MỤC 2 HỒ QUÝ LY VÀ VƯƠNG TRIỀU HỒ
Sử cũ chép lai lịch của Quý Ly không rõ ràng về năm sinh (*) và năm mất của ông, chỉ ghi khá đầy đủ những chi tiết về nhân vật Lê Quý Ly trên chính trường Trần mạt vào cuối thế kỷ XIV và Hồ Quý Ly trong những năm đầu thế kỷ XV.
Quý Ly tự nhận mình gốc họ Hồ, thuộc dòng dõi vua Ngu Thuấn bên Trung Quốc (*) .
Sách Việt sử thông giám cương mục chép: “Ông tổ của Quý Ly là Hồ Hưng Dật, người tỉnh Chiết Giang, về đời Ngũ Quí (907 - 959) sang bên ta, lập ấp ở tại làng (hương) Bào Đột thuộc Diễn Châu. Về sau, Liêm di cư sang Thanh Hóa, làm con nuôi Lê Huấn, do đấy, đổi theo họ Lê” (*) . Quý Ly là cháu bốn đời của Lê Liêm (*) .
Theo thư tịch Trung Quốc, đất Chiết Giang là địa bàn của nước Việt thời Xuân Thu (770 - 475 TCN). Họ Hồ ở đất này có thể không thuộc dòng Hán tộc mà là người tộc Việt, thuộc một trong những tộc Bách Việt cổ, sinh sống ở vùng đất này, bên Trung Quốc ngày nay.
Như vậy, viễn tổ của Quý Ly là Hồ Hưng Dật, gốc từ ở Chiết Giang, sang nước ta làm quan (*) thuộc châu ấy, đời nào cũng làm chủ trại.
Từ khi sang sinh sống ở nước ta, dòng họ Hồ phân ra thành nhiều chi, sống rải rác ở nhiều vùng khác nhau: ở Nghệ An, Thanh Hóa, Quỳnh Lưu, Thổ Thành, Bình Định... Thuộc một chi ở Nghệ An, có Hồ Phi Phúc, sau này bị ép di cư vào đất Tây Sơn (Bình Định), sinh ra Nguyễn Nhạc, Nguyễn Huệ, Nguyễn Lữ... Trong lịch sử nước ta, dòng họ Hồ đã từng có nhiều người nổi tiếng. Có người từng làm vua (như cha con Hồ Quý Ly; anh em, cha con Tây Sơn Nguyễn Huệ...); nhiều người làm đại thần, văn quan, võ tướng; đỗ đại khoa (như Hồ Tông Thốc, Hồ Tông Đốn, Hồ Tông Thành...), văn thần nổi tiếng (như Hồ Sĩ Dương, Hồ Sĩ Tân, Hồ Sĩ Đống...) và nữ sĩ nổi danh Hồ Xuân Hương v.v...
Hồ Liêm là cháu 12 đời của Hồ Hưng Dật, thủy tổ của họ Hồ ở vùng Đại Lại, Thanh Hóa, sau này sinh ra Hồ Quý Ly (cháu đời thứ tư của Liêm) và Quý Tỳ (em của Hồ Quý Ly). Trong dòng họ Hồ này, đời trước Hồ Quý Ly có 2 người nữ mà Quý Ly gọi bằng cô: một người (bà Minh Từ Hoàng phi) lấy vua Trần Minh Tông sinh ra vua Nghệ Tông và một bà nữa (bà Đôn Từ Hoàng phi) cũng lấy vua Minh Tông, sinh ra vua Duệ Tông (*) .
II. MỐI QUAN HỆ GIỮA QUÝ LY VÀ CÁC VUA TRẦNMối quan hệ gia đình giữa Hồ Quý Ly và các vua nhà Trần là điều kiện thuận lợi giúp ông bước chân vào đường hoạn lộ, ngày càng củng cố thêm vị trí chính trị, để rồi cuối cùng chiếm cả ngôi vua của nhà Trần.
