← Quay lại trang sách

MỤC 3 CẢI CÁCH QUẢN LÝ LÃNH THỔ, AN NINH, QUỐC PHÒNG

I. DỜI ĐÔ VỀ THANH HÓA

Kể từ mùa thu năm Canh Tuất (1010), vua Lý Thái Tổ dời kinh đô nước Đại Cồ Việt từ Hoa Lư về thành Đại La, đổi tên là thành Thăng Long, trải qua các triều đại Lý, Trần, đến cuối nhà Trần thì đã gần 4 thế kỷ. Đến năm 1397, Hồ Quý Ly ép vua Trần Thuận Tông dời đô về Thanh Hóa, lập kinh đô mới, gọi là Tây Đô (thành nhà Hồ).

Theo Đại Việt sử ký toàn thư , tháng Giêng năm Đinh Sửu (1397), Hồ Quý Ly sai Thượng thư bộ Lại kiêm Thái sử lệnh là Đỗ linh đi xem đất và đo đạc động An Tôn, phủ Thanh Hóa, đắp thành, đào hào, lập nhà tông miếu, dựng đàn xã tắc, mở đường phố, có ý muốn dời kinh đô đến đó. Đến tháng 3 thì công việc hoàn tất. Cuối năm 1397 (tháng 11 năm Đinh Sửu), Quý Ly ép vua Thuận Tông dời kinh thành Thăng Long về Ly cung (tức cung Bảo Thanh) ở hương Đại Lại và đầu năm sau, bức vua Thuận Tông nhường ngôi cho con là Thái tử An. Tháng 3 năm Mậu Dần (1398), Hoàng thái tử An lên ngôi ở cung Bảo Thanh rồi ngự điện ở kinh đô mới, tức Tây Đô (*) .

Thành Tây Đô đóng ở động An Tôn thuộc xã An Tôn, huyện Vĩnh Lộc, tỉnh Thanh Hóa (*) cách Ly cung khoảng 70 km theo đường chim bay. Trong thành có điện Hoàng Nguyên (nơi vua ngự triều), cung Diên Thọ (nơi Hồ Quý Ly ở), cung Phù Cực (nơi vợ chồng Hồ Hán Thương ở) và Đông cung có Đông thái miếu thờ tông phái họ Hồ, Tây thái miếu thờ họ ngoại của vua Hán Thương (tức vua Trần Minh Tông và Trần Nghệ Tông). Ngoài ra, trong thành còn có những nhà kho, nhà ngục, trại gia binh... Xung quanh thành ngoài 4 bức tường thành bằng đá, kế đó là vòng hào vừa rộng vừa sâu bọc quanh 4 mặt tường thành phía ngoài. Bên ngoài cùng là một vòng thành bằng lũy tre gai dày đặc. Nhìn chung, thành Tây Đô mang tính chất một công trình kiến trúc quân sự lớn, ở nơi hiểm địa (*) .

Không phải chỉ đời sau mà ngay từ lúc chuẩn bị, đã có nhiều ý kiến khác nhau về việc dời đô của họ Hồ. Sử chép, trước khi có quyết định dời đô, triều đình đã bàn bạc nhiều, Hành khiển Phạm Cự Luận có lời khuyên nên thôi nhưng Quý Ly nói: “Ý ta đã định từ trước rồi, ngươi còn muốn nói gì nữa!” (*) .

Lúc ấy, Khu mật chủ sự Nguyễn Nhữ Thuyết cũng dâng thư can, đại ý nói rằng: “Ngày xưa, nhà Chu, nhà Ngụy dời kinh đô đều gặp điều chẳng lành. Nay đất Long Đỗ (tức Thăng Long - TG) có núi Tản Viên, có sông Lô Nhị (tức sông Hồng - TG), núi cao sông sâu, đất bằng phẳng rộng rãi. Từ xưa các bậc đế vương mở nền dựng nước, không đời nào không lấy đất ấy làm nơi sâu gốc bền rễ. Hãy nên noi theo việc trước: khi ấy quân nhà Nguyên bị giết, giặc Chiêm phải nộp đầu... Xin nghĩ lại điều đó, để làm thế vững vàng cho nước nhà. An Tôn đất đai chật hẹp, hẻo lánh, ở nơi đầu non cuối nước, hợp với loạn mà không hợp với trị. Cho dù dựa vào thế hiểm trở thì đời xưa đã có câu: “Cốt ở đức chứ không cốt ở hiểm”... Quý Ly không nghe. Sau đến kỳ xét công, Quý Ly thấy có tên Nhữ Thuyết liền nói: “Người này từng nói cốt ở đức, không cốt ở hiểm”. Rồi phế bỏ không dùng (*) .

Tháng 11 năm Đinh Sửu (1397), khi vua Thuận Tông ở cung Bảo Thanh, cung nhân Trần Ngọc Cơ và Trần Ngọc Kiểm nói mật với vua là dời kinh đô thế nào cũng có việc cướp ngôi. Quý Ly nghe được cho rằng viên Miếu lệnh Lê Hợp, viên Phụ đạo Hữu Lũng là Lương Ông cùng đồng mưu nên đem giết cả (*) .

Xem như vậy, ngay từ đầu, việc dời đô đã có nhiều ý kiến và dư luận không đồng tình, song Quý Ly vẫn nhất quyết dời. Thành nhà Hồ ở Thanh Hóa chính thức được coi là kinh đô nước ta (Tây Đô) từ đó đến khi vương triều Hồ suy đổ (1407) (*) .

Những người chỉ trích việc dời đô từ trước đến nay đồng quan điểm cho rằng thực hiện việc đó nhằm để Hồ Quý Ly tiến tới cướp ngôi nhà Trần, tách kinh đô khỏi vùng ảnh hưởng sâu xa của họ Trần, đó là một sự chuẩn bị cho âm mưu thoán nghịch, cướp ngôi một cách phi nghĩa, thậm chí có người cho đó là một việc làm vừa ngu xuẩn vừa vô đạo!!!

