MỤC 1 CẢI CÁCH CHÍNH TRỊ
Nhân vật Hồ Quý Ly bắt đầu xuất hiện trong chính trường triều Trần từ tháng 3 năm Tân Hợi (1371) khi ông được vua Nghệ Tông ban cho chức Khu mật viện đại sứ. Trong quá trình hoạt động chính trị của mình, Hồ Quý Ly phải đảm đương sứ mạng giải quyết cuộc khủng hoảng đã trở nên trầm trọng vào cuối thời Trần thể hiện ở sự mâu thuẫn giữa khuynh hướng của giới nho sĩ mới muốn canh tân cải cách và sự bảo thủ của tầng lớp quý tộc đang cầm quyền; cũng như yêu cầu cấp thiết phải củng cố sức mạnh của một Nhà nước quân chủ trung ương tập quyền đang bị suy yếu vì các thế lực địa phương của vương hầu, quý tộc nhà Trần.
Sự mâu thuẫn có khi âm ỉ, có khi quyết liệt, diễn ra liên tục suốt 30 năm cuối thế kỷ XIV mà Hồ Quý Ly là người tiêu biểu cho xu hướng đổi mới. Để thực hiện được sứ mạng của mình, Hồ Quý Ly đã trực tiếp tổ chức hoạt động chính trị, từng bước củng cố, thu tóm quyền lực Nhà nước.
I. SINH HOẠT BẰNG ĐẢNG (*) PHÁT TRIỂN CÙNG VỚI HOẠT ĐỘNG CHÍNH TRỊ CỦA HỒ QUÝ LYĐể thực hiện công việc canh tân đất nước, Hồ Quý Ly đã nhận thức đầy đủ yêu cầu phải nắm lấy quyền lực. Song họ Hồ cũng ý thức răt rõ rằng quyền lực chính trị cần phải được nắm giữ vào tay của những người có cùng một chí hướng. Dưới chế độ quân chủ chưa xuất hiện tổ chức đảng phái chính trị (chính đảng) hoạt động với tư cách là một nhóm người được tổ chức thành đoàn thể, có chung chính kiến, chung tôn chỉ hoạt động, hướng tới cùng mục đích là giành lấy chính quyền và cầm quyền. Học thuyết Khổng - Mạnh không chấp nhận chính đảng. Khổng Tử viết: “Người quân tử oai nghiêm mà không tranh giành; hợp quần mà không kết đảng” (“Quân tử căng nhi bất tranh, quần nhi bất đảng”). Nhưng quá trình phát triển thế lực của Hồ Quý Ly Ly đã cho thấy rõ sự kiện ông đã biết quy tụ những người có cùng chung một xu hướng cải cách vào phe của mình và chính đó là hậu thuẫn giúp ông bước lên vị trí một lãnh tụ tối cao. Tình hình bằng đảng âm ỉ phát triển trong triều đình Trần, đến những thập niên cuối thế kỷ XIV (từ 1371 đến 1400) thì đã trở nên căng thẳng. Một lực lượng do Hồ Quý Ly cầm đầu đối lập với một lực lượng gồm các quý tộc, tôn thất nhà Trần. Một phe muốn cải cách và một phe bảo thủ luôn luôn tìm cách loại trừ nhau. Trong suốt quá trình hoạt động chính trị, bản thân Hồ Quý Ly không ngừng tìm mọi cơ hội để tạo thêm sự tin dùng, nâng đỡ của Thượng hoàng Nghệ Tông và mối quan hệ ảnh hưởng đối với các vua, đồng thời với việc triệt hạ, loại trừ, giết hại những người có ý đồ chống đối mình nhất là những tôn thất nhà Trần. Hồ Quý Ly luôn tìm cách đưa những người có cùng chí hướng, phe cánh của mình vào giữ những chức vụ trọng yếu trong triều đình và trấn giữ các địa phương. Tháng 2 năm Kỷ Mùi (1379), sau khi được giao chức Tiểu tư không kiêm Hành khu mật đại sứ, được phép chọn cử quan viên mà không cứ phải là người tôn thất, Quý Ly có dịp đưa những người cùng phe đảng của mình vào giữ những trọng trách. Nguyễn Đa Phương được tiến cử làm Tướng quân, Phạm Cự Luận “giỏi bày mưu tính kế” được cử làm Quyền đô sự rồi Thiêm thư khu mật viện sự (*) ; Đỗ Tử Trừng làm Ngự sử đại phu và những người khác được tin dùng cho vào phe cánh như: Phạm Phiếm, Vương Khả Tuân, Dương Chương, Hàn Tử Tây, Nguyễn Sùng, Nguyễn Thư, Nguyễn Cảnh Chân, Đỗ Tử Mãn... (*) . Nhân cuộc cải tổ hành chính địa phương năm 1397, Hồ Quý Ly cũng không bỏ qua cơ hội đưa người của mình vào chiếm giữ những chức vụ trọng yếu. “Lấy Phó tướng Lê Hán Thương coi phủ đô hộ lộ Đông Đô, Thái bảo Trần Hàng coi phủ đô thống lộ Bắc Giang; Trần Nguyên Trữ coi phủ đô thống lộ Tam Giang; Thiếu bảo Vương Nhữ Chu làm tri Thiên Trường phủ lộ quân dân sự; Hành khiển Hà Đức Lân làm hành Tân Yên phủ lộ Thái thú” (*) ...