Xét thế phổ nhà Trần thì thấy địa vị thích thuộc của Hồ Quý Ly với nhà vua ngày càng thêm gần gũi hơn. Do những quan hệ đó, Quý Ly đã trở nên một nhà quý tộc ngoại thích đầy thế lực.
Lúc nhà Trần còn hưng thịnh, hai người cô của Quý Ly là vợ của vua Minh Tông và một trong hai người cô của Quý Ly (bà Minh Từ) là mẹ sinh của vua Hiến Tông. Tuy vậy, quan hệ giữa vua và Quý Ly lúc này chưa thân thiết lắm và Quý Ly cũng chưa tham dự vào chức vụ của triều đình.
Đến sau này (1371), Quý Ly được vua Nghệ Tông gả cho người em gái là Huy Ninh Công chúa (bà này trước là vợ của tôn thất Trần Nhân Vinh, đang góa chồng) nên Quý Ly từ vị trí người em bà con cô cậu của vua đã trở thành em rể của vua Nghệ Tông. Lúc ấy Quý Ly đã giữ chức Khu mật viện đại sứ trong triều.
Kế nữa, đối với vua Trần Duệ Tông, người em gái họ (con của chú) của Quý Ly là vợ của vua Duệ Tông (Gia Từ Hoàng hậu). Cho nên, Quý Ly vừa là em cô cậu, vừa là em rể của vua Duệ Tông, vừa là anh họ của vợ vua Duệ Tông, tức là cậu họ của vua Phế Đế sau đó (vua Phế Đế là con của vua Duệ Tông và Gia Từ Hoàng hậu).
Đối với Thượng hoàng Trần Nghệ Tông, Quý Ly là em cô cậu, là em rể và sau là sui gia. Nguyên sau khi vua Trần Phế Đế bị truất rồi, con của Thượng hoàng Nghệ Tông là Trần Ngung được đưa lên làm vua (tức Trần Thuận Tông), thì Quý Ly liền gả ngay con gái lớn của mình cho vua Thuận Tông để trở thành Hoàng hậu. Và bởi mối quan hệ ấy, Quý Ly đương nhiên là ông ngoại của vua Trần Thiếu Đế sau này - vị ấu quân cuối cùng của nhà Trần.
Đối với hai vua cuối nhà Trần, vời tư cách là Phụ chính lại là cha vợ của vua (Thuận Tông) và sau cùng là ông ngoại của vua (Thiếu Đế), Quý Ly có điều kiện thuận lợi để chuyên quyền rồi giành lấy ngôi vua.
III. CON ĐƯỜNG HOẠN LỘLê Quý Ly bắt đầu có mặt ở vương triều Trần từ năm 1370, đầu đời vua Trần Nghệ Tông. Lê Quý Ly tham chính dưới triều 5 đời vua cuối nhà Trần: Trần Nghệ Tông (1370 - 1372), Trần Duệ tông (1372 - 1377), Trần Phế Đế (1377 - 1388), Trần Thuận Tông (1388 - 1398) và Trần Thiếu Đế (1398- 1400).
1. Năm 1370, Quý Ly xuất thân từ vai trò Chi hậu tứ cục Chánh chưởng là một chức quan võ coi quân cận vệ mà thường chỉ có những người tôn thất mới được giao giữ chức này. Vì cô của Quý Ly (bà Minh Từ) là mẹ đẻ của vua Nghệ Tông nên ngay từ khi mới lên ngôi (tháng 11 năm Canh Tuất - 1370), vua Nghệ Tông đã dành nhiều cảm tình và rất tín nhiệm Quý Ly.