Song nếu thấy được việc đoạt ngôi vua từ tay họ Trần chuyển sang họ Hồ là một hành động tích cực để gánh vác trách nhiệm trước lịch sử, thì việc dời đô nhằm phục vụ cho một ý đồ như vậy cũng là một trong những việc làm cần thiết, đáp ứng yêu cầu khách quan lúc bấy giờ... Trong việc chuẩn bị phòng vệ đất nước trước ý đồ xâm lược của phương Bắc ngày càng cấp bách thì vị trí địa lý của Tây Đô có những điều kiện đáp ứng yêu cầu mang tính chiến lược về mặt quân sự. “Vì tính chất chiến lược nên giữ lấy

Thanh - Nghệ là một điều hoàn toàn đúng của những nhà quân sự có tài. Thanh Hóa là cái yết hầu. Dùng Thanh Hóa làm bàn đạp tiến ra có thể lấy được Thăng Long, lui về có thể giữ được cái thế cầm cự và có đủ thì giờ để chuẩn bị nuôi dưỡng lực lượng. Ở đây ta cũng thấy rõ cái lỗi lạc của viên tướng Hồ Quý Ly” (*) . “Tây Đô là một vùng trung du lắm sông nhiều núi. Đặc biệt, Tây Đô là nơi “đất chật hẹp, hẻo lánh, cuối nước đầu non”, được án ngữ bốn mặt bằng bốn quả núi lớn: phía bắc có núi Thổ Tượng, phía đông có núi Hắc Khuyển, phía tây có núi Ngưu Ngọa và phía nam có núi Đốn Sơn. Ngoài những bức bình phong tự nhiên như vậy, Tây Đô còn được che chắn bởi những dòng sông. Sông Bưởi từ phía đông chảy tới hội tụ với sông Mã từ phía tây chảy qua (...). Nhìn rộng ra mặt Tây và mặt Bắc, Tây Đô là cả một vùng rừng núi rộng mở của xứ Thanh, địa bàn chiến lược cực kỳ quan trọng trong nghệ thuật quân sự của nhiều thời đại trong lịch sử” (*) .

Và, bản thân Tây Đô cũng đủ tiêu chuẩn một kinh thành phòng ngự thủ hiểm. “Những vòng đai phòng ngự tự nhiên ở vòng ngoài bằng đồi, núi, sông, kết hợp với La thành bằng tre gai ở giữa và vòng trong là con hào vừa rộng vừa sâu có rải chông, hẳn là những chướng ngại đáng sợ đối với giặc.

Đó là chưa kể tới bản thân tường thành có độ dày bề mặt tới 4 - 5m, chân rộng hàng chục mét với hai lớp đá và đất, cao tới 5 - 6m” (*) .

II. MỞ RỘNG BỜ CÕI VẾ PHƯƠNG NAM

Năm 1390, vua Chiêm là Chế Bồng Nga tử trận trong cuộc thủy chiến với Đại Việt. Bắt đầu từ đó thế lực Chiêm Thành suy yếu hẳn. Quân Chiêm rút lui, không còn hoạt động quân sự tấn công nước ta nữa.

Vào cuối đời Trần, lãnh thổ nước ta mở rộng đến miền Thuận Hóa (Thuận châu và Hóa châu) vốn là đất châu Ô và châu Lý của Chiêm Thành đã nhường cho nhà Trần năm 1306, tức vùng Quảng Trị, Thừa Thiên ngày nay. Thực hiện chủ trương “dùng người Chiêm trị người Chiêm”, năm 1397, chính quyền nhà Trần đã cử tướng Chiêm là Chế Đa Biệt làm Kim ngô vệ tướng quân, cho lấy họ Việt (Đinh), tên Việt (Đại Trung) và cho về trấn thủ Hóa châu để giữ đất Chiêm Thành.

Hai năm sau khi lên ngôi, năm 1402, họ lại xuất quân hướng về phía nam, tiến đánh Chiêm Thành. Vua Chiêm là Ba Đích Lại (1400 -1441) hoảng sợ, cho cậu là Bố Điền sang dâng nộp đất Chiêm Động (Quảng Nam ngày nay) để xin bãi binh. Quý Ly bắt phải dâng cả đất Cổ Lũy (Quảng Ngãi).Vua Chiêm sợ nên phải đồng ý. Nhà Hồ tiếp thu cả hai phần đất Chiêm ấy, lập thành lộ mới; đặt tên là lộ Thăng Hoa, chia ra làm 4 châu: Thăng, Hoa, Tư, Nghĩa; cử Nguyễn Cảnh Chân làm An phủ sứ lộ Thăng Hoa. Cũng năm này (1402), vua Hồ lại cử con của Chế Bồng Nga là Chế Ma Nô Đà Nan làm Cổ Lũy Huyện thượng hầu, trấn giữ hai châu Tư, Nghĩa để chiêu dụ, vỗ về dân Chiêm (*) . Từ sau khi vùng đất này sáp nhập vào lãnh thổ nước ta, một số người Chiêm lần lượt bỏ đất ra đi, vua Hồ cho di dân có vốn mà không có ruộng ở các lộ, đem theo cả vợ con vào đó khai khẩn.

Vùng đất mới (lộ Thăng Hoa) bao gồm 4 châu, 11 huyện (*) , kể như sau:

– Châu Thăng: gồm 3 huyện: Lê Giang, Đô Hòa, An Bị (vùng Duy Xuyên, Thăng Bình thuộc Quảng Nam).

– Châu Hoa: gồm 3 huyện: Vạn Yên, Cụ Hy, Lễ Đễ (vùng Tam Kỳ thuộc Quảng Nam).

– Châu Tư: gồm 2 huyện: Trì Bình, Bạch Ô (vùng Bình Sơn, Sơn lình thuộc Bắc Quảng Ngãi).