Sau vụ của nhóm vua Đế Hiện cùng Trang Định vương Ngạc (con của Thượng hoàng Nghệ Tông) âm mưu hạ bệ Hồ Quý Ly, Quý Ly bằng thủ đoạn do bày mưu tính kế của bằng đảng mình, đã ra tay triệt hạ Đế Hiện (1388), giết Thái úy Trang Định vương Ngạc (1391) rồi lần lượt giết các tôn thất cùng phe đối nghịch với mình như Trần Nhật Chương (1392), Trần Nguyên Uyên, Trần Nguyên Dận (1395). Trong khi thọ tang Thượng hoàng Nghệ Tông, các tôn thất Nguyên Uyên, Nguyên Dận chỉ vi nói đến chuyện Nhật Chương âm mưu giết Quý Ly mà cũng bị giết cả... Vụ thanh trừng giữa bằng đảng của Hồ Quý Ly đối với quý tộc Trần lớn nhất xảy ra vào năm 1399, sau khi Quý Ly cho người giết vua Thuận Tông, rồi tiếp tục trừ khử phe quý tộc Trần đang ngày đêm tìm cách triệt hạ mình. Sau vụ âm mưu giết Quý Ly bị phát giác, phe nhóm của tôn thất nhà Trần gồm Thái bảo Trần Hàng, Trụ quốc Nhật Đôn, Tướng quân Trần Khát Chân, Phạm Khả Vĩnh, Thượng thư Hà Đức Lân, Lương Nguyên Bưu, Phạm Ông Thiện, Phạm Tổ Thu, Phạm Ngưu Ngưu Tất (*) , cả thảy hơn 370 người đểu bị giết, tịch thu gia sản, con gái bị bắt làm tỳ, con trai từ 1 tuổi trở lên hoặc bị chôn sống hoặc bị dìm xuống nước. Cuộc lùng bắt dư đảng của tôn thất Trần liền suốt mấy năm không ngớt (*) .
Sử thần Ngô Sĩ Liên đã nhận ra sự phát triển từng bước của hiện tượng bằng đảng có ảnh hưởng to lớn đối với chính sự cuối nhà Trần khi ông nhận định rằng: “Bọn loạn thần tặc tử mà thực hiện được mưu kế của chúng, nguyên nhân không phải là một sớm một chiều. Việc đó có ngọn nguồn hình thành dần dần từ lâu rồi. Cho nên, thánh nhân phải nhận biết âm mưu đó từ sớm và thận trọng phòng giữ như giẫm lên sương. Họ cướp ngôi nhà Trần chẳng những vì Nghệ Hoàng không thận trọng trước âm mưu của nó mà còn vì đã gây ra đầu mối nữa” (*) . Ngô Thì Sĩ cũng đồng quan điểm ấy trong Việt sử tiêu án : “Vua Nghệ Tông lúc trước lầm cho rằng Quý Ly là người giữ con cháu được, đến lúc mất hết quyền, mới biết là trúng kế của nó, đến năm tàn sắp chết mới tỉnh ngộ, xem trong đồng tính, vây cánh tôn thất không còn ai, xét ngoài triều thần, thân đảng của tên gian thần đã bền chắc, không còn sao được, hối thì đã muộn (*) . Và lời cẩn án ghi trong Việt sử thông giám cương mục đã xác nhận hiện tượng bằng đảng dưới tay Hồ Quý Ly: “Ở lộ đã có chức An phủ mà lại còn đặt Đô hộ và Đô thống, ở phủ đã có chức Trấn phủ mà lại còn đặt Tri phủ và Thái thú, có lẽ cốt để cho công việc được thống nhất mà các viên quan đứng đầu phải kiêm việc trông coi, vì thế, nên đều dùng các viên đại thần giữ những chức ấy. Chẳng qua lúc bấy giờ Quý Ly sắp cướp ngôi vua nhà Trần, cho nên đặt ra những chức quan trọng đại, để phân phối công việc cho các người trong đảng mình” (*) .
