← Quay lại trang sách

MỤC 4 CẢI CÁCH KINH TẾ

Xã hội Đại Việt thời cuối nhà Trần lâm vào tình trạng khủng hoảng trầm trọng. Chính quyền trung ương hoàn toàn bất lực trước sự phát triển tự nhiên của sở hữu tư nhân. Bắt đầu từ khi nhận chức Phụ chính Thái sư, năm 1395 Hồ Quý Ly tiến hành hàng loạt biện pháp cải cách nhằm tăng cường sức mạnh của chính quyền trung ương và cải thiện tình hình mọi mặt của đất nước. Cùng với các cải cách khác, họ Hồ nỗ lực cải cách nền kinh tế - tài chính quốc gia bằng nhiều biện pháp tiến hành song song với nhau.

I. CẢI CÁCH RUỘNG ĐẤT

Có thể nói chính sách quan trọng nhất trong cải cách kinh tế của Hồ Quý Ly là phép hạn danh điền ban hành vào tháng 6 năm Đinh Sửu (1397). Sử cũ ghi tóm tắt như sau: “Trừ bậc Đại vương và Trưởng công chúa thì số ruộng không hạn chế, còn thứ dân thì không được quá 10 mẫu (*) . Người nào có ruộng quá mức hạn định thì phải nộp cho Nhà nước. Người có nhiêu ruộng, nếu có tội, thì được phép đem ruộng chuộc tội; bị biếm chức hay mất chức cũng được làm như vậy” (*) .

1. Thực hiện chính sách hạn điền

Về lý do dẫn đến việc thực hiện chính sách hạn điền, Đại Việt sử ký toàn thư nêu: “Trước kia các nhà tôn thất thường sai nô tỳ của mình đắp đê bồi ở bờ biển để ngăn nước mặn, sau 2, 3 năm, khai khẩn thành ruộng, cho họ lấy lẫn nhau và ở ngay đấy, lập ra nhiều ruộng đất tư trang, cho nên có lệnh này” (*) .

Nội dung sử liệu nói trên cho thấy trong số các đối tượng bị điều chỉnh theo chính sách hạn điền, đã miễn trừ các Đại vương và Trưởng công chúa là thành phần vốn không có nhiều vào thời này (*) , trong đó có Hồ Quý Ly mới được phong Đại vương từ 2 năm trước (1395). Trong khi đó, tuyệt đại bộ phận địa chủ và toàn bộ nông dân có sở hữu ruộng tư từ 10 mẫu trở xuống cũng đều không bị chính sách hạn điền đả động đến. Vậy thì còn lại đối tượng bị phép hạn điền điều chỉnh là thành phần các chủ sở hữu có trên 10 mẫu ruộng mà địa vị xã hội của bản thân họ chưa vươn tới bậc Đại vương hay Trưởng công chúa. Chủ yếu đó là tầng lớp quý tộc nhà Trần đang là chủ các điền trang, thái ấp vốn được xây dựng từ trong lòng chế độ kinh tế nhà Trần. Theo Chiếu ban hành năm 1266 đời Trần Thánh Tông thì diện được phép mở điền trang bao gồm các vương hầu, công chúa, phò mã, cung tẩn... tức là toàn bộ giới quý tộc cung đình nhà Trần.

Như vậy, chính sách hạn điền chủ yếu là nhằm phá vỡ thế lực kinh tế - cũng là thế lực chính trị của tầng lớp quý tộc nhà Trần, để chuyển quyền sở hữu đất đai từ tay quý tộc nhà Trần sang tay Nhà nước. Đây là lần đầu tiên trong lịch sử nước ta, Nhà nước công khai dùng biện pháp truất hữu can thiệp trực tiếp vào quyền sở hữu cá nhân, đặc biệt là đối với ruộng đất tư của tầng lớp quý tộc đang cầm quyền. Thực hiện chính sách này, số ruộng đất tư bị truất hữu, sung làm quan điền chiếm một diện tích khá quan trọng.

2. Công cuộc Đạc điền toàn quốc hỗ trợ chính sách hạn điền

Chính sách hạn điền được ban hành vào tháng 6 năm Đinh Sửu (1397), đến năm sau thì được tổ chức thực hiện một cách triệt để và quyết liệt bằng việc Nhà nước hạ lệnh đo đạc ruộng đất của dân. Người nào có ruộng đều phải cung khai báo cáo đầy đủ số diện tích ruộng của mình, chủ ruộng phải viết rõ họ tên trên tấm bảng, cắm ngay ở thửa ruộng của mình. Các quan ở địa phương lộ, phủ, châu, huyện phải cùng nhau phối hợp đến tại chỗ khám xét, đo đạc để lập sổ sách địa bộ. Ruộng nào không có người khai báo, cam kết thì sung làm ruộng công của Nhà nước (quan điền). Công cuộc đạc điền này theo kế hoạch được hoàn tất trong vòng 5 năm, tới năm 1403 thì xong.