– Châu Nghĩa: gồm 3 huyện: Nghĩa Thuần, Nga Bôi, Khê Cẩm (vùng Tư Nghĩa, Mộ Đức thuộc Quảng Ngãi).

Như vậy, qua lịch sử Nam tiến của dân tộc Việt, đến đời nhà Hồ thì đất nước đã thực sự mở rộng xuống đến vùng phía nam tỉnh Quảng Ngãi. Chỉ trong vòng mấy năm trị vì của vương triều Hồ, nước Đại Ngu đã vươn về phương Nam thêm phần lãnh thổ suốt từ Quảng Nam đến Quảng Ngãi, bằng cả thời gian 400 năm trước hai triều Lý - Trần đã làm được, sau khi tiếp thu, sáp nhập về Đại Việt 3 châu Bổ Chính, Địa Lý và Ma Linh (vào năm 1069) và hai châu Ô và Lý (vào năm 1306). Đó là chưa kể ý đồ của vua Hán Thương, vào năm 1403 đưa quân tiến đánh Chiêm Thành, dự định chia cả vùng đất Chiêm còn lại từ hai châu Tư, Nghĩa trở vào Nam đến biên giới Xiêm La làm thành châu, huyện của ta nữa (*) ...

III. BẢO VỆ AN NINH QUỐC GIA, TRẬT TỰ AN TOÀN XÃ HỘI

Trong tình hình chính trị - xã hội lúc bấy giờ hết sức phức tạp mà đặc biệt đối với Hồ Quý Ly - một nhân vật chính trị đầy tham vọng cải cách, ông bị bao vây bởi những thế lực bảo thủ, những cá nhân oán hận và bè cánh chống đối lúc nào cũng muốn hạ bệ, sát hại ông... Cho nên, lúc chuẩn bị lên ngôi cũng như khi ở cương vị nhà vua, Hồ Quý Ly luôn luôn phải cảnh giác đối phó với từng hành vi, từng cử chỉ của người xung quanh, từng biến động thời sự ở trong và ngoài nước... Và cũng vì vậy, có thể nói Hồ Quý Ly là một nhà hoạt động chính trị, một nguyên thủ quốc gia hết sức quan tâm đến việc bảo đảm an ninh quốc gia, trật tự an toàn xã hội bằng cách thực hiện phối hợp nhiều biện pháp quản lý của Nhà nước.

A. AN NINH ĐỐI NỘI

1. Tăng cường kiểm soát, bảo đảm an ninh chính trị

Sau vụ chính biến tháng 5 năm Kỷ Mão (1399) do Thái bảo Trần Hàng và Thượng tướng quân Trần Khát Chân âm mưu giết Hồ Quý Ly nhưng không thành, Quý Ly liền ra lệnh lùng bắt bè đảng còn lại của tôn thất nhà Trần liền suốt mấy năm không ngớt, gây nên một không khí hết sức căng thẳng, ngột ngạt ở kinh thành cũng như khắp thôn xã. Đại Việt sử ký toàn thư đã phác họa tình hình xã hội lúc này: “Người quen biết nhau chỉ đưa mắt ra hiệu, không dám nói chuyện với nhau” (*) .

Quý Ly ra lệnh áp dụng biện pháp kiểm soát cư trú nghiêm ngặt trong nhân dân, quản lý tạm trú chặt chẽ những người đi lại, khách vãng lai. “Nhà dân không được chứa người đi đường ngủ trọ, hễ có người ngủ trọ thì phải báo nhà láng giềng, cùng nhau xét hỏi giấy tờ, hành lý, lý do đi qua để làm chứng bảo lãnh. Các xã đều đặt điếm tuần, ngày đêm tuần tra canh giữ” (*) .

2. Xây dựng mạng lưới an ninh hành chính

Để kịp thời ngăn chặn hành vi tiêu cực của quan lại lợi dụng quyền thế thủ lợi, hà hiếp nhân dân, từ năm 1400, vua Hồ tổ chức mạng lưới an ninh hành chính do Quý Ly trực tiếp điều khiển qua hệ thống Liêm phóng sứ đặt ở các lộ. Đây là lần đầu tiên ở nước ta xuất hiện tổ chức “công an chìm”, “mật vụ”, thường xuyên nghe ngóng tình hình, theo dõi quan lại và dân tình ở địa phương, để có lẽ trước hết là nhằm triệt hạ, trừ khử kịp thời những kẻ có mưu định chống đối, phá hoại công cuộc cải cách do họ Hồ đang tiến hành; đồng thời qua đó kiện toàn bộ máy hành chính địa phương, nhằm củng cố lại uy tín của Nhà nước đối với dân.

Về việc này, Đại Việt sử ký toàn thư chép: “Quý Ly sai thuộc quan ở tam quán, chi hậu nội nhân, nội tẩm học sinh chia nhau đi các lộ, bí mật dò hỏi kẻ hay người dở trong quan lại, việc lợi việc hại ở dân gian để tiến hành việc giáng truất hay thăng bổ, quy định thành thể thực lâu dài” (*) .

Trong quan điểm tổ chức mạng lưới an ninh hành chính của Hồ Quý Ly, có nhiều điều đáng để ý. Đó là: mạng lưới nhân sự được chọn tuyển từ những người thân cận trung tín mà có thể hòa nhập vào quần chúng bình dân (như: những thuộc quan làm việc ở tam quán, những chi hậu nội nhân...) và những thanh niên trẻ tuổi, nhiệt tình và trong sạch (như những nội tẩm học sinh..mạng lưới ấy do triều đình trung ương trực tiếp quản lý (cụ thể là nhân sự đều do Quý Ly chọn cử đi và trực tiếp theo dõi, điều khiển); khi nào phát hiện ra những đối tượng cần thanh lọc thì không bao che mà áp dụng ngay biện pháp xử lý kịp thời, dứt khoát. Đại Việt sử ký toàn thư nêu rõ tình hình này như sau: “Từ đó các thú lệnh mới thay đổi luôn” (*) .