Cuộc tranh chấp giữa các bằng đảng cuối cùng đưa đến sự thắng thế về phía phe nhóm của Hồ Quý Ly. Chính bằng đảng của Hồ Quý Ly giúp ông điều kiện để tóm lấy chính quyền và thực thi đường lối của ông khi triều đình chuyển sang tay họ Hồ. Để việc lên ngôi vua được danh chính ngôn thuận, bằng đảng của Quý Ly đã hướng dẫn các tôn thất nhà Trần và các quan triều dâng biểu khuyên Quý Ly lên ngôi.
Quý Ly khéo “từ chối” đến nỗi các quan phải dâng biểu tới 3 lần, Quý Ly mới chịu lên ngôi... Sự kiện ấy cho thấy bằng đảng đã trở thành một lực lượng chính trị trong bóng tối rất mạnh, có thể chi phối triều đình. Song cũng vì bằng đảng của Quý Ly chưa thể vận động được sự đồng tình ủng hộ của số đông quần chúng nhân dân lúc bấy giờ nên không đủ sức bảo vệ sự tồn tại lâu dài của thế lực nhà Hồ.
Trong lịch sử nước ta, hiện tượng bằng đảng thực ra không phải đến cuối thế kỷ thứ XIV mới có, mà nó đã xuất hiện trên chính trường trước đó hàng mấy trăm năm. Năm 1009, nhân cơ hội Lê Long Đĩnh mất, sư Vạn Hạnh âm mưu cùng Đào Cam Mộc và một số người khác tổ chức các hoạt động nhằm đưa Lý Công Uẩn lên thay ngôi Hoàng đế của nhà Tiền Lê, lập ra nhà Lý. Sự kiện này đã thể hiện bước đầu vai trò của bằng đảng. Trong chế độ cai trị của nhà Trần, bên cạnh hoàng tộc là một hình thức “bằng đảng” liên kết những người cùng một dòng họ vào sinh hoạt chính trị để làm hậu thuẫn bảo vệ ngôi vua, thỉnh thoảng đã xuất hiện những bằng đảng nhỏ. Ví dụ như trong việc lập Hoàng tử Vượng làm Thái tử vào năm 1328, đã xảy ra tranh chấp dẫn đến triệt hạ nhau một cách thê thảm giữa một bằng đảng do Quốc phụ thượng tể Huệ Võ vương Trần Quốc Chẩn cầm đầu và một bằng đảng do Thiếu bảo Trần Khắc Chung cầm đầu (*) ...
Nhưng thực tế, đến cuối đời Trần, sinh hoạt bằng đảng mới phát triển có nền nếp với quy mô tươm tất, dưới sự tổ chức, lãnh đạo một cách khôn khéo, đầy thủ đoạn của Hồ Quý Ly.
II. CUỘC ĐẢO CHÍNH NGÀY 28 THÁNG 2 NĂM CANH THÌN (1400) LÀ HÀNH ĐỘNG CẢI CÁCH CHÍNH TRỊ TÁO BẠO VÀ TRIỆT ĐỂ NHẤT CỦA HỒ QUÝ LYCuộc chính biến đoạt ngôi vua ngày 28 tháng 2 năm Canh Thìn do Hồ Quý Ly tổ chức, theo Việt sử thông giám cương mục đã diễn biến như sau: “Quý Ly nói thác ra rằng vua truyền ngôi cho (*) . Bầy tôi khuyên mời lên ngôi vua. Quý Ly giả vờ thoái thác nói: “Ta sắp đến ngày xuống lỗ rồi (*) , nếu làm như thế thì còn mặt mũi nào trông thấy tiên đế ở dưới đất được?”. Bầy tôi 3 lần dâng tờ biểu, mới nhận lời, xưng là Hoàng đế, đặt niên hiệu là Thánh Nguyên, đổi quốc hiệu là Đại Ngu và đổi họ mình là họ Hồ, truất Thiếu Đế làm Bảo Ninh Đại vương, vì Thiếu Đế là cháu ngoại nên không giết chết” (*) .
