người em cùng cha khác mẹ của mình (cũng là anh em bạn dì ruột) là Cung Tuyên vương Trần Kính, tức vua Trần Duệ Tông. Trần Kính là người đã có nhiều công bảo vệ Nghệ Tông trong lúc lánh nạn và hai năm trước đã phò đưa Nghệ Tông lên ngôi vua. Sử cũ nhận xét Trần Duệ Tông như sau: “Vua ương gàn, có chấp, không nghe lời can, khinh thường quân giặc nên mang họa vào thân chứ không phải là do bất hạnh” (*) .
Trong công cuộc chinh phạt Chiêm Thành năm Đinh Tỵ (1377), vua Duệ Tông cầm binh tiến sâu vào đất Chiêm Thành, tới tận kinh thành Đồ Bàn (thành Đồ Bàn ngày nay còn di tích ở huyện Tuy Viễn, tỉnh Bình Định). Đại tướng Đỗ Lễ can vua: “Nó đã chịu hàng, là muốn bảo toàn đất nước làm đầu. Quan quân vào sâu đánh phá thành giặc là việc bất đắc dĩ. Xin hãy sai một biện sĩ cầm mảnh thư đến hỏi tội, để xem tình hình hư thực của giặc, như kế sách của Hàn Tín phá nước Yên ngày trước, không phải khó nhọc mà thành công. Cổ nhân có nói: “Lòng giặc khó lường”. Thần xin Bệ hạ hãy xét kỹ lại” (*) .
Vua trách Đỗ Lễ nhút nhát, chê Đỗ Lễ “chính là hạng đàn bà” rồi sai lấy áo đàn bà mặc cho Lễ và nói rằng: “Ta mình mặc giáp cứng, tay mang gươm sắc, dãi gió dầm mưa, lội sông trèo núi, vào sâu trong đất giặc, không ai dám đương đầu với ta” (*) . Trước đó, Ngự sử đại phu Trương Đỗ cũng có ý can vua, 3 lần dâng sớ xin vua không nên đích thân cẩm quân đánh sâu vào đất Chiêm nhưng vua cũng không nghe nên ông treo mũ bỏ đi. Bà từ phi Nguyễn Thị Bích Châu là hậu phi được vua yêu quý nhất, cũng dâng sớ khuyên vua nên dùng đức hóa, không nên dùng vũ lực với Chiêm Thành nhưng vua không trả lời và quyết định bình Chiêm.
Lọt vào vòng vây của Chế Bồng Nga, Trần Duệ Tông bỏ mạng nơi chiến trường, một mặt nào đó nêu được lòng dũng cảm, vì nước quên thân của nhà vua nhưng sự thất bại ấy rõ ràng đã xảy ra từ sự quá chủ quan, khinh địch mà lẽ ra không đáng có.
đ) Các ông vua trẻ tuổi, bù nhìn: Đế Hiện, Thuận Tông và Thiếu Đế: tháng 5 năm Đinh Tỵ (1377), thấy vua Duệ Tông hy sinh vì nước, Thượng hoàng Nghệ Tông lập con trưởng của Duệ Tông là Hiện lên làm vua, tức Đế Hiện (Trần Phế Đế). Năm ấy vua mới 16 tuổi. Sử cũ nhận xét Đế Hiện rằng: “Vua u mê, nhu nhược, không làm nổi việc gì, uy quyền ngày càng về tay kẻ dưới (chỉ Lê Quý Ly), xã tắc lung lay, đến thân mình cũng không giữ được” (*) .
Tháng Chạp năm Mậu Thìn (tháng 1-1389), nghe theo lời Quý Ly, Nghệ hoàng bắt giam và giáng Đế Hiện xuống làm Linh Đức Đại vương. Các tướng chỉ huy các đội quân định đem binh vào phá nhà tù cứu vua, nhưng lúc ấy vua Đế Hiện lại viết hai chữ “Giải giáp” đưa cho các tướng và bảo họ không được trái ý Thượng hoàng. Lát sau, Đế Hiện bị dìu xuống phủ Thái Dương thắt cổ cho chết.
Lúc Đế Hiện được đưa lên ngôi thì người con út của Thượng hoàng Nghệ Tông là Trần Ngung vừa sinh ra. Đến khi Đế Hiện bị phế thì người con này được lập lên ngôi, tức vua Trần Thuận Tông, lúc đó vua mới 11 tuổi.
Đầu năm 1389, Thuận Tông vừa lên ngôi thì được Quý Ly gả ngay cho người con gái lớn của mình là Thánh Ngâu để làm Hoàng hậu. Từ ấy, nhất là sau khi Thượng hoàng Nghệ Tông qua đời (1394) đến suốt quãng đời làm vua của mình, Thuận Tông thực sự chỉ là một ông vua bù nhìn, dưới quyền người cha vợ đang là Phụ chính Thái sư Lê Quý Ly.
Vai trò của Trần Thuận Tông cũng như con ông sau này - Trần Thiếu Đế, lên ngôi năm 1398, lúc mới 3 tuổi, “nhận truyền ngôi mà không biết lạy”, mọi việc chính sự đều nằm trong tay ông ngoại là Quốc tổ Chương hoàng Lê Quý Ly... Nhưng số phận của vua cha - Thuận Tông có phần bi đát hơn vua con, bởi vua cha sau khi mất ngôi đã bị bức tử bằng cách thắt cổ cho chết, còn con ông - Thiếu Đế thì vì là cháu ngoại của Quý Ly nên không bị giết.