Mặc dù sử cũ không ghi lại đầy đủ chi tiết về tổ chức, hoạt động và hiệu quả của hoạt động Liêm phóng sứ dưới triều Hồ và dù vốn có ác cảm với họ Hồ đến mức nào, các sử thần, sử gia phong kiến đời sau cũng không hề chép điều nào về tình trạng tham nhũng lộng hành, quan lại cường hào hiếp đáp dân như hồi cuối đời Trần. Điều đó chứng tỏ phần nào kết quả của hệ thống cơ quan Liêm phóng với tư cách một tổ chức “mật vụ” mới mẻ của nhà Hồ. Hơn nữa, suốt 7 năm trị vì của nhà Hồ, các phe phái đối lập nhất là lực lượng quý tộc Trần chỉ có thể tạo được những cuộc phản tuyên truyền trong vòng bí mật, chứ không gây nổi những cuộc chống báng bằng vũ lực hay dưới hình thức nào khác.

3. Lập lại an ninh, trật tự xã hội

Cuối đời Trần, tình hình trong nước rối ren, trộm cướp nổi lên khắp nơi, lộng hành cả ban ngày, xã hội mất ổn định... Từ khi nắm quyền cai trị, Hồ Quý Ly ra sức tổ chức lùng bắt dư đảng trộm cướp nên đã hạn chế được phần nào nạn cướp của, giết người. Biện pháp an ninh đường sông, đường biển được tăng cường bằng cách đặt sở tuần kiểm ở cửa sông, cửa cảng quan trọng, tuần tra, lùng bắt trộm cướp, quản lý tàu bè qua lại, giữ gìn miền biển, nơi mà quân Chiêm Thành hay bất ngờ ập tới cướp phá. Tháng 10 năm Nhâm Thân (1392), đặt các quan cửa sông và tuần thú ở các xứ để xét bắt trộm cướp, mỗi xứ tùy vị trí xung yếu có thể đặt 3, 4 hay 5 đô, mỗi đô gồm 80 người (*) . Tháng 9 năm Kỷ Mão (1399), đặt sở tuần kiểm ở sông Đại Lại, sai chằng dây chão to ở giữa sông, các thuyền trên sông phải kéo dây theo thứ tự mà đi, không được tranh nhau đi trước (*) ...

Quý Ly cũng áp dụng biện pháp mạnh đối với những kẻ hành nghề mê tín dị đoan, gây ảnh hưởng đến trật tự an toàn xã hội. Năm 1403, có người phù thủy tên Trần Đức Huy hành nghề phương thuật, thường ban đêm đánh mõ làm phép kỳ binh như có muôn nghìn người reo hò đánh nhau. Huy lại đi khắp các xã lấy trộm tên những người đi tuần biên theo sổ quân. Sự việc bị phát giác, tịch thu được tang vật gồm một quyển sách phương thuật, một con dấu ngụy, một thanh gươm, một chiếc mõ đồng... Đức Huy bị xử lăng trì, sổ quân ấy bị ném xuống nước tiêu hủy (*) .

B. AN NINH ĐỐI NGOẠI

Dưới thời Hồ, pháp luật hình sự cũng kế thừa thể chế của đời Lý - Trần, thập ác vẫn được coi là những tội phạm nghiêm trọng nhất mà trong đó mưu bạn là hành vi của kẻ trong nước cấu kết với giặc, tiếp tay với giặc chống lại đất nước.

Trong lịch sử chống ngoại xâm, giữ gìn độc lập dân tộc, hoạt động tình báo đã sớm được các triều đại quân chủ nước ta quan tâm, phát triển không ngừng và đã là một phần không nhỏ trong lịch sử giữ nước của dân tộc. Bên cạnh các điệp viên được cài vào hoạt động trong hàng ngũ địch, tiến hành do thám lãnh thổ và tình hình chính trị, kinh tế, quân sự của địch; mua chuộc, sử dụng người của địch; các đời trước cũng đã hết sức quan tâm đến việc vô hiệu hóa hoạt động gián điệp của địch và trừng trị chúng một cách kịp thời, thích đáng. Trước đời Hồ, các nguyên tắc và kỹ thuật tình báo đã được tổng kết lại trong những thư tịch quân sự mà tiêu biểu là Binh thư yếu lược của Hưng đạo Đại vương Trần Quốc Tuấn (thế kỷ XIII).

Đến đời nhà Hồ, bên cạnh việc tiến hành do thám trên đất địch, mua chuộc và sử dụng quân dân của địch, Hồ Quý Ly đã rất cảnh giác đối phó với những tổ chức tình báo của nhà Minh đưa sang ta.

Tháng 10 năm Quý Mùi (1403), Hán Thương sai bắt hết các thân thuộc của Nguyễn Toán, Từ Cá, Nguyễn Tông Đạo, Ngô Tín đem giết đi vì số người này là những người bị hoạn mà Đại Việt đã nộp cho nhà Minh theo yêu cầu cống nạp trước đó (*) . Sau đó, nhà Minh đã tuyển dụng những người bị hoạn này làm tay sai và đưa trở về nước làm nội quan với tư cách là sứ giả của nhà Minh. Thời gian ở sứ, họ một mặt lo thu thập, cung cấp tin tức tình báo cho giặc mặt khác bí mật báo cho người nhà và thân thuộc nếu có quân phương Bắc sang thì dựng cờ vàng, ghi là thân thuộc của viên nội quan họ tên là mỗ..tất cả sẽ không bị giết hại (*) .