Trong lịch sử, các nhà viết sử thời quân chủ ở nước ta (Phan Phu Tiên, Ngô Sĩ Liên, Ngô Thì Sĩ...) đều lấy Nho giáo làm tiêu chuẩn hàng đầu để đánh giá, bình luận các sự kiện và các nhân vật lịch sử. Đó cũng là thái độ chung của quần chúng trong thời buổi học thuyết Khổng - Mạnh là tư tưởng chính thống.
Thật vậy, do thành kiến “Nho giáo” khắt khe, trọng chính thống, có thể nói xã hội thời bấy giờ sẵn sàng kết án tất cả những ai nắm chính quyền bằng con đường khác hơn là truyền tử lưu tôn trong triều đại đã sẵn có; phải xử sự chính danh theo lối “quân quân, thần thần, phụ phụ, tử tử” dù cho ông vua tại vị có thế nào đi nữa.
Là một nho sĩ, hẳn Hồ Quý Ly cũng dư biết điều đó. Nhưng trách nhiệm canh tân đất nước đã và đang đè nặng lên vai ông trong khi đẳng cấp nho sĩ và đẳng cấp quý tộc vì quyền lợi riêng tư bị đụng chạm, vì óc công thần, thiển cận, không muốn thấy vua bị lấn quyền... Họ đã cấu kết với nhau hết lòng dựng lên một bức tường thành kiến kiên cố để vừa bảo vệ triều đại vững vàng vừa bảo vệ những quyền lợi mà họ được hưởng trong chế độ đó. Chính đó là chướng ngại vật trước mọi cải cách cần thiết cho đất nước.
Triều Trần thực sự xuống dốc từ khi Thượng hoàng Trần Minh Tông qua đời, rồi các cựu thần như Trương Hán Siêu, Nguyễn Trung Ngạn... tiếp nối mất đi, gian thần lộng quyền đến nỗi danh nho Chu Văn An phải dâng Thất trảm sớ xin chém 7 kẻ quyền thần nhưng Dụ Tông không nghe, ông phải từ quan về ẩn dật ở núi Chí Linh... Từ đó, Dụ Tông tha hồ rượu chè, cờ bạc, trụy lạc, trong khi giặc cướp nổi lên khắp nơi, nạn đói hoành hành, dân chúng lâm vào tình cảnh vô cùng cơ cực. Tình hình bấy giờ thật thê thảm!
Rồi tiếp theo đó, sau khi Dụ Tông mất (1369), các vua Nghệ Tông, Duệ Tông, Phế Đế, Thuận Tông, Thiếu Đế lần lượt kế vị ngai vàng. Các vua ấy hầu hết là bất tài, nhu nhược, chỉ giữ hư vị... Trước khi Quý Ly xuất hiện nổi bật trên chính trường, nhà Trần suýt mất ngôi về tay họ khác (Dương Nhật Lễ tiếm vị từ tháng 6 năm Kỷ Dậu - 1369 đến tháng 11 năm Canh Tuất - 1370). Nhưng một khi nhân vật Hồ Quý Ly ngày càng gia tăng uy thế trong bối cảnh triều chính ấy thì ông cũng luôn luôn bị những người có thế lực đồng thời ganh ghét và mưu toan ám hại. Quý Ly là một chính khách từng nhiều lần bị sát hại mà vẫn thoát (tháng 8 năm Mậu Thìn - 1388, Đế Hiện âm mưu cùng Thái úy Trang Định vương Ngạc giết Quý Ly; trước đó Tri thẩm hình viện Lê Á Phu đã bí mật tâu vua giết Quý Ly; tháng 2 năm Nhâm Thân - 1392, Quý Ly lại bị Trần Nhật Chương mưu giết; rồi bằng đảng của Trần Hàng, Trần Khát Chân lại âm mưu giết Quý Ly khi họp hội thề ở Đốn Sơn năm 1399...). Đáp lại, Hồ Quý Ly cũng thẳng tay đàn áp phe quý tộc và công thần nhà Trần chống lại ông.