Lúc ấy, Hành khiển Hà Đức Lân nói kín với người nhà rằng: “Đặt ra phép này chỉ để cướp ruộng của dân thôi”. Quý Ly nghe được liền giáng Lân xuống làm Hộ bộ Thượng thư (*) . Thượng thư bộ Hộ lại là chức quan cao cấp nhất phụ trách việc quản lý và đo đạc ruộng đất (!). Năm sau (1399), Thượng thư Hà Đức Lân tham gia cuộc chính biến mưu giết Quý Ly ở Đốn Sơn, bị xử tử cùng với hơn 370 người...

Tuy nhiên, cũng phải thấy rằng công cuộc đạc điền tiến hành trên quy mô cả nước như vậy trước đó chưa có triều đại nào nghĩ tới. Biện pháp này có tầm quan trọng, mang lại lợi ích thiết thực đối với một nước nông nghiệp, nhờ đó Nhà nước biết rõ số diện tích ruộng đất trong nước, lập được đầy đủ danh sách ruộng đất và các người chủ sở hữu một cách chính xác. Trên cơ sở đó, Nhà nước bảo đảm thực hiện chính sách thuế một cách công bằng, không còn ai ẩn lậu được nữa. Ngoài ra, ruộng đất có đăng ký vào sổ bộ đàng hoàng thì quyền tư hữu đối với đất đai của nhân dân được bảo đảm, mọi sự trao đổi, chuyển dịch đất đai trong nhân dân, việc để lại di sản thừa kế cho con cháu có cơ sở tiến hành một cách minh bạch, tạo điều kiện thuận lợi cho chính quyền trong việc giải quyết những tranh chấp nếu có. Và đó cũng là cơ sở chính xác cho Nhà nước khi cần đề ra một chủ trương, chính sách mới về ruộng đất... Hơn nữa, qua việc đo đạc, thống kê quy củ ấy, chắc chắn cũng là một dịp để phát hiện ra những trường hợp tiêu cực trong việc chiếm hữu, sử dụng ruộng đất mà từ trong cơ chế quản lý qua các triều đại trước có thể đã nảy sinh ra.

II. DI DÂN, KHAI KHẨN VÙNG ĐẤT MỚI

Nhìn lại lịch sử mở mang bờ cõi về phương nam thì thấy suốt thời gian ngót 400 năm (từ 1069 đời Lý Thánh Tông đến 1400 đời Trần Thiếu Đế), Nhà nước Đại Việt đã thôn tính trọn 5 xứ của nước Chiêm.

Năm 1069, vua Lý Thánh Tông đánh Chiêm Thành, bắt được vua Chiêm là Chế Củ (Rudravarman III). Vua Chiêm dâng 3 châu Địa Lý, Ma Linh và Bố Chính; vua Lý đổi châu Địa Lý làm châu Lâm Bình, châu Ma Linh làm châu Minh Linh, giữ châu Bổ Chính nguyên tên cũ, rồi chiêu mộ dân đến đấy ở (*) . Đó là lần đầu tiên triều đình Đại Việt tổ chức di dân vào đất Chiêm Thành... Năm 1103, vua Chiêm là Chế Ma Na (Jaya Indravarman II) đánh lấy lại đất 3 châu ẫy. Năm sau (1104), vua Lý Nhân Tông sai Lý Thường Kiệt sang đánh Chiêm Thành, Chế Ma Na sợ, phải dâng trả lại đất 3 châu đã chiếm (*) .

Năm 1307, sau khi tiếp nhận hai châu Ô và Lý, đổi thành châu Thuận và châu Hóa, vua Trần Anh Tông sai Hành khiển Đoàn Nhữ Hài đến vỗ yên dân hai châu đó. Người các thôn La Thủy, Tác Hồng, Đà Bổng không chịu theo. Vua sai Nhữ Hài đến tuyên dụ đức ý của nhà vua, rồi chọn người Chiêm trao cho quan tước, cấp ruộng đất, miễn tô thuế 3 năm để vỗ về (*) ... Năm 1313, cử Đỗ Thiên Hư làm Kinh lược sứ cả đất Nghệ An và đất Lâm Bình, mọi kế hoạch về biên giới vua Trần (Minh Tông) đểu ủy thác cho Thiên Hư lo liệu (*) . Năm 1353, vua Trần Minh Tông sai Trương Hán Siêu trấn thủ Hóa châu (*) . Ở đất này, mãi đến năm 1361 mới đắp thành Hóa Châu, sau Hồ Quý Ly mới sửa sang lại...