Năm sau, 1404, sứ giả nhà Minh là Lý Kỳ sang sứ Đại Việt, đòi được đến Tây Đô song thực chất là để dò la tin tức. Lúc ở nhà công quán, Lý Kỳ bí mật đi điều tra, xem xét tình thế... Khi Kỳ trở về nước, Quý Ly sợ bị tiết lộ sự tình, liền sai Phạm Lục Tài đuổi theo giết, nhưng khi đến Lạng Sơn thì Kỳ đã vừa ra khỏi cửa ải (*) .

Đối với những kẻ có liên quan đến Việt gian thì cũng đều bị xử lý rất nặng như trường hợp của Lưu Quang Đình khi đi sứ sang Trung Quốc, đã tìm cách liên lạc móc nối với Trần Thiêm Bình, Đình đã bị bắt và đem chém (*) .

Cũng trong năm ấy (1404), Hồ Tùng vốn là viên tướng cũ của Quý Ly, cùng với một người Chiêm đã đầu hàng ta là Chế Sơn Nô âm mưu làm phản, ngầm liên kết với người Chiêm Thành để trao đổi tin tức cho nhau. Việc bị tiết lộ, Hồ Tùng bị xử tử (*) .

IV. CHẤN CHỈNH QUÂN ĐỘI, CỦNG CỐ QUỐC PHÒNG

Được giao phó quyền lực, bản thân Hồ Quý Ly đã phải đối phó với hai yêu cầu khẩn thiết trước mắt: một mặt đàn áp, khống chế các thế lực chống đối trong nước, tạo điều kiện ổn định để tiến hành cải cách; một mặt tăng cường sức mạnh Nhà nước để chống lại kẻ thù xâm lược bên ngoài từ cả hai phía bắc, nam, bảo vệ độc lập dân tộc. Phát xuất từ yêu cầu đó, Hồ Quý Ly đã nỗ lực bằng mọi cách xây dựng cho được một quân đội hùng mạnh để trước hết là bảo vệ, làm hậu thuẫn cho thế lực của bản thân mình và từ đó làm chỗ dựa vững chắc cho các chính sách đối nội và đối ngoại của vương triều.

Công cuộc cải cách quân sự của Hồ Quý Ly và nhà Hồ đã thực hiện tập trung trên các mặt sau đây:

1. Chỉnh đổn tổ chức quân đội

Bước vào quan trường được hai năm, từ chức Khu mật viện đại sứ (tháng 5 năm Tân Hợi - 1371) rồi được gia phong Trung tuyên quốc Thượng hầu (tháng 9 năm Tân Hợi - 1371), đến tháng 8 năm Quý Sửu (1373), Quý Ly bắt tay ngay vào việc cải cách quân sự, đầu tiên là việc đóng sửa chiến thuyền (tháng 8 năm Quý Sửu - 1373), rồi tuyển bổ sung quân và xếp đặt lại tổ chức quân đội (tháng 8 năm Giáp Dẩn - 1374).

– Trước kia, quân túc vệ được chia làm quân Tứ Thiên, Tứ Thánh, Tứ Thần, đến tháng 8 năm Giáp Dần (1374) đặt thêm các quân Uy Tiệp, Bảo Tiệp, Long Dực, Ý Yên, Thiên Trường, Bắc Giang, Điện Hậu, Long Tiệp. Tuyển những dân đinh khỏe mạnh, phân ra 3 hạng sung vào các quân hiệu ấy.

Quân túc vệ thì xăm 3 chữ đen lên trán. Quân thị vệ thì xăm trán (?). Các quân Hoa Ngạch, Tả Ban, Hữu Ban và quân Thanh Hóa, Nghệ An, Hóa châu, Thuận châu, Lâm Bình đều đặt quân hiệu riêng, có Đại đội trưởng, Đại đội phó làm tướng hiệu (*) .

– Đến tháng Giêng năm sau (Ất Mão - 1375), Hồ Quý Ly lại được thăng làm Tham mưu quân sự. Lúc này thì vai trò của Quý Ly bắt đầu nổi bật trong giới lãnh đạo quân sự nhà Trần với quyền tuyển bồ quân tướng. Nhờ đó chủ trương của ông được thể hiện mạnh bạo hơn trong tổ chức quân đội nhà Trần “chọn các quan viên biết luyện tập võ nghệ, thông hiểu thao lược thì không cứ là người tôn thất, đều cho làm tướng coi quân” (*) . Đây là chủ trương mới trong việc thực hiện sự bình đẳng trong điều kiện phấn đấu tiến thân của những người trong họ nhà vua và các quan viên khác. Riêng đối với Hồ Quý Ly, có lẽ đây là cơ hội thuận lợi để ông có thể đưa người của mình vào các vị trí chỉ huy quân đội, thay dần vai trò của các tôn thất nhà Trần. Như vậy, chỉ sau gần 4 năm xuất hiện trên chính trường, Quý Ly đã có điều kiện thuận lợi để cải cách quân đội về tổ chức và nhân sự theo ý mình.

Tháng 8 năm ấy (Ất Mão - 1375), Quý Ly bắt tay vào việc cải cách quân đội một cách cơ bản trên phạm vi rộng rãi hơn: làm sổ quân, thải bớt người già yếu, lấy người mạnh khỏe bổ sung vào; những người làm thuê ở các hộ, các xá (tức những người không có tên trong sổ hộ tịch, đi làm thuê, hợp thành các hộ, các xá) đều phải sung vào quân ngũ (*) .

