← Quay lại trang sách

MỤC 5 CẢI CÁCH TÀI CHÍNH

Trong lĩnh vực tài chính, công cuộc cải cách của Hồ Quý Ly thể hiện nổi bật ở hai chính sách: phát hành tiền giấy và cải cách thuế vụ.

I. PHÁT HÀNH TIỀN GIẤY

Bên cạnh một số cải cách được coi là tiêu biểu như hạn điền, hạn nô... chính sách phát hành tiền giấy đã đánh dấu một khúc quanh quan trọng, một bước phát triển lớn của lịch sử tiền tệ Việt Nam. Bởi, tiền giấy của Hồ Quý Ly là loại tiền giấy xuất hiện đầu tiên ở nước ta. Nói “tiền giấy của Hồ Quý Ly” song thực ra nó đã được phát hành cuối đời Trần (đời vua Trần Thuận Tông), lúc ấy Hồ Quý Ly tuy còn làm quan song đã nắm quyền điều khiển mọi việc triều chính như một ông vua.

Theo lịch sử tiền cổ Việt Nam (*) , tiền đồng đầu tiên của nước ta bắt đầu xuất hiện dưới đời nhà Đinh (đồng “Thái Bình hưng bảo” đúc năm 968, đời vua Đinh Tiên Hoàng); kế đó có đồng “Thiên Phúc trấn bảo” của nhà Tiền Lê (đúc năm 984, đời vua Lê Đại Hành). Nhà Lý có tiền “Thuận Thiên đại bảo” (đúc dưới đời vua Lý Thái Tổ (1010 - 1028), “Minh Đạo thông bảo” (đúc năm 1042, đời vua Lý Thái Tông)... Nhà Trần có tiền “Nguyên Phong thông bảo” (đúc dưới đời vua Trần Thái Tông (1251 - 1258), “Khai Thái nguyên bảo” (đúc dưới đời Trần Minh Tông (1324 - 1329), “Đại Trị thông bảo” (đúc năm 1360, đời Trần Dụ Tông) v.v...

Đến đời Trần Thuận Tông, năm 1396, ở nước ta mới bắt đầu có tiền giấy.

1. Phát hành tiền Thông Bảo hội sao

Việc phát hành tiền giấy “Thông Bảo hội sao” là một trong những chính sách cải cách lớn của Hồ Quý Ly. Loại tiền giấy này không phải chỉ lưu hành vào thời gian cuối đời Trần mà còn được sử dụng trong những năm thuộc triều, sau khi tiền giấy đã xuất hiện hơn 10 năm. Cho nên thường khi nói đến Thông Bảo hội sao với tư cách là loại tiền giấy đầu tiên ở nước ta, người ta cũng hay gọi đó là “tiền nhà Hồ”.

Đại Việt sử ký toàn thư chép sơ lược về việc phát hành tiền vào năm Bính Tý (1396) như sau: “Mùa hạ, tháng 4, bắt đầu phát hành (tiền giấy) Thông Bảo hội sao. In xong, ra lệnh cho người đến đổi, cứ 1 quan tiền đồng đổi lấy 1 quan 2 tiền giấy. Thể thức (tiền giấy): tờ 10 đồng vẽ rồng, tờ 30 đồng vẽ sóng, tờ 1 tiền vẽ mây, tờ 2 tiền vẽ rùa, tờ 3 tiền vẽ lân, tờ 5 tiền vẽ phượng, tờ 1 quan vẽ rồng. Kẻ làm tiền giả bị tội chết, ruộng đất, tài sản tịch thu. Cấm tuyệt tiền đồng, không được chứa lén, tiêu vụng, tất cả thu hết về kho Ngao Trì ở kinh thành và trị sở các xứ. Kẻ nào vi phạm cũng bị trị tội như làm tiền giả (...). Những quy chế về tiền giấy (...) trên đây đểu làm theo lời của Thiếu bảo Vương Nhữ Chu cả” (*) .

2. Sử dụng tiền Thông Bảo hội sao

Việc xuất hiện tiền giấy là một hiện tượng tiến bộ trong lịch sử tiền tệ của một nước, lịch sử văn minh của một dân tộc. Lịch sử loài người cho thấy lúc ban đầu việc buôn bán được thể hiện dưới hình thức vật đổi vật hoặc tiến bộ hơn thì người ta dùng một vật để làm trung gian với tư cách là tiền. Thời cổ xưa, con người dùng vỏ sò, vỏ ốc làm tiền; kế đó người ta dùng kim loại (vàng, bạc, đồng, kẽm...) để đúc ra tiền. Phương tiện trao đổi của dân tộc ta lúc ban đầu cũng được thực hiện bằng sản vật, bằng vàng, bạc và dưới thời Bắc thuộc đã sử dụng tiền đúc bằng kim loại của Trung Quốc. Qua các triều đại quân chủ Việt Nam: Đinh, Lê, Lý, Trần, Nhà nước Đại Cổ Việt và Đại Việt đều có đúc tiền bằng kim loại để làm phương tiện đổi chác trong nhân dân.