Xem như vậy thì lúc đầu nhà Trần tiếp nhận đất Chiêm Thành, chủ trương di dân chưa thấy được rõ nét. Đến đời nhà Hồ, vua Việt mới thực hiện lại chính sách di dân sang vùng đất mới. Tháng 3 năm Nhâm Ngọ (1402), Hồ Hán Thương cho đắp con đường thiên lý từ Tây Đô (Thanh Hóa) chạy đến Hóa châu (Thừa Thiên - Huế) (*) . Năm 1404, vua Hán Thương sai đào Liên cảng là con sông vận chuyển từ Tân Bình đến giáp giới Thuận Hóa, để tiện lợi cho việc chuyên chở và quân sự, nhưng vì lúc ấy bùn cát cứ nổi đùn lên nên công trình này không thành công, phải bỏ (*) ...

Như vậy, đủ thấy tầm vĩ đại về sự khai khẩn quốc thổ của họ đến mức nào; chỉ 7 năm dưới thời bờ cõi mở rộng thêm bằng quy mô của suốt 3 thế kỷ dưới thời Lý, thời Trần (*) , cùng với việc đẩy mạnh công cuộc khai thác về kinh tế.

Đối với đất Tháng Hoa vua mới thu nhận được của Chiêm Thành tháng 2 năm Quý Mùi (1403), vua Hán Thương đem người ở các lộ có của mà không có ruộng di dân đến khẩn hoang lập nghiệp. Dân mới đến được biên chế cùng với dân địa phương thành quân ngũ. Quan lại ở các lộ, phủ, châu, huyện phải chia cấp đất cho họ ở. Người châu nào thì thích chữ tên châu ấy (như: Thăng châu, Nghĩa châu v.v...) vào hai cánh tay để làm dấu hiệu. Đến năm sau cho họ đưa vợ con đi theo (*) .

Để tăng cường sức lao động cho vùng đất mới, vua ra lệnh các lộ chiếu theo sổ đinh, điều tra nắm chính xác con số những người có sức lao động mà không có ruộng, không có việc làm, tổ chức họ thành những “đội cùng nhân” để tạo công ăn việc làm cho họ, mà cụ thể là vận động đưa họ đến vùng đất mới để tham gia vào việc khai khẩn nông nghiệp. Vua Hán Thương lại mộ dân các lộ nộp trâu để cấp cho dân mới đến ở Thăng Hoa làm phương tiện sản xuất; người hiến nộp trâu bò để Nhà nước cấp phát lại cho di dân, yểm trợ vùng kinh tế mới đều được ban phẩm tước (*) .

Vì là vùng đất hoang dã, mới bắt đầu khai khẩn nên trong những năm đầu, dân di cư chưa thu được hoa lợi, chưa đủ sống. Vua ra lệnh cho các lộ chở gạo tiếp tế đến cho các châu ở Thăng Hoa (*) .

III. MỞ RỘNG HỆ THỐNG GIAO THÔNG, THỦY LỢI

Xây dựng cơ sở hạ tầng với việc xây mới những công trình giao thông là công việc Hồ Quý Ly rất quan tâm. Bởi việc xây đắp các đường giao thông ngoài lợi ích quân sự còn mang tính chất kinh tế hết sức quan trọng.

Tháng 3 năm Nhâm Ngọ (1402), vua Hán Thương sai đắp sửa con đường từ thành Tây Đô đến Hóa châu, tức là đắp con đường từ Thanh Hóa cho đến Huế bây giờ. Dọc đường đặt phố xá và trạm truyền thư, gọi là đường thiên lý (*) . Nhờ con đường này mà dân xứ Bắc có thể di cư, lập nghiệp về miền Nam. Trước đó, dọc rừng rậm và đồng hoang cũng có lệnh dựng các quán xá từ cẩu Đại Tân đến bến Đàm Xá để tiện cho quân dân qua lại nghỉ ngơi (*) .

Bên cạnh đó, công việc thủy lợi, đắp đê, đào kênh cũng được nhà Hồ đặc biệt coi trọng. Các công trình thủy lợi, sửa đắp đê điều trực tiếp góp phần vào việc để phòng lũ lụt, khuyến nông, phát triển nông nghiệp và thương mại...