Một điểm nổi bật trong lịch sử vào cuối đời Trần là khi các vua Trần đã tỏ ra bạc nhược, kém cỏi, thì cũng là lúc hàng loạt chính sách canh tân được đề ra. Nhưng phần nhiều chính sách ấy đã không thực hiện được đầy đủ, vì thực chất chủ trương cải cách đó là của Hồ Quý Ly chứ không phải của các vua Trần. Tháng 5 năm Đinh Sửu (1397), vua Trần xuống chiếu cải cách việc học nhưng thực tế chủ trương này không thực hiện được. Sử thần Ngô Sĩ Liên có nhận xét: “Bấy giờ có chiếu lệnh này, còn gì tốt đẹp bằng thế nữa? Nhưng lệnh này không thấy thi hành vì không phải là bản ý của vua (...)” (*) .
Trước yêu cầu cải cách đã trở nên bức xúc trong khi vua và một số đông triều thần thì bất lực, nặng óc bảo thủ, trở thành lực cản thực sự thì làm sao có thể tiến hành công cuộc cải cách toàn diện nếu không dẹp bỏ lực cản ấy, nhất là khi ấy Hồ Quý Ly đã đến tuổi ngoài 60? Có thể nói sau khi ngôi vua được trao về Thiếu Đế - vị vua mới 3 tuổi, thì trên thực tế Quý Ly đã có đủ quyền uy của một thiên tử rồi. Song Quý Ly cần có danh nghĩa với quyền hành tối thượng, cần có sự độc tôn mới có thể tự do hành động theo chí hướng của mình. Chính các lực lượng đối đầu ngăn trở, âm mưu phá hoại ngày càng quyết liệt khiến Quý Ly phải chủ động dọn sạch con đường để đi đến một cuộc cải cách toàn diện xứ sở... Nỗi bức xúc ấy đưa Quý Ly đến hành động quyết liệt: cuộc đảo chính cuối tháng 2 năm Canh Thìn (1400) thể hiện rõ thái độ dứt khoát, kiên quyết và táo bạo nhất mà họ Hồ phải làm sau những năm dài lo toan, xếp đặt... Đó là cuộc cải cách chính trị triệt để nhất mà họ Hồ phải làm tiếp theo hàng loạt biện pháp cải cách đã đề ra trước đó nhưng chưa được thực hiện đầy đủ...
III. TĂNG CƯỜNG NHÀ NƯỚC QUÂN CHỦ TRUNG ƯƠNG TẬP QUYỀNChủ trương của nhà Trần triệt để bảo vệ quyền sở hữu tư nhân, đặc biệt là quyền tư hữu đất đai vô giới hạn, khuyến khích việc khai khẩn mở rộng và dành cho tầng lớp vương hầu, quý tộc nhà Trần quyền quản lý rộng rãi trong các điền trang, thái ấp... đã tạo điều kiện thúc đẩy sự tăng cường các thế lực địa phương, làm suy giảm thậm chí đe đọa chính quyền trung ương, đe dọa sự tồn tại của Nhà nước quân chủ trung ương tập quyền.
Sự suy yếu của chính quyền trung ương còn có nguồn gốc tự thân triều đình vào hậu bán thế kỷ thứ XIV. Nửa sau thế kỷ thứ XIV, xã hội Đại Việt lâm vào cuộc khủng hoảng chính trị liên miên cùng với khủng hoảng kinh tế - xã hội toàn diện. Bản thân các vua nhu nhược, bất xứng; quyền lực và ngai vàng của vua ít được quan tâm giữ vững...
Yêu cầu khách quan cấp thiết đặt ra cho toàn xã hội lúc bấy giờ là phải củng cố chế độ trung ương tập quyền để xây dựng, cải cách và quản lý đất nước; quản lý các công trình công cộng như đê điều, thủy lợi và nhất là yêu cầu bảo vệ đất nước chống ngoại xâm từ cả hai phía bắc, nam. Muốn canh tân đất nước, đòi hỏi phải loại bỏ thiết chế của nhà Trần, loại bỏ tầng lớp quý tộc, tôn thất nhà Trần ra khỏi bộ máy chính quyền nhằm thiết lập một thiết chế mới quân chủ tập trung với sự hậu thuẫn của một tầng lớp có tư tưởng cải cách để tầng lớp này nắm giữ những chức vụ chủ chốt trong chính quyền, đủ quyền lực tổ chức, điều hành công cuộc cải cách.