Tháng Giêng và tháng 10 năm Mậu Ngọ (1378), những người khỏe mạnh, am hiểu võ nghệ được tuyển làm vệ sĩ cai quản các quân. Trần Tông Ngoạn quản lĩnh quân Thiên Đinh, Bùi Hấp quản lĩnh quân Thiên Ưy, Hoàng Phụng Thế quản lĩnh quân Thánh Dực, Trần Thế Đăng quản lĩnh quân Thần Dực, Bùi Bá Ngang quản lĩnh quân Thần Sách, Nguyễn Kim Ngao quản lĩnh quân Thần Vũ, Trần Trung Hiếu quản lĩnh quân Bảo Tiệp, Trần Bang quản lĩnh quân Long Tiệp, Lê Mật Ôn quản lĩnh quân Hoa Ngạch, Đỗ Dã Kha quản linh quân Thị Vệ, Nguyễn Tiểu Luật quản lĩnh quân Thiên Trường, Nguyễn Bát Sách quản lĩnh quân Thiết Sang, Nguyễn Vân Nhí quản lĩnh quân Thiết Giáp, Nguyễn Hô và Lê Lặc quản lĩnh quân Thiết Liêm, Nguyễn Thánh Du quản lĩnh quân Thiết, Trần Quốc Hưng quản lĩnh quân Ô Đồ (*) .

– Công cuộc cải cách quân đội được thực hiện triệt để khi quyền chỉ huy tối cao quân đội được chuyển sang tay họ Hồ. Để tránh bất công trong việc tuyển quân cũng là để tăng cường nguồn nhân lực sung vào quân đội, tháng 4 năm Tân Tỵ (1401), vua Hồ ra lệnh kiểm tra dân số toàn quốc bằng cách lập lại sổ hộ tịch trong cả nước, ghi tên hết vào sổ những nhân khẩu từ 2 tuổi trở lên, để lấy số đó làm thực số, làm cơ sở tuyển quân. Khi làm sổ xong, con số những dân đinh từ 15 đến 60 tuổi được phát hiện tăng gấp bội so với trước. Công việc tuyển quân thuận lợi, số quân tuyển được càng nhiều... (*)

Năm 1404, đời vua Hán Thương, định lại quân hiệu, chia quân tả và hữu, dùng tên cầm thú để đặt quân hiệu (như Phượng Hoàng, Kỳ Lân...) chọn các quan văn võ người tôn thất (cùng họ ) để quản lĩnh (*) .

Tháng 9 năm Ất Dậu (1405), quy định lại tổ chức biên chế quân đội. Quân đội chia ra thành nhiều quân. Mỗi quân gồm nhiều vệ. Có 4 loại binh chủng: cấm quân, đại quân, cấm vệ quân (vệ quân) và thủy quân.

Cấm quân có 20 vệ, gồm 12 vệ quân Nam ban và Bắc ban và 8 vệ quân Điện hậu Đông và Tây. Mỗi vệ có 18 đội; mỗi đội có 18 người. Tổng cộng số quân trong 12 vệ Nam, Bắc là 4.320 người, trong 8 vệ Đông, Tây là 2.820 người (*) .

Đại quân là lực lượng chủ lực quân, gồm có cả thảy 30 đội (540 người); Trung quân có 20 đội (360 người); Doanh có 15 đội; Đoàn có 10 đội.

Cấm vệ quân (Vệ quân) phụ trách trong hoàng cung, có 5 đội cấm vệ đô.

Tất cả đặt dưới sự thống lĩnh của một Đại tướng quân (*) .

2. Tăng cường lực lượng thủy quân

Cho đến thời nhà Hồ, quân thủy nước ta vẫn chưa tách hẳn thành một bộ phận độc lập so với quân bộ. Điều đó phụ thuộc rất nhiều vào địa hình và truyền thống tác chiến của quân đội nói chung (*) .

Để tăng cường và chuyên hóa tổ chức lực lượng thủy quân, năm 1404, Hồ Quý Ly sai đóng những chiến thuyền lớn theo kiểu mới, gọi là thuyền Cổ Lâu (“Cổ Lâu thuyền tải lương”). Tuy tiếng gọi là thuyền chuyên chở lương thực nhưng thực chất là thuyên chiến, đóng bằng sắt, bên trên có đường sàn đi lại, bên dưới hai người chèo một mái chèo, rất tiện cho việc chiến đấu. Lúc xông trận, một toán quân cứ việc chèo để tiến, thoái; còn một toán khác chuyên lo chiến đấu.

Việc phòng ngự trên mặt thủy cũng được tiến hành ráo riết. Ở những cửa biển và những chỗ hiểm yếu trong sông lớn, vua Hồ sai lấy gỗ đóng cọc để ngăn tàu bè của giặc.

3. Cải tiến vũ khí, trang bị

Hồ Quý Ly rất quan tâm đến việc cải tiến vũ khí. Tháng 6 năm Ất Dậu (1405), tại Tây Đô (Thanh Hóa), vua Hán Thương cho đặt 4 kho chứa vũ khí và lập công binh xưởng; không kể là quân hay dân, hễ ai giỏi nghề thì được tuyển nhận vào làm việc chế tạo gươm, súng.

Vũ khí trang bị thời kỳ này đã đạt tới một bước tiến mới về kỹ thuật quân sự. Nhà Hồ đã góp công cải cách quan trọng về quân sự trong việc chế tạo ra các loại súng và hỏa pháo, đặc biệt là súng Thần cơ (còn gọi là Thần cơ sang pháo) - một loại súng bắn đạn có thuốc cháy do người con trai trưởng của Hồ Quý Ly là Hồ Nguyên Trừng chế tạo.

Hồ Nguyên Trừng đã cải tiến những kỹ thuật chế súng sẵn có, sáng tạo ra phương pháp chế súng Thần cơ, phương pháp này đã được Trung Quốc học tập và áp dụng rộng rãi. Vì thời đầu nhà Minh không biết đúc súng, đó là sự thật mà thiên Binh chế khí trong Minh sử đã thừa nhận. Nguyên Trừng đã truyền kỹ thuật đúc súng nước ta vào Trung Quốc. Minh sử viết: “Đến đời vua Thành Tổ nhà Minh (1403 - 1424) đánh nước Giao Chỉ, học được phép đúc Thần cơ sang pháo, lúc bấy giờ mới đặt ra đội súng Thần cơ. Phép chế súng, dùng đồng đỏ, một nửa là đồng còn sống (đồng đỏ), một nửa là đồng đã nấu lẫn lộn (đồng thau). Cũng có thể dùng sắt mà đúc... Súng Thần cơ có nhiều cỡ, lớn nhỏ không đều, lớn thì kéo bằng xe (sau gọi là pháo hay súng thần công), nhỏ thì dùng giá gỗ hay vác lên vai (sau gọi là điều thương hay súng hỏa mai), súng lớn lợi cho việc chiếm giữ (súng cộng đồng), súng nhỏ lợi cho việc chiến đấu (súng cá nhân), tùy tiện mà dùng”.