Ở các địa phương có đê, noi theo quy chế nhà Trần, nhà Hồ đặt các chức quan (Hà đê Chánh sứ, Phó sứ...) coi việc đê sông. Ngoài sức dân, nhà Hồ đã huy động quân lính và những can phạm đang thụ hình sung vào việc đắp đê, đào kênh. Việc huy động binh lính và người tù tội vào công tác đê điều, thủy lợi cũng có ý nghĩa đặc biệt trong việc giải quyết khó khăn về lao động trước một khối lượng công việc quá lớn mà các làng xã không thể tự tổ chức với nhau để thực hiện. Từ tháng 10 năm Kỷ Mão (1399), sau khi đặt Sở tuần kiểm và kéo dây chão to giữa sông Đại Lại, Quý Ly truyền cho chuyển những người có tội bị đày đi (lưu hình) thành những đội lính khơi mương, tập trung đi khơi các kênh Ví, kênh Trầm, kênh Hào, đến tận cửa biển Hà Hoa để tiện cho tàu bè đi lại (*) . Tập trung nhất là các công trình thực hiện vào năm 1404. Để cho việc chuyển vận được thuận lợi, Hồ Quý Ly cho khai thông Liên cảng từ Tân Bình đến giáp giới Thuận Hóa (nay thuộc tỉnh Quảng Bình), song vì bùn cát cứ đùn lên nên không khai được, phải bỏ dở (*) . Sau đó, cửa Eo ở Hóa châu (tức cửa Thuận An ở tỉnh Thừa Thiên - Huế) bị vỡ. Vua Hán Thương sai lấy quân lính ở kinh thành đi đắp lại... Mùa xuân, tháng 2 năm Giáp Thân (1404), An phủ sứ lộ Tân Hưng kiêm Đông Đô phán là Trần Quốc Kiệt đã tổ chức đắp thành công con đê ngăn nước mặn, tiện việc cày cấy của dân, đã được vua Hán Thương thưởng tước 1 tư (*) .

Thời gian trị vì của nhà Hồ đã ngắn ngủi mà thường xuyên còn phải đối phó với nhiều yêu cầu cấp bách như việc cứu đói, việc chuẩn bị chiến đấu chống âm mưu xâm lược của nhà Minh phương Bắc, nên nói chung các công trình công chính, đê điều, thủy lợi chưa có điều kiện tập trung nỗ lực thực hiện được nhiều. Nhưng với những việc mà nhà Hồ đã làm được trong mấy năm cầm quyền cũng đã thể hiện quan điểm tiến bộ về vai trò của Nhà nước đối với công việc mở mang phương tiện giao thông vận chuyển và trị thủy. Tác dụng của công việc ấy tuy còn gặp phải nhiều hạn chế do trình độ khoa học và do nhiều yếu tố khác về xã hội cũng như vể công cụ lao động... nhưng chắc chắn cũng đã bảo đảm được sự lưu thông hàng hóa thuận lợi hơn, tăng gia sản xuất nông nghiệp trong một chừng mực nhất định, mang lại lợi ích cho cả Nhà nước và nhân dân. Việc làm ấy lại càng làm nổi bật vai trò cải cách của nhà tiếp theo những năm tháng dài dưới sự cai trị ngày càng sa đọa, ăn chơi xa xỉ, yếu hèn, không để ý gì đến việc quốc kế dân sinh...

IV. TĂNG CƯỜNG QUẢN LÝ THỊ TRƯỜNG

Ở nước ta, cuối thế kỷ XIV đầu thế kỷ XV, hoạt động thương mại tuy bắt đầu phát triển song nông nghiệp vẫn là hoạt động cơ bản của nền kinh tế quốc gia. Việc mua bán thường thông qua các cửa tiệm của những người buôn bán nhỏ ở các phường, phố xá buôn bán, những bạn hàng mua đi bán lại ở các chợ... Ngoài ra, còn có những thuyền buôn hoạt động kinh doanh lưu động. Thuyền buôn các nước tập trung nhiều ở cảng Vân Đồn và thuyền buôn trong nước chuyển vận hàng hóa cung cấp cho thị trường trong nước. Tùy theo quy mô kinh doanh, các thuyền buôn được xếp thành 3 hạng thượng, trung, hạ để đánh thuế.

Thóc gạo đã trở thành một thứ nhu yếu phẩm có giá trị đặc biệt trên thị trường cả nước, nhất là vào những năm tháng mất mùa, nhân dân bị nạn đói. Thiên tai, hạn hán liên tiếp xảy ra, gây nạn đói nghiêm trọng mà bản thân chính quyền không đủ sức cứu trợ cho dân.