Chưa đầy một năm sau, tháng 5 năm Tân Hợi (1371), Quý Ly được vua Nghệ Tông thăng chức cho làm Khu mật viện đại sứ . Vua lại gả em gái của mình là Công chúa Huy Ninh vừa mới góa chồng 6 tháng cho Quý Ly (chồng của bà Huy Ninh là tôn thất Trần Nhân Vinh bị Dương Nhật Lễ giết hại). Tháng 8 năm ấy, Quý Ly được cử đi vỗ yên dân miền biên giới Nghệ An và tháng 9 được gia phong Trung tuyên quốc Thượng hầu .
2. Đến khi vua Nghệ Tông nhường ngôi cho người em khác mẹ là Thái tử Trần Kính, tức vua Trần Duệ Tông (tháng 11 năm Nhâm Tý - 1372), thì Quý Ly cũng được tiếp tục tin dùng. Vì vua Duệ Tông lại cũng là con đẻ của một bà cô khác của Quý Ly (bà Đôn Từ).
Tháng Giêng năm Ất Mão (1375), Khu mật viện đại sứ Lê Quý Ly được vua Duệ Tông cử kiêm chức Tham mưu quân sự . Với vai trò này, Quý Ly có toàn quyền định đoạt việc quân, sắp xếp các thứ vị võ quan và chỉ huy từ các tôn thất trở xuống. Tháng 12-1376, vua Duệ Tông thân chinh cầm quân đi đánh Chiêm Thành, Quý Ly được giao trách nhiệm đôn đốc lộ Nghệ An, phủ Tân Bình và các châu Thuận, Hóa, vận lương thực cung cấp cho quân đội tham chiến...
3. Bốn năm sau, vào đời Đế Hiện - con vua Duệ Tông (tức Trần Phế Đế), tháng 2 năm Kỷ Mùi (1379) Quý Ly được thăng chức Tiểu tư không kiêm hành Khu mật đại sứ . Trong trận chiến chống quân Chiêm do Chế Bồng Nga cầm đầu tấn công vào Thanh Hóa, Lê Quý Ly được giao chỉ huy quân thủy. Nhờ Quý Ly quyết giữ nghiêm quân kỷ chiến đấu, Chiêm vương Chế Bồng Nga phải thua chạy. Từ trận này, Quý Ly lại được giao lãnh chức Nguyên Nhung hành Hải Tây đô thống chế . Hải Tây là vùng đất chạy suốt từ Thanh Hóa trở vào đến Thuận, Hóa.
Trong thực tế, suốt các đời vua Duệ Tông, Phế Đế đến đời Thuận Tông, Thái thượng hoàng Trần Nghệ Tông vẫn nắm triều chính trong tay. Nhân vật Lê Quý Ly được liên tiếp thăng quan tiến chức một cách nhanh chóng và bắt đầu nổi bật như một ngôi sao trên chính trường nhà Trần kể từ khi ông được Thượng hoàng Nghệ Tông ban cho chức Đồng bình chương sự là chức đại thần xếp vào hàng Tể tướng (Tướng quốc) của triều đình (tháng 3 năm Đinh Mão - 1387). Cùng với việc cho thăng chức Đồng bình chương sự , Thượng hoàng còn ban cho Quý Ly một thanh gươm và một lá cờ đề 8 chữ “Văn võ toàn tài, quân thần đồng đức” (nghĩa là: văn võ song toàn, vua tôi một dạ)...