Cơ chế chính trị lý tưởng mà Hồ Quý Ly muốn xây dựng cũng là cơ chế truyền thống phương Đông đã trải qua các triều đại Lý - Trần.
Nước Đại Ngu của vương triều Hồ chọn Tây Đô (Thanh Hóa) làm kinh đô. Thiết chế chính trị mới được xây dựng đứng đầu cũng là vua, vua cũng được gọi là Quan gia như nhà Trần (*) . Vua là trung tâm quyền lực chính trị, nắm quyền hành tập trung tối thượng. Mô phỏng theo nhà Trần, làm vua chưa đầy 1 năm, Quý Ly nhường ngôi cho con là Hán Thương (*) để giữ vai trò Thái thượng hoàng, cùng coi chính sự. Như vậy, vương triều Hồ cũng tiếp tục thực hiện cơ chế hai vua (lưỡng đầu chế).
Việc Quý Ly nhường ngôi cho con lại nhằm đáp ứng phần nào yêu cầu chính trị về “chính thống” của triều đại mới. Như đã biết, Hồ Quý Lỵ vốn là con rể của vua Trần Minh Tông, là người ngoại thích, ngôi vua Trần lọt vào tay Hồ Quý Ly thì Quý Ly không sao tránh khỏi tội ác cướp ngôi, thoán đoạt. Cho nên giải pháp nhường ngôi cho con mình cũng chính là trả ngôi lại cho... cháu ngoại của vua Trần. Như vậy, quyền lực chính trị vẫn ở trong tay Hồ Quý Ly mà yêu cầu chính thống cũng được đáp ứng phần nào đối với dư luận trong nước và ngoài nước. Việc này thể hiện rất rõ qua cách giao thiệp đối phó với nhà Minh. Cuối năm lên ngôi (1400), sau khi nhường ngôi cho con là Hán Thương, Thượng hoàng Quý Ly cho sứ sang báo với nhà Minh, nói rằng nhà Trần không còn người nào nữa, Hán Thương là cháu ngoại của vua Trần Minh Tông, tạm lên ngôi trông coi việc nước (*) .
Để tăng cường vai trò thiêng liêng của vua, nhà Hồ tái lập lễ Tế Giao. Theo phép cũ, lễ Tế Giao là tế trời đất, tổ chức rất long trọng, chia ra làm 3 hạng lễ: đại lễ 3 năm cử hành một lần, trung lễ 2 năm một lần và tiểu lễ tổ chức hàng năm. Nhà Trần đã bỏ lễ này; đến năm 1402, nhà Hồ lập lại. Vua Hán Thương cho đắp đàn Giao ở Đốn Sơn, chọn ngày lành, vua ngồi kiệu Vân Long, từ cửa Nam đi ra, trăm quan văn, võ và cung tần, mệnh phụ đều theo thứ tự đi theo sau. Lúc làm lễ, vua đích thân dâng chén rượu lễ (*) ...
Nỗ lực tăng cường chế độ chính trị quân chủ trung ương tập quyền của họ được thực hiện bằng hàng loạt biện pháp cải cách cụ thể trong các lĩnh vực hành chính, an ninh quốc phòng, kinh tế, tài chính, văn hóa, giáo dục, xã hội...
IV. CỦNG CỐ CHẾ ĐỘ QUÂN CHỦ PHÁP TRỊCông cụ pháp luật được Hồ Quý Ly và nhà Hồ tận dụng để kiện toàn bộ máy Nhà nước, phục vụ mục tiêu táng cường quyền lực trung ương trong mọi lĩnh vực quản lý xã hội. Hồ Quý Ly và nhà Hồ quan tâm củng cố chế độ pháp trị qua việc ban hành hàng loạt các văn bản pháp luật vào cuối đời Trần (thực chất là do Hồ Quý Ly khởi xướng và thực hiện) và trong 7 năm cầm quyền của nhà Hồ, để thông qua đó đề ra đường lối đổi mới của mình có hiệu lực thi hành trong phạm vi cả nước.