Tiền đúc bằng kim loại có thể tồn tại nguyên dạng lâu năm nhưng bản thân nó rất nặng nề, cồng kềnh. Khi cần vận chuyển số lượng tiền lớn thì hết sức bất tiện và nguy hiểm nhất là vào thời kỳ đường giao thông trên bộ, dưới nước và các phương tiện lưu thông còn thô sơ, đất nước ở trong tình trạng chiến tranh, loạn lạc... Cho nên việc nghĩ ra và thực hiện phát hành tiền giấy đã là một suy nghĩ hết sức tiến bộ, một việc làm to lớn, đóng góp vào sự phát triển nền kinh tế, nền văn hóa của dân tộc...

Với lệnh phát hành tiền giấy của Hồ Quý Ly năm 1396, lần đầu tiên tiền giấy xuất hiện ở nước ta mà việc sử dụng nó lại mang tính chất triệt để, nghĩa là sau khi tiền giấy được phát hành ra, mọi loại tiền đông có từ trước đều không còn giá trị; mọi hành vi tàng trữ, sử dụng tiền đồng đều bị coi là bất hợp pháp (*) . Lúc ấy, nhân dân chưa quen xài và chưa tin tưởng vào giá trị của tiền giấy nên có người từ chổi sử dụng hay chê bai tiền giấy. Những hành vi đó đều bị xử phạt nghiêm khắc.

Việc phát hành tiền giấy lúc ấy quả là một cuộc cải cách tiền tệ, một biện pháp tài chính rất mới mẻ mà cũng rất táo bạo của Hồ Quý Ly. Qua đó cũng thể hiện rất rõ bộ óc siêu Việt và quyết tâm cải cách một cách kiên quyết và triệt để của nhà lãnh đạo họ Hồ. Ông có cái nhìn trước thiên hạ, bất chấp khó khăn, khắc phục mọi trở ngại để bảo đảm cho chính sách phải được thực hiện đến nơi đến chốn. Vì vậy, ông đã phải dùng đến những biện pháp phối hợp giáo dục, khuyến khích (như: năm 1402 định lệ thu thuế bằng tiền giấy; năm 1405 ban thưởng tiền giấy cho các phụ lão từ 70 tuổi trở lên...) và biện pháp cưỡng bức của Nhà nước (năm 1401 phát tiền giấy xuống các lộ để mua lúa trong dân; năm 1403 lập điều luật phạt tội không tiêu tiền giấy...). Thực ra, trước đó hàng mấy trăm năm tiền giấy đã từng được sử dụng ở Trung Quốc đời nhà Đường (618 - 907) dưới hình thức tờ phiếu “phi tiền”, đời nhà Tống (960 - 1127) từ năm 995, dưới hình thức “giao tử” thay tiền... và tiền giấy được chính thức phát hành vào những năm thập niên thứ 3, thứ 4 của thế kỷ XI đời nhà Tống. Qua các đời Tống, Nguyên, Minh... trở về sau đểu có phát hành tiền giấy. Lúc ấy, tiền ở Trung Quốc thường được gọi là “thông bảo”, “bảo hóa”, “bảo sao”... Như nhà Đường có tiền đổng “Khai Nguyên thông bảo”, nhà Nguyên có tiền giấy “Trung Thông bảo sao”, nhà Minh có tiền giấy “Đại Minh thông hành bảo sao” v.v... “Thông bảo” là cách gọi tắt bốn chữ “Thông hành bảo hóa” nghĩa là “tiền giấy thông dụng”. Nhưng, song song với việc phát hành tiền giấy, các Nhà nước Trung Quốc ở những thời điểm đó vẫn tiếp tục cho đúc tiền đồng (*) .

Chính sách phát hành tiền giấy của Hồ Quý Ly còn nhằm giải quyết cấp thời một khó khăn đã trở nên nghiêm trọng của Nhà nước lúc bấy giờ, đó là nguy cơ kho tàng trống rỗng mà Nhà nước cần có tiền để chi tiêu cho ngày càng nhiều công trình to lớn, cũng như yêu cầu phải thu hổi tiền đóng để có nguyên liệu đồng chế tạo vũ khí và làm các việc cần thiết khác. Vê' điều này, học giả Đào Duy Anh đã nhận định: “Nhờ việc thu đổi tiền, Nhà nước có trong tay một khối lượng đồng khá lớn và đã sử dụng chúng vào việc chế tạo vũ khí phục vụ nhu cầu quốc phòng mà ở thời điểm ấy đang trở nên vô cùng cấp thiết” (*) .