1.2. Triều đình suy thoái, phân hóa nghiêm trọngKinh nghiệm lịch sử cho thấy đức hạnh của nhà vua như thế nào thì đức hạnh của những nhân vật cận thần của vua cũng tương ứng như vậy. Bởi, triều đình là bộ máy trước hết để thực hiện những ý đồ của vua, thỏa mãn những thị hiếu của vua, đúng như lời Thượng hoàng Minh Tông từng nói: “Nếu ta quả là hiền thì những người được ta dùng cũng hiền, như Nghiêu, Thuấn đối với Tắc, Khiết, Quỳ Long vậy. Nếu ta không hiền thì những kẻ mà ta dùng cũng không hiền, như Kiệt, Trụ đối với Phi Liêm, Ác Lai vậy. Đó chính là đồng thanh tương ứng, đồng khí tương cầu, cùng loại thì hợp nhau” (*) .
a) Dưới quyền Dụ Tông, trong triều có một đám cận thần phục vụ những chuỗi ngày trác táng của vua; dưới quyền đám cận thần này tất còn có những tay chân khác nữa. Đại Việt sử ký toàn thư chép: “Dụ Tông ham chơi bời, lười chính sự, quyền thần nhiều kẻ làm trái phép nước” (*) . Trâu Canh bày vẽ cho vua những trò dâm dật, Canh lại dâm dật với cung phi của vua cũng không phải tội. Bùi Khoan nhờ có tài uống rượu hầu vua mà được thưởng tước 2 tư...
Bọn quyền thần đã lợi dụng sự tối tăm, sa đọa của vua để thi nhau rượu chè be bét, làm mưa làm gió trong triều và ức hiếp dân chúng ngoài xã hội. Các quan chức đổ xô chiếm hết nguồn sống của dân, gây nên một tình thế xã hội vô cùng quẫn bách...
Trong hoàn cảnh bi đát đó, quan Tư nghiệp Quốc tử giám Chu Văn An đã dâng lên vua Dụ Tông Thất trảm sớ để nghị chém 7 tên gian thần để chấn chỉnh chính sự. Nhưng vua không nghe nên ông treo mũ từ quan, về sống ẩn dật ở núi Chí Linh...
b) Từ đó, triều đình nhà Trần ngày càng có nhiều biểu hiện suy thoái, trong triều có nhiều biến loạn. Các phe cánh mưu hại, đánh giết lẫn nhau để giành lấy quyền lực, đặc biệt là sau vụ biến loạn Dương Nhật Lễ... Trong lúc đó, có một bà phi đã dâng lên vua Trần Duệ Tông tờ sớ để xin chấn chỉnh triều đình. Bài Kế minh thập sách của bà từ phi Bích Châu cho thấy sự suy vi của triều đình cần được chấn chỉnh ngay, chủ yếu cũng bởi do nhân sự quan lại đương thời quá thối nát, bất tài, thất đức mà ra. Bài Kế minh thập sách có đoạn viết:
“Kính dâng mười chước, mong được một điều.
Một là bền gốc nước, kẻ bạo trừ, thì dân chúng được yên;
Hai là giữ nếp xưa, việc phiền bỏ, thì triều cương không rối;
Ba là nén kẻ lạm quyền để trừ mọt nước;
Bốn là đuổi bọn nhũng lại để bớt chài dân;
Năm là xin mở lối nho phong để ngòi lửa đóm được rạng soi cùng nhật nguyệt;
Sáu là xin tìm lời trực gián, để đường ngôn luận được mở rộng như cửa thành;
Bảy là kén quân nên lấy hạng kiện hùng hơn là to vóc dạc;
Tám là chọn tướng nên tìm người thao lược hơn là bậc thế gia;
Chín là khí giới cốt sao cho tinh nhuệ, hà tất hoa hòe;
Mười là trận pháp tập cần phải chỉnh tề, không cần múa nhảy.” (*)
Bài Kế minh vang lên như một bản cáo trạng hùng hồn nhắm vào tình thế suy bại lúc bấy giờ. Nhưng rồi vua ban khen mà không thấy thực hiện.
c) Dưới quyền của Thượng hoàng Nghệ Tông và các vua trẻ tuổi hữu danh vô thực, triều đình lại càng chia bè, kết cánh một cách nghiêm trọng hơn. Đặc biệt việc phân hóa triều đình vào những năm cuối nhà Trần đã không còn là sự tranh chấp phe cánh có tính cách riêng tư do quyền lợi vật chất, danh vọng hay do tình cảm cá nhân nữa mà đã bộc lộ sự mâu thuẫn gay gắt, đấu tranh quyết liệt giữa các khuynh hướng chính trị khác nhau: giữa tầng lớp vương hầu quý tộc nhà Trần với tầng lớp quan liêu nho sĩ về quyền lực, giành lấy chỗ đứng cao hơn trong bộ máy chính quyền; giữa khuynh hướng bảo thủ hết lòng bảo vệ sự tồn tại của vương triều Trần với khuynh hướng cấp tiến muốn cải cách có thể tiến tới lật đổ ngai vàng của nhà vua... Cuộc đấu tranh quyết liệt ấy được thể hiện công khai qua các vụ triệt hạ, thanh toán thẳng tay với nhau bằng bạo lực, có khi âm ỉ ngấm ngầm trong dư luận xã hội như nội dung thư của Bùi Mộng Hoa dâng lên Thượng hoàng Nghệ Tông đại ý nói: “Thần nghe trẻ con có câu hát rằng: “Thâm hiểm thay Thái sư họ Lê”, xem thế, Quý Ly nhất định có ý dòm ngó ngôi báu” (*) .
2. Nhân dân thống khổ vì bị thiên tai, địch họa, thuế má nặng; giặc giã nổi lên khắp nơi; xã hội phân hóa trầm trọngTrong lúc từ vua đến triều đình ngày càng tỏ ra suy thoái, bệ rạc thì đời sống dân chúng ngày càng thêm khó khăn, thắc ngặt, đói khổ...
2.1. Thiên taiTrong thế kỷ XIV, nhất là từ năm đời vua Dụ Tông trở về sau, lũ lụt, vỡ đê, hạn hán liên tiếp xảy ra.
Dưới đời các vua Trần mạt, có hơn 11 lần bão lụt, mưa to gió lớn, nước dâng cao làm vỡ đê. Cụ thể như các trận lũ lụt vào các năm Mậu Tý (1348), Tân Mão (1351), Nhâm Thìn (1352), Ất Mùi (1355), Kỷ Hợi (1359), Canh Tý (1360), Kỷ Dậu (1369), Mậu Ngọ (1378), Nhâm Tuất (1382), Canh Ngọ (1390), Quý Dậu (1393)... Mỗi trận nước lớn tràn ngập làm vỡ đê, lúa thóc bị chìm ngập, nước cuốn trôi cả nhà cửa của dân.