Về việc sử dụng súng Thần cơ, Minh sử lại viết: “Thời Vĩnh Lạc, vua Minh thân chinh Mạc bắc (đánh Mông Cổ). Khi giặc kéo đến, bèn đem Thần công của nước An Nam ra đánh, giặc mới rút lui”. Sách Thông ký cũng viết: “Lúc đầu, quốc triều (chỉ nhà Minh) chỉ có 5 quân doanh, ấy là Trung, Tiền, Tả, Hữu, Hậu. Năm Vĩnh Lạc xưa (1403 - 1424) lấy 3.000 quân kỵ rợ Hồ đặt dưới lá cờ rồng, lập ra Tam thiên doanh. Sau khi Nam phạt, học được phép chế thần công bắn bằng tên lửa thì lập ra Thần cơ doanh” (*) .

Cuối thế kỷ XIV đầu thế kỷ XV, trong các cuộc chiến tranh trên thế giới, quân sĩ vẫn còn sử dụng vũ khí cá nhân bằng gươm giáo. Giá mà họ Hồ giữ ngôi được một thời gian lâu dài hơn để có thời gian chỉnh đốn mọi việc trong nước, hoàn thiện và chế tạo thêm được nhiều súng Thần cơ với đạn dược đầy đủ, thì quân đội nước ta thời bấy giờ thật hùng mạnh, có thể vào bậc nhất so với các nước trong khu vực Đông Á...

Trong các cuộc chiến tranh với Chiêm Thành, quân ta cũng đã thu được khá nhiều voi chiến, vì vậy trong quân đội nhà Hồ đã có được một bộ phận tượng binh đáng kể. Thủy binh được trang bị thêm nhiều chiến thuyền lớn, trong đó có loại thuyền Cổ lâu như nói trên...

4. Xây dựng hệ thống phòng thủ và chuyển vận

Trước khi giặc Minh xâm lược nước ta, họ Hồ đã chuẩn bị sẵn một hệ thống phòng thủ đất nước.

Việc xây thành Tây Giai (tức Tây Đô) ở mạn rừng núi Thanh Hóa với quy mô rộng lớn nhằm thủ hiểm và phòng ngự khi Đông Đô (tức Thăng Long) thất thủ. Bên cạnh đó, tháng 9 năm Ất Dậu (1405), nhà Hồ cho xây đắp thành Đa Bang kiên cố ở Cổ Pháp (Sơn Tây) để che chở cho Thăng Long và cả một hệ thống công trình phòng thủ có quy mô lớn, dài gần 400 km, chạy suốt từ núi Tản Viên, men theo sông Đà, sông Hồng, sông Luộc, đến cửa sông Thái Bình. Đó là một hệ thống chướng ngại vật gồm những bãi cọc, những xích sắt cùng với các đồn quân tại khắp các cửa sông, cửa nguồn, quan ải... Nhà Hồ đã kế thừa những kinh nghiệm xây dựng các trận địa phòng thủ của tổ tiên các thời trước. Có thể nói, đối với lịch sử quân sự, đây là thời kỳ xây dựng được một công trình phòng ngự có quy mô lớn nhất, trên một chính diện rộng, chiều sâu lớn và đồ sộ gấp nhiều lần phòng tuyến Như Nguyệt thời Lý chống Tống (*) .

Vì quan tâm củng cố các tuyến phòng thủ nên vua Hồ thường đích thân di hành đến tận nơi quan sát từng địa thế hiểm yếu, có chuyến đi kéo dài nhiều ngày. Tháng 7 năm Ất Dậu (1405), Quý Ly và Hán Thương đi tuần tra, xem xét núi sông và các cửa biển, ở kinh lộ, vì muốn biết khắp nơi, nơi nào hiểm trở, nơi nào bình thường. Mãi đến tháng 8 mới trở về (*) .

Bên cạnh việc xây dựng các công trình quân sự cũng phải kể đến nỗ lực xây dựng các trục lộ giao thông, kênh đào. Những công trình này vừa mang tính chất kinh tế vừa mang tính chất quân sự. Tháng 7 năm Quý Mùi (1403), vua Hán Thương thân chinh cầm 20 vạn quân thủy bộ tiến đánh Chiêm Thành. Thủy quân theo sông Lỗi Giang ra biển cả. Đại quân theo đường thiên lý nối từ kinh thành đến tận Tân Bình, Thuận Hóa, dọc đường có sẵn các trạm và phố buôn bán lập từ tháng 3 năm Nhâm Ngọ (1402).

Lúc thời bình, nhà Hồ đã phòng bị như vậy, đến khi quân Minh bắt đầu xâm lược nước ta (tháng 4 năm Ất Dậu - 1405) thì biện pháp phòng thủ càng được triển khai quyết liệt hơn: hạ lệnh cho các người có phẩm tước chiêu mộ những kẻ trốn tránh, phiêu bạt, đặt chức Thiên hộ, Bách hộ để cai quản. Lại sai đóng cọc gỗ ở bờ phía nam sông Nhị Hà, từ thành Đa Bang đến Lỗi Giang và từ Lạng Châu đến Trú Giang nối tiếp nhau suốt hơn 700 dặm. Ở các sông và cửa biển đều hạ cây xuống để ngăn cản; đồng thời hạ lệnh cho dân Bắc Giang và Tam Đái tích trữ lương thực, vượt sông sang dựng nhà cửa ở nơi đất hoang rậm rạp bên bờ phía nam sông Cái, để chuẩn bị di cư đến đó (*) .