Trong lúc Quý Ly ngày càng được Thượng hoàng Nghệ Tông tin dùng, mọi việc chính sự lại nằm trong tay của Thượng hoàng mà thực sự là theo sự sắp xếp, bày vẽ của Lê Quý Ly, nên vua Đế Hiện (*) bất mãn, vua bàn cùng Thái úy Trang Định vương Ngạc (con của Thượng hoàng Nghệ Tông) để tìm cách loại trừ Quý Ly, rằng: “Thượng hoàng tin yêu ngoại thích là Quý Ly, cho hắn mặc sức làm gì thì làm, nếu không lo trước đi thì sau sẽ rất khó chế ngự”. Biết được mưu của Đế Hiện, Quý Ly bèn bàn kế với những người tâm phúc là Nguyễn Đa Phương và Phạm Cự Luận rồi ra tay trước. Quý Ly bí mật tâu với Thượng hoàng Nghệ Tông và xúi Thượng hoàng phế bỏ Đế Hiện để lập con của Thượng hoàng lên làm vua. Nghe theo lời Quý Ly, ngày mồng 6 tháng Chạp năm Mậu Thìn (tức 3-1-1389), Thượng hoàng cho gọi vua tới bàn việc, rồi sai bắt giam Đế Hiện với chiếu rằng: “Trước đây, Duệ Tông đi tuần phương Nam không trở về, lấy con đích để nối ngôi, đó là đạo từ xưa. Nhưng từ khi Quan gia (*) lên ngôi đến nay, lòng dạ trẻ con, giữ đức không thường, gần gũi bọn tiểu nhân, nghe lời Lê Á Phu, Lê Dữ Nghị gièm pha vu hãm công thần, làm lung lay xã tắc, phải giáng làm Linh Đức Đại vương. Song quốc gia không thể không có chủ, ngôi báu không thể bỏ trống lâu, nên hãy đón Chiêu Định vào nối đại thống. Bá cáo trong ngoài để mọi người đều biết” (*) . Sau đó, Thượng hoàng sai đưa vua xuống phủ Thái Dương thắt cổ cho chết.
Triệt hạ xong Đế Hiện và vây cánh của vua Trần Phế Đế, nghe theo lời Quý Ly, Thượng hoàng Nghệ Tông lập con út của mình là Chiêu Định vương Trần Ngung lên làm vua, tức Trần Thuận Tông.
4. Ngày 27 tháng Chạp năm Mậu Thìn (tức 24-1-1389), vua Thuận Tông lên ngôi. Việc nước vẫn ở trong tay Thượng hoàng Nghệ Tông và quyền thần Lê Quý Ly. Nằm trong sự sắp xếp của Quý Ly, tháng Giêng năm sau, Kỷ Tỵ (1389), Thánh Ngâu là con gái lớn của Lê Quý Ly được lập làm Hoàng hậu. Lúc này, trong triều Quý Ly không những đã là một đại thần có nhiều quyền lực nhất mà nay còn là cha vợ của vua nữa.
Tháng 10 năm Kỷ Tỵ (1389), giặc Chiêm cướp phá Thanh Hóa, Thượng hoàng sai Quý Ly đem quân chống giữ. Trúng kế của giặc, quân Việt đại bại, nhiều tướng bị bắt và chết trận. Quý Ly bỏ trốn về triều xin viện binh nhưng Thượng hoàng không cho, từ đó Quý Ly xin thôi nắm quyền cầm quân, không đi đánh giặc nữa.
Lúc này trong triều nhen nhóm nhiều âm mưu diệt trừ Quý Ly lộng quyền lại có ý dòm ngó ngôi báu, nhưng mọi chuyện đều bất thành. Thượng hoàng ngày càng tỏ ra tin dùng Quý Ly hơn. Theo “Chiếu cầu lời nói thẳng” tháng 4 năm Nhâm Thân (1392), Bùi Mộng Hoa dâng thư chỉ trích Quý Ly, Thượng hoàng lại đưa thư ấy cho Quý Ly xem... Để củng cố vị trí, tăng cường vây cánh cho mình, Quý Ly tìm cách đưa người tâm phúc và dòng dõi họ mình vào giữ những cương vị chủ chốt trong triều.
Tháng 2 năm Giáp Tuất (1394), Thượng hoàng Nghệ Tông sai thợ vẽ bức tranh “Tứ phụ” ban cho Quý Ly, trong tranh vẽ Chu Công giúp vua Thành Vương, Hoắc Quang giúp vua Chiêu Đế, Gia Cát giúp Thục Hậu Chúa, Tô Hiến Thành giúp vua Lý Cao Tông. Đó là 4 người hiền nổi tiếng đời xưa, có tài đức, đã hết lòng phò tá vua còn nhỏ tuổi. Ý của Thượng hoàng là mong vua Thuận Tông cũng được sự giúp đỡ hết lòng của Quý Ly như thế...