Cùng với những trận lũ lụt cũng xảy ra liên tiếp những vụ hạn hán, sâu rầy phá hoại mùa màng, tôm cá bị chết nhiều... Những trận hạn lớn xảy ra vào các năm Quý Mùi (1343), Giáp Thân (1344), Ất Dậu (1345), Mậu Tý (1348), Ất Mùi (1355), Mậu Tuất (1358), Nhâm Dần (1362), Giáp Dẩn (1374), Kỷ Mùi (1379), Quý Dậu (1393)... Có những năm vừa mưa to, nước lớn vừa có hạn hán xảy ra (vào các năm 1348,1355). Nặng nề nhất là vào năm Quý Dậu (1393): tháng 6 hạn hán; tháng 7 gió dữ, mưa lớn; tháng 8 động đất, nước to; tháng 9 sâu rầy phá hoại mùa màng... Những trận sâu rầy phá hoại lúa nặng nề xảy ra vào các năm Giáp Ngọ (1354), Mậu Tuất (1358), Quý Dậu (1393)... Những trận động đẩt, lở núi xảy ra vào các năm Ất Mùi (1355), Nhâm Dần (1362), Quý Dậu (1393)...
2.2. Địch họaChiêm Thành tiến hành liên tiếp những cuộc hành quân xâm lược nước ta một phần nhằm thực hiện ý đồ chính trị, giành giật đất đai; một phần nhằm cướp bóc tài sản, lùa trâu, bắt người đem đi, đốt phá nhà cửa, phá hủy hoa màu của dân Việt... Những thảm cảnh ấy nhân dân dưới các triều vua cuối đời Trần đã phải gánh chịu.
Để có đủ binh lính, phu tải khí giới, lương thực cung cấp phục vụ các cuộc chiến tranh với Ai Lao và Chiêm Thành, nhà Trần đã tận lực huy động nhân lực, tài nguyên, sản vật trong dân, có khi lúc dân đói nhà vua vẫn có lệnh thu gom, tích trữ thóc gạo để chuẩn bị chiến tranh với Chiêm...
2.3. Thuế má nặngDưới các triều đại quân chủ ban đầu ở nước ta, vì công nghiệp và thương mại chưa phát triển nên nguồn thu thuế để tăng cường công quỹ chủ yếu chú trọng vào hai sắc thuế đinh và thuế điền, vì lúc ấy chỉ có người và ruộng là hai nguồn tài nguyên cơ bản của đất nước.
Kinh qua các triều Lý, Trần, đến đời Trần Phế Đế, việc thu thuế Nhà nước vẫn căn cứ theo số ruộng sở hữu của mỗi người, đánh lũy tiến tăng dần theo diện tích ruộng chứ không chỉ cán cứ vào mỗi đầu người để tính thuế đồng loạt như nhau. Đến năm 1378, vì kho tàng trống rỗng, Đỗ Tử Bình đã đề nghị vua áp dụng cách đánh thuế dung của nhà Đường, mỗi đinh nam mỗi năm phải nộp 3 quan tiền, không phân biệt có ruộng đất hay không.
Sử cũ của nước ta ( Đại Việt sử ký toàn thư, Việt sử thông giám cương mục, Lịch triều hiến chương loại chí, Việt sử tiêu án... ) đều nhận xét, theo đề nghị của Đỗ Tử Bình, vua Trần đã tăng thuế nặng hơn. Mỗi đinh nam đều phải nộp thuế, trừ binh lính mới được miễn. Việc táng thuế, nhất là gặp lúc dân chúng bị mất mùa, đói khổ, đã gây nên nhiều mối ác cảm đối với triều đình...
2.4. Giặc giã, cướp bócSử thần Phan Phu Tiên đã mô tả tình hình giặc giã lúc này qua Đại Việt sử ký toàn thư: “Nhà Trần từ sau khi Dụ Tông hoang dâm, phóng túng lại thêm Chiêm Thành xâm lược, quấy rối thì giặc cướp rất nhiều. Chúng cướp của, bắt người giữa ban ngày, pháp luật không thể ngăn cấm được (...)” (*)
– Năm Đinh Mùi (1343) gặp hạn hán, mất mùa, nhân dân đói khổ nổi dậy khắp nơi, nhất là gia nô của các vương hầu, quý tộc.
– Tháng 2 năm Giáp Thân (1344), Ngô Bệ đứng đầu một tổ chức cướp nổi lên ở núi Yên Phụ (Hải Hưng), năm sau thì quân triều đình dẹp tan. Rồi 14 năm sau (1358), lực lượng của Ngô Bệ lại phục hồi, nổi lên ở núi Yên Phụ, dựng cờ yết bảng nêu khẩu hiệu cứu giúp dân nghèo. Tổ chức của Ngô Bệ chiếm giữ được một vùng rộng lớn từ Thiên Liêu đến Chí Linh. Đến tháng 3 năm Canh Tý (1360), quân địa phương vây bắt được Ngô Bệ. Bệ chạy trốn định về kinh sư đầu thú nhưng các quan ở lộ đã bắt được Bệ cùng 30 thuộc hạ, đóng cũi giải về kinh và đều bị chém cả...
– Tháng 5 năm Bính Tuất (1346), Ai Lao vào cướp ở biên giới.
– Năm Giáp Ngọ (1354), gặp nạn đói lớn, có người tên Tề tự xưng là cháu ngoại của Hưng Đạo Đại vương Trần Quốc Tuấn, tụ tập gia nô của các vương hầu, quý tộc bỏ trốn làm giặc, nổi dậy cướp phá một vùng rộng lớn từ Lạng Giang (Hà Bắc, Lạng Sơn) đến Nam Sách (Hải Hưng, Hải Phòng).