Trong thời gian trị vì ngắn ngủi - chỉ có 7 năm - vương triều Hồ phải luôn đối phó với bao việc cấp thời, cho nên rất dễ hiểu khi nhà Hồ không xây dựng được một bộ luật hoàn chỉnh nào như các đời Lý, Trần trước đó cũng như nhà Lê, nhà Nguyễn sau đó. Song thông qua công cuộc canh tân cải cách của Hồ Quý Ly và nhà Hồ cũng đã thấy nhà Hồ quan tâm coi trọng việc tăng cường pháp chế đến mức nào. Điều này thể hiện rõ nét nhất qua việc nhà Hồ thường xuyên đẩy mạnh công việc lập pháp và dùng mọi biện pháp nghiêm khắc có khi đến tàn bạo để bảo đảm cho pháp luật được nghiêm chỉnh thực hiện. Bên cạnh đó, những người lập công, nghiêm chỉnh tuân theo chủ trương, quy định của Nhà nước thường được khuyến khích, khen thưởng...
1. Hệ thống các biện pháp chế tài và khen thưởngCó thể nói pháp trị là một chủ trương quan trọng trong đường lối chính trị của nhà Hồ. Nếu như pháp luật triều Lý còn mang nhiều tính khoan dung, đến pháp luật triều Trần tuy đã đượm vẻ khắt khe, nghiêm ngặt hơn song sự nghiêm khắc ấy để quản lý một xã hội tương đối thái bình, ổn định; thì đến triều Hồ, pháp luật đã được tận dụng để vãn hồi an ninh trật tự xã hội, củng cố quốc phòng, trấn áp những mầm mống và hiện tượng phá hoại từ nhiều phía, đồng thời phục vụ đắc lực công cuộc cải cách toàn diện với vô số trở lực và chống đối quyết liệt. Cho nên, cùng với việc kế thừa chế độ hình phạt của nhà Lý, nhà Trần, trong một số trường hợp cụ thể, hình phạt do Hồ Quý Ly và nhà Hồ đề ra mang tính chất nghiêm khắc, nặng nề hơn các thời đại trước rất nhiều. Ai tàng trữ, lén lút tiêu dùng tiền đồng bị trị tội như kẻ làm giả tiền giấy: xử tử và tịch thu ruộng đất, tài sản (*) . Dân chúng lấy trộm măng (tre gai trồng làm vòng thành) cũng bị xử tử (*) . Trần Đức Huy bị xử lăng trì vì có hành vi mang tính chất mê tín dị đoan, ảnh hưởng đến an ninh quốc gia (*) hoặc như trường hợp Trần Thiêm Bình mạo nhận là con cháu nhà Trần để cầu viện nhà Minh sau đó cũng bị lăng trì (*) .
Mặc dù không còn tài liệu trực tiếp xác định một cách đầy đủ hệ thống các biện pháp chế tài thời nhà Hồ, song qua sử liệu cũng cho thấy được một cách tổng quát chế độ hình phạt thực hiện dưới quyền của Hồ Quý Ly bao gồm những biện pháp của ngũ hình như: đồ hình (sau cuộc chính biến ở hội thề Đốn Sơn 1399, con gái những người tham gia đều bị bắt đồ làm tỳ; năm 1401 Hồ Tùng làm lỡ mất quân cơ, bị xử đồ làm xã binh; năm 1403 Đỗ Nguyên Thác vì trái lệnh Đô tướng, bị đồ làm lính...); lưu hình (năm 1392, Đoàn Xuân Lôi dâng thư nói Quý Ly bàn về đạo Nho trong sách Minh Đạo là không phải, liền bị Quý Ly đày đi châu gần)... Đối với tử hình cũng được thực hiện bằng nhiều hình thức khác nhau: chém (năm 1402, Quý Ly sai chém Nguyễn Bẩm vì cho rằng Bẩm chỉ trích vua; năm 1403, Lưu Quang Đình vì khi đi sứ Trung Quốc có liên hệ với Trần Thiêm Bình nên bị chém...); chôn sống, dìm xuống nước (sau vụ chính biến Đốn Sơn năm 1399, con trai từ 1 tuổi trở lên của những người tham gia vụ mưu giết Quý Ly, đều bị chôn sống hoặc bị dìm xuống nước); lăng trì (năm 1403, Trần Đức Huy bị xử lăng trì vì có hành vi mang tính chất mê tín dị đoan, có ảnh hưởng đến an ninh quốc gia, bị xử lăng trì; năm 1406, Trần Thiêm Bình mạo nhận là con cháu nhà Trần để cầu viện nhà Minh cũng bị xử lăng trì...).