Lúc này Thượng hoàng đã thấy rõ thế lực của Quý Ly có ảnh hưởng đến sự tồn tại ngôi báu của nhà Trần nhưng đã không còn kịp nữa... Mùa hạ, tháng 4 năm Giáp Tuất (1394), sau buổi hội thề ở đền Đóng Cổ, Thượng hoàng vời Quý Ly vào cung nói rằng: “Bình chương là họ thân thích nhà vua, mọi việc nước nhà đều trao cho khanh cả. Nay thế nước suy yếu, Trẫm thì già nua. Sau khi Trẫm chết, Quan gia nếu giúp được thì giúp, nếu hèn kém ngu muội thì khanh cứ tự nhận lấy ngôi vua”. Nghe vậy, Quý Ly vội bỏ mũ, dập đầu khóc lóc từ tạ, chỉ trời vạch đất mà thề: “Nếu thần không biết dốc lòng trung, hết sức giúp Quan gia để truyền đến con cháu về sau thì trời sẽ ghét bỏ thần...”. Quý Ly lại nói: “Lúc Linh Đức vương (tức Đế Hiện - TG) làm điều thất đức, nếu không nhờ có lệnh Bệ hạ thì thần đã ngậm cười dưới đất rồi, còn đâu được tới ngày nay! Thần dù nát thịt tan xương cũng chưa hề báo đáp lấy một trong muôn phần ơn đức đó, dám đâu lại có lòng khác!” (*) .
Hoàn cảnh ấy, sử thần Ngô Sĩ Liên đã có nhận xét như sau: “Nghệ Tông tính trời hòa nhã, giữ lòng kính cẩn, lo sợ. Nhưng uy vũ không đủ để đánh lui giặc ngoài, sáng suốt không đủ để phân biệt lời gièm, có một Nguyên Đán mà không biết dùng, lại giao việc nước cho người họ ngoại, khiến xã tắc nhà Trần đi đến sụp đổ, thực là “đằng trước có kẻ siễm nịnh mà không thấy, đằng sau có giặc cướp mà không hay” (*) .
Tháng 11 năm Giáp Tuất (1394), Thượng hoàng Trần Nghệ Tông mất.
Sang năm 1395, Quý Ly lên làm Nhập nội Phụ chính Thái sư Bình chương quân quốc trọng sự, Tuyên trung vệ quốc Đại vương . Đến đây Quý Ly đã giữ chức tột đỉnh trong triều, đeo lân phù vàng. Tháng 4, Quý Ly vào ở nhà bên hữu Trung thư sảnh và Ngự sử đài, gọi là Họa Lư (là nhà ở của đại thần thân cận vua) để dạy vua Thuận Tông học và tự xưng là Phụ chính cai giáo Hoàng đế (nghĩa là giúp vua trị nước kiêm việc dạy bảo vua). Quyền uy của Quý Ly ngày càng thêm rộng, khuynh loát cả triều đình. “Vua chỉ ngồi giữ ngôi không, việc nước trong tay quyền thần” (*) .
5. Năm Bính Tý (1396), Quý Ly ép vua Thuận Tông dời đô về Thanh Hóa (Tây Đô) rồi lập mưu cho đạo sĩ Nguyễn Khánh xui vua đi tu. Thuận Tông nhường ngôi cho con là Thái tử An mới 3 tuổi rồi lên núi tu tiên. Sau đó, Thuận Tông cũng bị Quý Ly sai người giết chết (1399).