Càng ngày số gia nô bỏ trốn theo lực lượng cướp bóc càng nhiều nên tháng 12 năm Canh Tý (1360), vua Trần Phế Đế phải xuống chiếu ra lệnh bắt các gia nô của các nhà vương hầu, công chúa đều phải thích chữ vào trán và phải gọi theo loại hàm. Gia nô nào không thích chữ, không khai vào sổ hộ tịch đều bị coi là giặc cướp, lớn thì bị bắt trị tội, nhỏ thì sung công.
– Năm Quý Sửu (1373), giặc cướp lại đua nhau nổi dậy.
– Tháng 2 năm Kỷ Mùi (1379), sau vụ hạn hán và đói lớn xảy ra năm 1378, triều đình lại tăng thuế, bắt đinh nam dù có ruộng hoặc không có ruộng đều phải nộp thuế. Nguyễn Bồ đã phất cờ nổi dậy ở Bắc Giang, tự xưng là Đường Lang Tử Y, dùng pháp thuật để tập hợp nhân dân nhưng cuộc bạo loạn đã bị dập tắt nhanh chóng.
– Tháng 4 năm Tân Dậu (1381), nhân khi Chiêm Thành vào cướp phá, một người ở Diễn Châu tên là Hồ Thuật đã chiêu tập nhân dân nổi dậy. Không bao lâu Hồ Thuật bị bắt và bị xử chém.
– Năm Kỷ Tỵ (1389), phong trào nổi dậy chống triều đình lại bùng nổ. Tháng 8, ở Thanh Hóa, Nguyễn Thanh tự xưng là Linh Đức Vương (*) đi lánh nạn ở vùng Lương Giang (sông Chu, Thanh Hóa). Dân chúng trong vùng đều hưởng ứng... Sang tháng 9, ở Nông Cống, Nguyễn Kỵ cũng tụ tập dân chúng nổi dậy, tự xưng là Lỗ Vương Điền Kỵ...
Cuối năm này (tháng Chạp năm Kỷ Tỵ - 1389), có cuộc khởi nghĩa do Phạm Sư Ôn - một nhà sư ở lộ Quốc Oai Thượng - được nhân dân hưởng ứng đông đảo, tạo nên một lực lượng đáng kể, lập các quân hiệu Thần Kỳ, Dũng Đấu, Vô Hạn, đánh thẳng vào kinh thành Thăng Long. Vua Thuận Tông và Thượng hoàng Nghệ Tông phải bỏ kinh thành chạy sang Bắc Giang. Lực lượng của Phạm Sư Ôn chiếm giữ kinh thành 3 ngày rồi rút về đóng ở Nộn Châu (thuộc lộ Quốc Oai). Sau Sư Ôn và các tướng tá đều bị bắt giết, những kẻ bị cưỡng bức đi theo thì được tha.
– Tháng 8 năm Kỷ Mão (1399), Nguyễn Nhữ Cái trốn vào núi Thiết Sơn tổ chức làm giả tiền giấy để tiêu dùng, sau đó chiêu tập được hơn một vạn người nổi dậy ở vùng Lập Thạch, sông Đáy, Lịch Sơn (Hà Tuyên), sông Đà, Tản Viên...
Những cuộc nổi dậy liên tục, có khi rất quyết liệt song cuối cùng đều không mang lại kết quả. Dù sao qua đó cũng nói lên sự thống khổ và bất mãn của quần chúng đã đến mức tột độ.
2.5. Xã hội phân hóa trầm trọngTrong xã hội Đại Việt, nô tỳ xuất hiện từ đời Lý song nhà Lý đã dùng nhiều biện pháp để hạn chế sự phát triển của tầng lớp nô tỳ cũng như hạn chế sự bóc lộ nô tỳ (Chiếu tháng 2 và tháng 8 năm Quý Mùi - 1043, đời Lý Thái Tông, cấm chứa dấu, mua bán hoàng nam làm gia nô; năm 1103, Thái hậu dùng tiền chuộc tự do cho những người con gái nhà nghèo làm tỳ và gả chồng cho họ...). Sang nửa thế kỷ XIII, tầng lớp nô tỳ lại có điều kiện phát triển số lượng cùng với sự phát triển thế lực của tầng lớp vương hầu, quý tộc nhà Trần... Từ năm 1266, để củng cổ vương quyền nhà Trần, vua xuống chiếu cho phép họ hàng và những người thân tín được tổ chức khai khẩn các vùng đất mới, mở rộng phạm vi điền trang với diện tích vô giới hạn và được phép nuôi dùng số nô tỳ vô giới hạn. Điền trang càng nhiều, càng rộng thì đội ngũ nô tỳ dùng vào việc khai khẩn điền trang càng đông. Cho nên, về mặt khách quan, sự phát triển của chế độ điền trang, thái ấp mà bên trong nó việc mở rộng đặc quyền kinh tế và thế lực chính trị của tầng lớp quý tộc “ăn trên ngồi trước” đã kéo theo sự phát triển tầng lớp nô tỳ là lớp người thấp hèn nhất trong xã hội.
“Nô tỳ” là từ dùng để gọi chung những người có thân phận thấp kém, cuộc sống của họ bị lệ thuộc vào chủ. Đó là lớp đầy tớ mà sử cũ đã ghi bằng nhiều tên gọi khác nhau tùy theo chủ của họ là ai và nội dung công việc làm tớ của họ như thế nào: “nô”, “gia nô” để chỉ những đầy tớ nam (có khi gồm cả nữ); “tỳ”, “gia tỳ” để chỉ những đầy tớ nữ; “hoành”, “điền hoành” để chỉ những người phạm tội phải chịu đổ hình, bị đày đi cày ruộng; “quan nô” là loại nô tỳ công, nô tỳ của Nhà nước... Trong các loại nô tỳ ấy, có loại được chủ dùng vào việc sản xuất (như khai khẩn đất hoang, cày cấy, trồng trọt, đánh cá, chăn nuôi súc vật, nuôi tằm, dệt vải...), có loại được dùng vào việc chuyên môn phục dịch cho chủ (như hầu hạ, múa hát phục vụ giải trí cho chủ, khiêng cáng, khiêng kiệu, nấu ăn, dọn dẹp nhà cửa, làm việc lặt vặt...).