Trong tình hình kinh tế khó khăn ấy, đã có hiện tượng đầu cơ tích trữ để kiếm lợi trong một bộ phận nhân dân. Những người giàu có nhiều lương thực chứa trữ lúa thóc trong nhà, không bán ra; những người mua bán ngũ cốc tích trữ lương thực chờ cơ hội bán với giá cao, thu lợi nhiều...

Chính quyền Hồ Quý Ly đã phải đương đầu giải quyết hàng loạt khó khăn ấy nhằm điều chỉnh thị trường lương thực trong nước bằng cách tiến hành đổng thời những biện pháp kinh tế và hành chính. Năm 1403, Quý Ly đặt ra chức Thị giám là người chuyên trách việc quản lý các chợ, trông coi các nơi buôn bán; đồng thời ra lệnh ban hành các dụng cụ đo lường (cân, thước, đấu, thưng) có tiêu chuẩn nhất định để chấn chỉnh việc buôn bán trong nhân dân. Lúc ấy những người buôn bán phần nhiều chê tiền giấy dễ rách nát nên Quý Ly ban hành ngay những điều luật để quản lý thị trường và những quy định hình sự để xử tội người nào không tiêu tiền giấy, những kẻ đầu cơ tích trữ tìm cách đóng cửa hàng để chờ thời cơ nâng giá cao; những người có quyền thế bao che, bênh vực những hiện tượng đó cũng bị xử phạt (*) .

Để ổn định thị trường lương thực, trước đó 2 năm, vào năm 1401, vua Hán Thương đã cho lập các kho Thường bình và phát cấp tiền giấy xuống cho các lộ để tung người ra, theo giá cả mà mua lúa thóc chứa vào kho, dự phòng khi khan hiếm (*) . Kho Thường bình với ý nghĩa là kho luôn luôn giữ sự cân bằng, bình ổn bằng cách khi ngoài thị trường gạo thóc dồi dào, dư thừa thì Nhà nước xuất công quỹ mua vào; khi đói kém, khan hiếm thì Nhà nước đem thóc lúa phân phối cho dân đói hoặc bán ra cho dân theo giá rẻ để điều tiết ổn định giá cả lương thực.

Cũng trong năm ấy, sử chép vua Hán Thương đã định hình luật nước Đại Ngu (*) . Ngày nay, không còn tư liệu nào về hình luật ấy nhưng hẳn rằng hình luật năm 1401 của nhà Hồ đã có những điều khoản nhằm trừng trị nghiêm khắc những kẻ trộm, cướp, những kẻ làm rối loạn thị trường, buôn gian bán lận, đầu cơ, tích trữ hàng hóa nhất là lương thực. Vì thời nào cũng vậy, luật hình vốn là biện pháp chế tài nghiêm khắc nhằm trấn áp kịp thời những hành vi nguy hiểm phương hại đến xã hội và chế độ đương thời.

Bên cạnh biện pháp trấn áp hình sự để kịp thời ổn định thị trường, giữ vững trật tự xã hội, vua đã vận dụng biện pháp vận động, khuyến khích những thành phần có khả năng góp phần làm giảm bớt những khó khăn về kinh tế. Những năm mất mùa, dân bị đói, vua Hán Thương lệnh cho các quan phủ, lộ, châu, huyện kiểm kê số thóc của các nhà giàu, khuyên họ bán cho dân theo giá cả thỏa thuận hai bên, bán nhiều ít là tùy theo số thóc mỗi nhà hiện có (*) . Đối với những trường hợp cần lạc quyên không phải trả tiền thì Nhà nước ban tước cho người nộp thóc hoặc miễn giảm tội cho họ, nếu có, như lời đê' nghị của An phủ sứ lộ Thăng Hoa Nguyễn Cảnh Chân dâng lên vua Hồ năm 1402: “Xin theo việc cũ của nhà Hán, nhà Đường, mộ người nộp thóc để việc phòng bị biên cương được đầy đủ, những người nộp thóc thì được ban tước cho hoặc cho được miễn tội tùy theo số thóc nộp nhiều hay ít” (*) .

Cần để ý thêm một biện pháp góp phần ổn định thị trường lương thực, giải quyết nạn đói trong dân, tăng cường tiếp lương cho công cuộc chiến đấu chống xâm lăng, đã được vua Hồ thực hiện qua chủ trương vận động thực hành tiết kiệm, chống lãng phí trong cả nước. Năm 1405, sau hội nghị với An phủ sứ các lộ và các quan ở kinh bàn về việc chuẩn bị đối phó với cuộc chiến tranh xâm lược của quân Minh, vua Hán Thương ra lệnh cầm nẫu rượu để tránh lãng phí thóc gạo (*) .