Từ năm 1398, Hoàng thái tử An đã lên ngôi ở cung Bảo Thanh, ngự điện ở kinh đô mới. Quý Ly tự xưng là Khâm đức Hưng liệt Đại vương . Văn bản triều đình ghi là: “Trung thư Thượng thư sảnh phụng nhiếp chính cai giáo Hoàng đế thánh chỉ”.
Tháng 6 năm Kỷ Mão (1399), Lê Quý Ly tự xưng là Quốc tổ Chương hoàng , mặc áo màu bổ hoàng, ở cung Nhân Thọ, ra vào theo lệ thiên tử, dùng 12 chiếc lọng vàng... Con của Quý Ly là Hán Thương xưng là Nhiếp Thái phó, ở bên hữu điện Hoàng Nguyên. Con trưởng là Lê Nguyên Trừng làm Tư đô. Văn bản triều đình ghi là: “Phụng nhiếp chính Quốc tổ Chương hoàng”. Tháng Giêng năm Canh Thìn (1400), Lê Quý Ly lập Hán Thương làm Thái tử.
Trên đường hoạn lộ, rõ ràng Quý Ly chỉ có thăng tiến mà không hề bị giáng truất lần nào. Từ một chức quan võ nhỏ, ông đã bước lên hàng đại thần đứng đầu bá quan văn võ, cũng đã từng được ban tước trọng của triều đình: tước Hầu, tước Vương. Suốt gần 30 năm dưới sự sủng ái, trọng dụng của Thượng hoàng Nghệ Tông và các vua Trần mạt, mặc dù gặp phải nhiều trở lực chống đối nhằm loại trừ ông nhưng cuối cùng Quý Ly đã vượt qua, xây dựng lên vương triều...
IV. VƯƠNG TRIỀU HỒNgày 28 tháng 2 năm Canh Thìn (1400), các nhà tôn thất cùng các quan dâng biểu khuyên Hồ Quý Ly lên ngôi.
Làm vua chưa đầy 1 năm, theo lệ cũ của nhà Trần, tháng 12 năm Canh Thìn (1400) Hồ Quý Ly nhường ngôi Hoàng đế cho con là Thái tử Hán Thương, rồi lên làm Thái thượng hoàng cùng coi việc nước. Lúc ấy mọi việc chính sự hầu hết vẫn do một tay Hồ Quý Ly quyết đoán cả.
Đến năm 1406, mượn tiếng đánh họ Hồ để chiếm lại đất An Nam cho con cháu nhà Trần (Trần Thiêm Bình), nhà Minh bên Trung Quốc cử quân sang đánh nước ta. Hồ Quý Ly một mặt lo tổ chức phòng ngự, đón đánh quân Minh, bắt giết Thiêm Bình, một mặt cho sứ sang Trung Quốc xin hàng phục, giữ lệ triều cống. Song vì nặng ý đồ cướp nước ta, vua Minh vẫn cất quân sang đánh. Mặc dù nhà Hồ dồn toàn lực kháng chiến đến cùng, song vì thực trạng xã hội lúc bấy giờ với sự thờ ơ của nhân dân và sự chống đối của tầng lớp quý tộc nhà Trần, khiến quân Minh dưới sự chỉ huy của các tướng giặc Chu Năng, Trương Phụ, Mộc Thạnh đã đánh bại quân nhà Hồ. Cuối cùng cha con Hồ Quý Ly bị giặc Minh bắt ở Hà Tĩnh ngày 11-12 tháng 5 năm Đinh Hợi (1407), giải về Kim Lăng, Trung Quốc (tháng 6 năm Đinh Hợi - 1407). Quan quân nhà Hồ một số ra hàng, một số bị bắt, một số tự tử...
Nhà Hồ trị vì được hơn 7 năm, qua 2 đời vua:
– Hồ Quý Ly (1400): làm vua chưa được 1 năm, Thái thượng hoàng hơn 6 năm.
– Hồ Hán Thương (1400 - 1407): làm vua hơn 6 năm.