Trong nền kinh tế - xã hội mà đời sống ngày càng bị thắt buộc, nạn đói cứ liên tục xảy ra, dân nghèo ngày càng nghèo thêm thì cuối cùng sự nghèo đói dễ đưa họ đến chỗ phải bán ruộng đất, bán nhà cửa, bán thân mình hoặc bán, đợ vợ con để làm nô tỳ. Giá nô tỳ thời ấy rẻ mạt. Có lúc một người chỉ đổi lấy một quan tiền mà một quan tiền chỉ mua được 3 thăng gạo! (*) Trong thực tế, có nhiều nguồn “lương dân”, “bách tính” bị biến thành nô tỳ: dân phạm tội thì có thể bị sung làm quan nô, các tù binh bị bắt trong chiến tranh cũng là một nguồn nô tỳ. Và đông đảo nhất, phổ biến nhất có lẽ là những người nghèo trong xã hội tự bán mình, bán, đợ vợ con mình để kiếm miếng ăn, để trả nợ trong những năm mất mùa đói kém... Những người này thường trở thành nô tỳ suốt đời nếu họ không có khả năng trả nợ gồm cả vốn lẫn lãi chất chồng. Nói chung, đẳng cấp nô tỳ dưới thời Trần không có chút hy vọng nào để được cải đổi thân phận. Con của nô tỳ lấy nhau đẻ ra cũng là nô tỳ!
Nô tỳ là lớp người thấp kém và bị bạc đãi nhất trong xã hội. Họ sống cuộc đời thường xuyên khổ cực, thường bị chủ đối xử tàn tệ, coi họ như một thứ “công cụ biết nói” để bóc lột. Thực tế nô tỳ bị tách khỏi quần chúng nhân dân vì ngoài xã hội họ bị phân biệt đối xử: gia nô đều phải thích chữ vào trán để phân biệt (Chiếu tháng Chạp năm Canh Tý - 1360, đời Trần Dụ Tông); nô tỳ và con cháu của họ không được đi thi, nghĩa là không có hy vọng nào được bước lên tầng lớp trên, vì như lời Thượng hoàng Minh Tông đã khẳng định: “Gia nô tuy có chút công lao nhưng không được dự vào quan tước triều đình”. (*)
Bằng con đường nô tỳ hóa bần nhân, xã hội Trần đã dần dần định hình rõ hai tầng lớp: tầng lớp quý tộc, hào hữu, địa chủ ngày càng phát triển thế lực kinh tế và chính trị; trong khi đó nông dân, nô tỳ trở thành tầng lớp bị bóc lột thậm tệ vì họ không có ruộng đất để canh tác, không có phương tiện để sinh sống, không có nhà cửa để nương thân...
Yêu cầu bức thiết của xã hội đòi hỏi phải có sự đổi mới, thay thế bộ máy cầm quyền đương thời đã ruỗng nát để xây dựng một chế độ chính trị - xã hội mới. Lê Quý Ly đã là người sinh ra và lớn lên vào thời buổi ấy, ông đã đứng ra đảm nhận vai trò lãnh đạo và tổ chức thực hiện công cuộc canh tân toàn diện xã hội lúc bấy giờ...
B. ĐỐI NGOẠI
Từ nửa sau thế kỷ XIV, sau nhiều cuộc chiến tranh với Ai Lao, tình hình biên giới phía tây nước ta tương đối đã ổn định. Song lúc ấy, nhà nước Đại Việt phải cùng một lúc đương đầu với áp lực quân sự từ hai đầu Nam, Bắc của đất nước. Về phương Nam, phải luôn luôn đối phó với cuộc chiến tranh chống Chiêm Thành, thường khi diễn ra ngay trên đất nước Đại Việt, giặc tiến công vào tận kinh thành Thăng Long. Những cuộc chiến tranh liên miên ở phương Nam đã thu hút nhiều binh lực và của cải nhà Trần. Về phương Bắc, nguy cơ xâm lược của nhà Minh cũng thường xuyên là mối đe dọa nặng nề...
1. Việc giao thiệp với Chiêm Thành 1.1. Đời Trần Dụ Tông (1341 -1369):Lúc này là thời kỳ nước ta đã bắt đầu suy yếu. Ở Chiêm Thành, năm 1342, vua Chiêm là Chế A Nan (1318 - 1342) qua đời. Con là Chế Mỗ và rể là Trà Hoa Bố Đề tranh nhau ngôi vua. Phần đông dân Chiêm theo vua Trà Hoa Bố Đề (1342 - 1360). Tháng 5 năm Nhâm Thìn (1352), Chế Mỗ chạy sang nước ta nạp cống vật và xin ta giúp đỡ, đánh Bố Đề để lập Chế Mỗ lên làm vua.
Tháng 6 năm sau (Quý Tỵ - 1353), vua Dụ Tông cho quân đưa Chế Mỗ về nước. Quân ta tới Cổ Lũy (Quảng Ngãi) thì bị quân của Bố Đề đánh bại, phải chạy trở về. Chế Mỗ phải lưu vong ở nước ta, chán nản, không bao lâu có lẽ vì buồn mà bệnh chết.
Tháng 9 năm này, Bố Đề lại đưa quân sang định chiếm lại Hóa Châu nhưng bị thất bại. Vua Trần cử Trương Hán Siêu vào trấn giữ, Bố Đề lui quân.
Từ đó, Chiêm Thành tỏ vẻ khinh thường thực lực của Đại Việt nên thường đem quân quấy phá biên giới nước ta. Cũng từ đó quân Trần đã dần dần lâm vào thế bị uy hiếp, phải lo cố thủ, phòng ngự rất chật vật... Phía Chiêm Thành, sau khi Bố Đề chết, Chế Bồng Nga lên kế vị (1360).
Tháng 3 năm Tân Sửu (1361), quân Chiêm Thành vượt biển cướp phá ở cửa bể Dĩ Lý (xã Lý Hòa, huyện Bố Trạch, nay thuộc Quảng Bình) bị đánh tan.