Bên cạnh những hình phạt ấy, cũng có những hình thức xử lý khác như: giam cầm (tháng 7 năm Kỷ Mão - 1399, Quý Ly ra lệnh bắt giam Nguyễn Dụng Phủ vì đã dâng thư chỉ trích Quý Ly; sau đó vào tháng 9 năm Kỷ Mão - 1399, ra lệnh dời các tội nhân giam ở Cảo Điền vào Thanh Hóa); tịch thu gia sản (trong khi thực hiện các biện pháp cải cách kinh tế - tài chính, những người có hành vi vi phạm vì mục đích tư lợi như làm tiền giả, không khai báo điền sản... cũng như những người có tham gia vụ chính biến ở hội thề Đốn Sơn đều bị tịch thu tài sản, ruộng đất bị sung công làm quan điền); biếm tư (năm 1406, An phủ sứ Lê Khải vì không báo tin đỉnh tháp Báo Thiên bị đổ nên bị biếm 1 tư...).
Để khuyến khích những người tiêu biểu, lập được công trạng lớn, vua Hồ ban thưởng tước và ban cho tiền bạc, tiệc rượu... Hình thức thưởng tước theo số tư được sử dụng phổ biến dưới thời nhà Hồ (năm 1402, An phủ sứ Trần Quốc Kiệt có công tổ chức đắp đê ngàn nước mặn được thưởng tước 1 tư; sau chiến thắng quân Minh năm 1406, vua Hồ thưởng chiến công cho mỗi người tước 2 hoặc 3 tư...).
2. Kỹ thuật pháp lýMặc dù chỉ với số lượng văn bản pháp luật đơn hành không nhiều, các sử liệu cũng cho thấy pháp luật nhà Hồ đã đạt tới một kỹ thuật pháp lý khá cao, thể hiện tính cụ thể, chặt chẽ trong từng quy phạm. Mỗi quy phạm pháp luật bao hàm một biện pháp xử lý triệt để, có chú trọng nhiều mặt của từng đối tượng điều chỉnh, có khả năng bảo đảm tính khả thi và tính nghiêm minh của pháp luật Nhà nước. Cụ thể như:
– Trong các quy định về thu thuế, một mặt tận thu, không bỏ sót đối tượng các loại thuyền buôn, khi đánh thuế thuyền buôn có phân biệt từng hạng với mức thuế khác nhau; song qua cách thu thuế cũng cho thấy lần đầu tiên trong lịch sử lập pháp nước ta, Quý Ly đã minh thị đề ra biện pháp nâng đỡ đối với các thành phần thuộc diện chính sách xã hội của Nhà nước thông qua việc miễn thuế đinh: “Đinh nam không có ruộng và trẻ mồ côi, đàn bà góa, thì dẫu có ruộng cũng thôi, không thu” (*) .
– Sử chép, tháng 4-1396, thực hiện kiên quyết chủ trương phát hành tiền giấy, Quý Ly ra lệnh: “Cấm tuyệt tiền đồng, không được chứa lén, tiêu vụng, tất cả thu hết về kho Ngao Trì ở kinh thành và trị sở các xứ. Kẻ nào vi phạm cũng bị trị tội như làm tiền giả (tức là: “Kẻ làm tiền giả bị tội chết, ruộng đất, tài sản tịch thu” - TG) (*) ; hoặc vào tháng 9 - 1399, nhằm thực hiện vòng đai an ninh kinh đô mới (Tây Đô), Quý Ly “sai Trần Ninh đốc suất người phủ Thanh Hóa trồng tre gai ở phía tây thành, phía nam từ Đốn Sơn, phía bắc từ An Tôn đến tận cửa Bào Đàm, phía tây từ chợ Khả Lăng ở Vực Sơn đến sông Lỗi Giang, vây quanh làm tòa thành lớn bọc phía ngoài. Dân chúng ai lấy trộm măng thì bị xử tử ” (*) ... Các biện pháp hình sự vừa nói cho thấy thời ấy Quý Ly đã phân biệt rõ đối tượng bị xâm phạm với khách thể của tội phạm . Trong nhiều trường hợp, đối tượng bị xâm phạm tuy không lớn (măng tre, tiền giấy...) nhưng khách thể của tội phạm là an ninh quốc gia (bảo vệ an ninh cho kinh đô) hoặc là việc thực hiện chính sách cải cách tài chính của Nhà nước (phát hành tiền giấy thay tiền đồng). Đối với những khách thể như vậy, việc quy định mức hình phạt tử hình, tịch thu tài sản cũng là tương xứng (*) .