5. Tăng cường quân kỷ nghiêm ngặt

Quý Ly là người rất nghiêm đối với những kẻ vi phạm luật pháp và thượng lệnh. Ai ra trận mà nhút nhát, sợ giặc thì bị chém; vợ con, điền sản bị tịch thu sung công (*) .

Tháng 5 năm Canh Thân (1380), trong trận đánh ở sông Ngu Giang với Chiêm Thành, Quý Lỵ sai Thần Vũ Tướng quân Nguyễn Kim Ngao và Thị vệ Tướng quân Đỗ Dã Kha tiến quân ra đánh. Kim Ngao thấy thế giặc mạnh bèn quay thuyền trở lại để tránh giặc. Quý Ly liền ra lệnh chém đầu Kim Ngao để giữ nghiêm quân luật trước ba quân. Các quân đánh trống reo hò, tiến lên phía trước. Vua Chiêm là Chế Bồng Nga thua trận, phải trốn về. Trận ấy quân ta thắng Chế Bổng Nga và từ đó Quý Ly nắm giữ chức Nguyên Nhung hành Hải Tây Đô thống chế (*) .

Tháng 2 năm Tần Mùi (1391), Quý Ly nhận thấy đất Hóa châu tiếp giáp với Chiêm Thành, nên đem quân đi tuần đất ấy, xét định hàng ngũ quân lính, sửa sang xây đựng thành hào, rồi sai Hoàng Phụng Thế đem quân đi tuần đến địa giới Chiêm Thành. Quân Chiêm mai phục để chờ đợi, quân Phụng Thế tự tan vỡ, Phụng Thế bị giặc bắt... 30 người Đại đội phó dưới quyền của Phụng Thế đều bị Quý Ly đem chém hết (*) .

Năm 1401, Hồ Tùng đi đánh Chiêm Thành, nghe lời Đinh Đại Trung (tướng cũ của Chiêm Thành tên Chế Đa Biệt) cho quân đội đi đường núi, tách xa hẳn quân thủy, gặp khi nước lũ, tướng sĩ ở giữa đường hết lương thực đến 3 ngày... Khi quân trở về, Quý Ly buộc tội Tùng vì đi đường hiểm, làm trái mất quân cơ, đáng lẽ phải tội chết chém, song vì Tùng có công lao hồi Hán Thương còn ở ngôi Thái tử, nên được tha tội chết, nhưng phải đày làm lính (*) .

Trong trận đánh Chiêm Thành năm 1403, Đỗ Nguyên Thác vì trái lệnh Đô tướng, tuy được tha tội chết song vẫn phải bị đổ làm lính (*) .

Nhìn chung, với việc cải cách tổ chức binh bị, tăng cường quân số, xây dựng lực lượng thủy quân, bộ quân, chế tạo vũ khí, chuẩn bị tuyến phòng ngự và tăng cường quân kỷ... họ Hồ đã tạo được dưới tay mình một lực lượng quân sự hùng hậu. Quân đội của Hồ Quý Ly là một lực lượng quân sự đông đảo nhất, có quy củ nhất, vũ khí hiện đại nhất từ trước cho đến bấy giờ (*) .

Kết quả thực tế do cải cách quân đội đem lại thể hiện rất rõ qua xu thế chiến thắng quân Chiêm vào những năm cuối thế kỷ XIV đầu thế kỷ XV. Dưới sự thống lĩnh của Quý Ly, tháng 5 năm Canh Thân (1380), quân Việt đã đại thắng quân Chiêm ở Ngu Giang, Chế Bồng Nga phải bỏ chạy. Rồi 10 năm sau đó (năm Canh Ngọ - 1390), Chế Bồng Nga phải bỏ mạng dưới hàng loạt súng cộng đồng của Việt quân ở sông Hoàng Giang. Đại Việt sử ký toàn thư chép: “Canh Ngọ, Quang Thái năm thứ ba (1390), mùa xuân, tháng Giêng, ngày 23, Đô tướng Trần Khát Chân đại thắng quân Chiêm Thành ở Hải Triều, giết được chúa của nó là Chế Bồng Nga. Khi ấy, Bồng Nga ở cùng với Nguyên Diệu dẫn hơn 100 thuyền chiến đến quan sát tình thế của quan quân (...), Khát Chân liền ra lệnh cho các cây súng (nguyên văn: “hỏa súng”, chỉ loại súng có nòng kim loại và có nhồi thuốc cháy) nhất tề nhả đạn, bắn trúng thuyền Bồng Nga, xuyên suốt ván thuyền, Bồng Nga chết, người trong thuyền ồn ào kêu khóc” (*) .

Từ đó quân Chiêm mất hết nhuệ khí, không dám khinh thường quân Việt như trước nữa.

Cải cách quân sự, củng cố quốc phòng là mối ưu tư thường xuyên to lớn nhất của Hồ Quý Ly. Ông thường nói với các quan: “Làm thế nào có được 100 vạn quân để chống giặc Bắc” (*) . Có thể nói cải cách quân sự là nỗ lực quan trọng nhất trong các chính sách cải cách của Hồ Quý Ly và nhà Hồ. Tuy nhiên sau cùng, cũng chính sự thất bại trên lĩnh vực quân sự trước quân xâm lược nhà Minh đã phá vỡ toàn bộ công cuộc cải cách của Hồ Quý Ly, dẫn đến sụp đổ nhanh chóng của vương triều Hồ. Sự thất bại ấy không phải vì quân lực yếu hèn mà chính vì trong lòng cuộc cải cách của họ Hồ đã tồn tại một số hạn chế mang tính quyết định, sẽ phân tích rõ ở Chương III.