Tháng 3 năm Bính Ngọ (1366), Chiêm Thành lại tấn công Lâm Bình, bị quân địa phương đánh bại.
Cuối năm sau, tháng Chạp năm Đinh Mùi (1367), đoàn quân của Trần triều do Trần Thế Hưng và Đỗ Tử Bình thống lĩnh tiến công Chiêm Thành. Sang tháng 4 năm Mậu Thân (1368) thì đến đất Chiêm Động (thuộc tỉnh Quảng Nam - Đà Nẵng ngày nay). Lọt vào ổ phục kích của quân Chiêm, Trần Thế Hưng bị bắt, Đỗ Tử Bình vội lui quân về.
Như vậy, trong vòng 14 năm quân Trần đã hai lần đại bại trước quân Chiêm, mất hết tư thế đối với bên ngoài. Lúc này nước Chiêm đã trở nên hùng mạnh dưới sự lãnh đạo của Chế Bồng Nga (1360 - 1390) là một ông vua có tài quân sự lẫn chính trị. Trong 30 năm trị vì của triều Chế Bồng Nga, nhà Trần nước ta ngày càng suy nhược. Chiêm Thành có cơ hội kéo quân sang cướp phá nước ta như vào chỗ không người.
Tháng 2 năm Mậu Thân (1368), Chiêm vương cho người sang đòi ta trả lại đất cũ của họ đã giao nộp cho các triều Lý Thánh Tông (1069) và Trần Anh Tông (1306). Dĩ nhiên Trần triều không thuận, Chiêm Thành ráo riết thao luyện binh đội chuẩn bị tấn công. Lúc này là thời kỳ quân Chiêm kéo nhau đến làm mưa làm gió trên lãnh thổ Đại Việt...
1.2. Đời Trần Nghệ Tông (1370 -1372), Trân Duệ Tông (1372 - 1377) và Trần Phế Đế (1377 - 1389):Trần Nghệ Tông ở ngôi vua đến năm Nhâm Tý (1372) rồi nhường ngôi, lên làm Thái thượng hoàng đến năm Giáp Tuất (1394). Suốt 24 năm này coi như quyền lực vương triều Trần vẫn nằm trong tay Thượng hoàng Nghệ Tông.
Tháng 3 năm Tân Hợi (1371), lẩn đầu tiên quân Chiêm Thành đi đường biển vào tiến công cửa Đại An (huyện Nghĩa Hưng, Hà Nam Ninh) rồi tiến thẳng vào kinh đô Thăng Long. Quân Chiêm chiếm Thăng Long (lần thứ nhất), tiêu hủy nhà cửa, cung điện, bắt phụ nữ, cướp vàng ngọc, châu báu đem về. Vua Nghệ Tông và triều đình bỏ kinh thành chạy sang làng Cổ Pháp (Bắc Ninh) lánh nạn.
Tháng 11 năm Nhâm Tý (1372), vua Nghệ Tông truyền ngôi cho em là Trần Kính, tức Trần Duệ Tông. Những năm sau vua Duệ Tông quyết chuẩn bị phục thù.
Tháng Chạp năm Bính Thìn (1376), vua Duệ Tông thân chinh đem 12 vạn quân xuất phát từ Thăng Long tiến theo hai đường thủy bộ chinh phạt Chiêm Thành. Được tin ấy, Chế Bổng Nga sai sứ đem 10 mâm vàng sang cống nhưng Đỗ Tử Bình lúc đó đang trấn giữ Hóa Châu đã ỉm đi, lấy làm của riêng, lại còn nói dối là Bổng Nga ngạo mạn, vô lễ, nên đem quân đánh. Tháng Giêng năm Đinh Tỵ (1377), đại quân của Duệ Tông đánh cửa Thị Nại (Quy Nhơn, Bình Định). Chiêm vương Chế Bổng Nga dựng trại ở ngoài kinh thành Đồ Bàn, sai người trá hàng nói dối là Chế Bổng Nga đã trốn chạy, chỉ còn lại thành không, rồi mời Việt quân tiến gấp vào tiếp quản, chớ để lỡ cơ hội... Vì quá chủ quan, Duệ Tông trúng kế địch, bị lọt vào vòng vây. Giặc thừa thế xông ra đánh chặn. Vua Duệ Tông và một số tướng bị hãm trong trận mà chết. Ngự Câu vương Trần Húc (con của Nghệ Tông, rể của Duệ Tông) phải đầu hàng. Trận này, Lê Quý Ly phụ trách đốc quân chuyên chở lương thực, nghe tin vua tử nạn bèn bỏ trốn về nước... Khi về đến kinh thành, Đỗ Tử Bình bị dân chúng ném đá chửi mắng và bị Thượng hoàng bãi chức, phạt tội đồ làm lính, còn Quý Ly thì không bị trừng phạt gì.
Sau khi vua Duệ Tông tử trận, Thượng hoàng Nghệ Tông lập con của Duệ Tông là Hiện (có sách viết là Nghiễn) lên ngôi, tức Đế Hiện hay Trần Phế Đế (1377).
Tháng 6 năm Đinh Tỵ (1377) quân Chiêm lại thừa thắng tiến công vào cửa Thần Phù (tức cửa Thần Đầu, nay thuộc huyện Tam Điệp, Ninh Bình), rồi đánh thẳng vào kinh thành Thăng Long cướp phá (lần thứ hai).
Tháng 5 năm Mậu Ngọ (1378), quân Chiêm lại tấn công ra cướp phá Nghệ An. Tháng sau thì đánh vào kinh thành Thăng Long (lần thứ ba), bắt người, cướp của...
Sau 3 lần kinh đô bị chiếm đóng, cướp phá, dân chúng phải sống trong cảnh sợ hãi, bất an thường trực, lúc nào cũng nơm nớp lo sợ giặc Chiêm kéo đến. Đến nỗi vua cũng sợ, phải di chuyển của cải, tiền bạc đem giấu vào núi Thiên Kiện và khám Khả Lăng, Lạng Sơn. Nhận xét tình cảnh lao đao này, sử thần Ngô Sĩ Liên viết: “(...) sợ tai nạn Chiêm Thành đốt cướp, đem chở tiền của giấu tận hang cùng núi thẳm, làm kế tránh giặc, thực là nhử giặc đến, chuốc lấy tiếng chê cười của đời sau (...)” (*) .
Tháng 2 năm Canh Thân (1380), quân Chiêm ra cướp phá Nghệ An, Diễn Châu và tháng 3 lại cướp phá ở Thanh Hóa. Thượng hoàng Nghệ Tông sai Lê Quý Ly chỉ huy quân thủy, Đỗ Tử Bình chỉ huy quân bộ đi chống giữ. Đến Ngu Giang (một nhánh sông Mã, nay là sông Lạch Trường thuộc tỉnh Thanh Hóa), Quý Ly ra lệnh đóng cọc giữa sông cầm cự với quân Chiêm. Lần này Chế Bồng Nga thua trận, phải rút chạy. Quý Ly lãnh chức Nguyên Nhung hành Hải Tây đô thống chế.
Sang năm 1381, nhà Trần ra lệnh đốc suất tăng sư trong nước, người còn khỏe mạnh phải sung vào quân đội đi đánh Chiêm Thành. Lòng Thượng hoàng Nghệ Tông vẫn lo sợ kinh thành bị đánh chiếm bất cứ lúc nào nên tháng 6 năm Tân Dậu (1381), Thượng hoàng ra lệnh rước các thần tượng các lăng ở Quắc Hương, Thái Đường, Long Hưng, Kiến Xương đưa về lăng lớn ở Yên Sinh (Hải Dương) để lánh nạn người Chiêm vào cướp.
Tháng 2 năm Nhâm Tuất (1382), Chiêm Thành lại vào cướp phá Thanh Hóa. Lê Quý Ly được lệnh đem quân chống giữ. Nguyễn Đa Phương đóng quân giữ hàng cọc đóng ở cửa Thần đầu (Tam Điệp, Ninh Bình) không đợi lệnh của Quý Ly, tự ý cho mở hàng cọc xông ra đánh. Quân Chiêm thua to, tháo chạy tán loạn vào rừng núi.
Tháng Giêng năm Quý Hợi (1383), Quý Ly thống lĩnh thủy quân đi đánh Chiêm Thành. Thuyền tới Hà Tĩnh thì gặp phải bão, sóng to gió lớn đánh vỡ và làm chìm một số chiến thuyền, quân Việt lại phải rút lui.
Tháng 6 năm Quý Hợi (1383), Chế Bồng Nga dẫn quân bộ đi tắt đường núi đến đóng ở Quảng Oai (huyện Ba Vì, Hà Nội), đánh bại quân của Lê Mật Ôn, uy hiếp thành Thăng Long. Thượng hoàng Nghệ Tông cùng vua Đế Hiện phải chạy sang Đông Ngàn (Bắc Ninh) để lánh giặc. Tình hình thật là thảm hại. Thành Thăng Long lại bị chiếm giữ, tàn phá (lần thứ tư). Mãi tới tháng Chạp, Chiêm Thành mới rút quân về.
Như vậy, 4 lần Chiêm Thành tấn công thành Thăng Long thì 4 lần Thượng hoàng và vua Trần đều bỏ chạy, để mặc cho giặc cướp phá, tàn sát nhân dân. Rồi khi giặc rút lui, vua quan nhà Trần lại lục tục kéo về, cũng không màng tổ chức phòng bị gì nữa...
Tháng 10 năm Kỷ Tỵ (1389), Chiêm Thành lại đến cướp ở Thanh Hóa. Quý Ly chỉ huy quân chống giữ. Sau trận sáp chiến, quân Quý Ly bị thua, tướng chỉ huy bị bắt sống, 70 tướng còn lại đều tử trận. Quý Ly để tùy tướng là Phạm Khả Vĩnh ở lại cầm cự, còn mình thì trốn về. Sau Phạm Khả Vĩnh và Nguyễn Đa Phương cũng dùng kế nghi binh, dùng thuyền nhỏ trốn về...
Tháng 11 năm ấy, Thượng hoàng Nghệ Tông sai Thượng tướng Trần Khát Chân chỉ huy quân Long Tiệp ra quân đánh giặc Chiêm. Khát Chân vâng mệnh, rơi nước mắt lạy tạ ra đi.
Tháng 3 năm Canh Ngọ (1390), Chế Bồng Nga điều hơn 100 chiến thuyền đến nơi đóng quân của ta ở Hải Triều (Thái Bình). Một tên tiểu thần của Bồng Nga tên Ba Lậu Kê vì đã bị Bồng Nga quở phạt nên chạy sang doanh trại quân ta, chỉ đúng vào chiến thuyền của Chiêm vương. Quân Khát Chân tập trung các súng cộng đồng hỏa mai nhắm vào thuyền Bồng Nga mà bắn. Thuyền chìm, Chế Bồng Nga tử trận, bị cắt đầu mang về Thăng Long dâng lên vua Trần. Quân Chiêm hoang mang, vội rút về nước. Hai người con của Chế Bồng Nga là Chế Ma Nô Đà Nan và Chế Sơn Nã chạy sang nước ta xin tị nạn, đều được đối xử tử tế, phong cho chức quan cao cấp (Chế Ma Nô Đà Nan được phong làm Hiệu chính hầu, Chế Sơn Nã được phong chức Á hầu).
Tháng 2 năm Tân Mùi (1391), Quý Ly đem quân đi tuần Hóa Châu, xây sửa thành trì. Tháng 3, Quý Ly sai Hoàng Phụng Thể đem quân đi tuần vào đất Chiêm. Bị mai phục, quân Phụng Thể tan vỡ. Phụng Thể bị Chiêm Thành bắt, phải dùng mưu kế để trốn. Tháng 4, Quý Ly rút quân về.
Đến tháng 8 năm Bính Tý (1396), quân Trần lại tiến công Chiêm Thành, bắt được tướng Chiêm là Bố Đông đem về nước.
Từ khi Chiêm vương Chế Bồng Nga mất, Chiêm Thành yếu thế, bước dần vào thời kỳ suy vong...
2. Việc giao thiệp với Trung QuốcNăm Mậu Thân (1368), bên Trung Quốc, Minh Thái Tổ diệt xong nhà Nguyên, lên ngôi ở Kim Lăng (1368 - 1399). Khi nhà Minh đã nắm được toàn cõi Trung Quốc thì cũng là lúc họ bắt đầu dòm ngó nước ta. Họ thường cho sứ bộ qua lại, nay yêu cầu thứ này, mai đòi thứ khác, không ngoài mục đích cố tình làm eo làm sách để chuẩn bị xâm lăng. Đó là thói quen lâu đời của các triều đại phương Bắc đối với nước ta.
Tháng Giêng năm Canh Tuất (1370), vua Minh tự làm một bài chúc văn, sai Diêm Nguyên Phục là đạo sĩ cung Triều Thiên, đem lễ vật trâu và lụa sang tế thần núi Tản Viên và các thủy thần sông Lô. Tháng 4, Diêm Nguyên Phục vào kinh đô nước ta làm lễ tế xong, khắc bài văn vào đá ghi việc đó rồi từ biệt về nước.
Từ khi mới lên ngôi, nhà Minh đã phái sứ bộ đi các phiên quốc khuyến dụ sang triều cống. Vua nước Chiêm là Chế Bồng Nga đã đem lễ vật gồm voi, hổ và các thứ phương vật sang triều cống nên được nhà Minh công nhận cho làm vua nước Chiêm. Năm 1370, khi nước ta cử binh đi đánh Chiêm thì vua Minh đã khuyến dụ hai nước Việt - Chiêm nên sống hòa hợp, chớ để có chiến tranh với nhau.
Năm 1372, sau khi đánh bại Đại Việt, tiến quân vào tận kinh thành Thăng Long, Chế Bồng Nga sai sứ sang báo tin thắng trận với nhà Minh và xin Minh triều cung cấp thêm khí giới. Lúc này nhà Minh cũng tỏ vẻ dè dặt, sai bộ Lễ trả lời khuyên hai nước Việt - Chiêm không được gây chiến với nhau.
Thực ra, thời nào cũng vậy, sở dĩ các nước phương Nam có thái độ xâm lăng gây hấn đối với nước ta đều thường có sự nhúng tay bảo bọc của phương Bắc.
Tháng 9 năm Giáp Tý (1384), nhà Minh sai người mang tờ tư của bộ Hộ sang đòi ta phải nộp lương thực để cung cấp cho quân lính của chúng trấn giữ ở Lâm An (Vân Nam). Vua Trần sai vận tải 5.000 thạch lương đưa đến đầu địa phận huyện Thủy Vĩ (thuộc tỉnh Lào Cai) giao nộp. Trong chuyến tải lương này, quan quân ta vì nhiễm lam sơn chướng khí, bị bệnh chết khá nhiều.
Tháng 3 năm Ất Sửu (1385), nhà Minh lại sai sứ sang đòi ta nộp 20 nhà sư. Vua ta phải sai tuyển đủ số giao nộp, đưa sang Kim Lăng.
Tháng 2 năm Bính Dần (1386), nhà Minh lại sai Lâm Bột sang đòi ta phải nộp các loại cây ăn quả giống ngon (cau, vải, nhãn, mít). Vua Trần sai đem sang nộp nhưng vì những cây giống ấy không chịu được trời lạnh nên đều chết khô trên đường di chuyển... Lập lại âm mưu của nhà Nguyên một trăm năm trước, nhà Minh lại hỏi mượn đường nước ta đi đánh Chiêm Thành và đòi nhà Trần phải cung cấp cho chúng 50 thớt voi, đặt các cung trạm dọc đường từ phủ Nghệ An trở ra, ở mỗi trạm đểu phải có sẵn lương thảo cho voi trên đường sang Vân Nam. Việc mượn đường sang đánh Chiêm Thành chỉ là một thủ đoạn giả dối với hậu ý xâm lăng nước ta, bởi đối với nhà Minh từ lâu Chiêm Thành vẫn thủ lễ triều cống. Chính năm ấy (1386), con Chế Bồng Nga cũng sang chúc thọ vua Minh Thái Tổ, cống nạp lễ vật và được nhà Minh tiếp đãi trọng thể.
Giữa năm Ất Hợi (1395), nhà Minh đem quân đánh người Mán ở Long Châu, bèn sai Nhâm Hanh Thái sang nước ta đòi ta đem sang giúp cho chúng 5 vạn quân, 50 thớt voi và 50 vạn thạch lương. Vua ta không giúp cho lính và voi mà chỉ sai quan đưa một ít gạo đến Đồng Đăng giao nộp.
Nhà Minh lại sai sứ sang đòi nhà sư, phụ nữ xoa bóp và thanh niên bị thiến. Vua ta cho đưa sang nộp mỗi loại một ít.
Càng ngày áp lực phương Bắc càng đè nặng, chỉ chờ có dịp là tấn công xâm lược nước ta. Trong hoàn cảnh đó, sử cũ chép: một hôm, Thượng hoàng Nghệ Tông đến thăm Tư đồ Trần Nguyên Đán, khi bàn việc nước, Trần Tư đồ có góp ý một cách thành khẩn với Thượng hoàng rằng: “Xin bệ hạ kính nước Minh như cha, yêu Chiêm Thành như con, thì nước nhà vô sự. Tôi dầu chết cũng được bất hủ”... (*) . Lời nói ấy đã thể hiện phần nào thái độ yếu đuối và tinh thần bạc nhược của giai cấp lãnh đạo thời Trần mạt, không còn ai lo chuyện giữ vững bờ cõi, chỉ có tư tưởng thoái bại, chỉ cẩn khuất phục vái lạy kẻ mạnh phương Bắc để lo chuyện cầu an cho yên phận...