Đến ngày nay, hẳn chúng ta đã thấy được đầy đủ giá trị đích thực của tiền giấy. Những ý kiến sau đây của những người sau Hồ Quý Ly cũng cần được ghi lại để thấy tư tưởng cải cách tiền tệ của Hồ Quý Ly vào cuối thế kỷ XIV đã vượt xa sự suy nghĩ của nhiều nhân vật lịch sử sau ông cả hàng mấy thế kỷ... Năm 1429, trong Chiếu ngày mồng 5 tháng 7 năm Kỷ Dậu (1429), vua Lê Thái Tổ (1428 -1433) ra lệnh cho các quan văn võ trong ngoài, họp bàn về quy chế đổng tiền, đã có đoạn viết: “Tiền là mạch máu của sinh dân, không thể không có. Nước ta vốn có mỏ đồng, nhưng tiền đồng cũ đã bị nhà Hồ hủy bỏ, trăm phần chỉ còn được một. Đến nay, việc quân, việc nước thường hay bị thiếu. Muốn cho tiền được lưu thông sử dụng, để thuận lòng dân, há chẳng khó sao? Mới rồi có người dâng thư trình bày, xin lấy tiền giấy thay cho tiền thực. Trẫm sớm khuya nghĩ ngợi, chưa nghĩ ra cách gì. Vì rằng tiền giấy là thứ vô dụng, lại được lưu hành như vật hữu dụng trong dân, thực không phải là ý nghĩa yên dân, dùng của (...) (*) . Và khi nhận xét về tiền Thông Bảo hội sao, sử thần Phan Huy Chú (1782 - 1840) đã viết: “(...) tiền giấy chẳng qua chỉ là mảnh giấy vuông, phí tổn chỉ đáng 5, 3 đồng tiền, mà đem đổi lấy vật đáng giá 5, 6 trăm đồng của người ta, cố nhiên không phải là cái đạo đúng mức. Vả lại, người có tiền giẫy cất giữ cũng dễ rách nát, mà kẻ làm giả mạo sinh ra không cùng, thực không phải là cách bình ổn vật giá mà lưu thông của cải của dân vậy. Quý Ly không xét kỹ đến cái gốc lợi hạí, chỉ ham chuộng hư danh sáng chế, để cho tiền của, hàng hóa thường vẫn lưu thông tức thì sinh ra ứ đọng, khiến dân nghe thấy đã sợ, thêm mối xôn xao, thế có phải là chế độ bình trị đâu!” (*) .

Có lẽ xuất phát từ cách nhận định như vậy nên tiền giẫy Thông Bảo hội sao chỉ tồn tại được trong thời gian có hơn 10 năm. Tiền giấy mất theo cùng với sự sụp đổ của vương triều Hồ vào năm 1407. Các triều đại sau đó - Hậu Lê, Mạc, Tây Sơn, Nguyễn đểu cho đúc lại tiền bằng kim khí để sử dụng trong dân.

II. CẢI CÁCH THUẾ VỤ

Một chính sách cải cách tài chính quan trọng khác của nhà là sự đổi mới chế độ thuế khóa, thể hiện qua 3 sắc thuế lúc bấy giờ là: thuế đinh (hay thuế thân, thuế dung), thuế điển (hay thuế tô) và thuế thuyền buôn. Cả 3 sắc thuế này đều được nhà Hồ sửa đổi, bổ sung sau khi đã lên ngôi.

Về thuế đinh và thuế điền, Đại Việt sử ký toàn thư chép sự kiện vào năm 1402 như sau: “Hán Thương định lại các lệ thuế và tô ruộng. Triều trước mỗi mẫu thu 3 tháng thóc, nay thu 5 thăng. Bãi dâu, triều trước thu mỗi mẫu 9 quan hoặc 7 quan tiền, nay thu hạng thượng đẳng mỗi mẫu 5 quan tiền giấy, hạng trung đẳng 4 quan tiền giấy, hạng hạ đẳng 3 quan tiền giấy. Tiền nộp hàng năm của đinh nam trước thu 3 quan, nay chiếu theo số ruộng, người nào chỉ có 5 sào ruộng thì thu 5 tiền giấy; từ 6 sào đến 1 mẫu thì thu 1 quan; 1 mẫu 1 sào đến 1 mẫu 5 sào thu 1 quan 5 tiền; từ 1 mẫu 6 sào đến 2 mẫu thu 2 quan; từ 2 mẫu 1 sào đến 2 mẫu 5 sào thu 2 quan 5 tiền; từ 2 mẫu 6 sào trở lên thu 3 quan. Đinh nam không có ruộng và trẻ mổ côi, đàn bà góa, thì dẫu có ruộng cũng thôi, không thu” (*) .

Về thuế thuyên buôn, Đại Việt sử ký toàn thư chép sự kiện cuối năm 1400 như sau: “Hán Thương đánh thuế các thuyền buôn, định 3 mức thượng, trung, hạ. Mức thượng đánh thuế mỗi thuyền 5 quan, mức trung 4 quan, mức hạ 3 quan” (*) .

1. Thuế đinh

Thuế đinh là sắc thuế đánh vào bản thân từng con người (nhân đinh).

Sử cũ chép rõ sắc thuế này xuất hiện từ đầu đời Trần; vua Trần Thái Tông năm 1242 định người nào không có ruộng đất thì miễn; có 1, 2 mẫu nộp 1 quan; có 3, 4 mẫu nộp 2 quan; có từ 5 mẫu trở lên nộp 3 quan (*) . Đến đời Trần Phế Đế, năm 1378, theo đề nghị tăng thuế của Đỗ Tử Bình, phỏng theo phép dung (thuế thân) của nhà Đường “có thân thì phải có dung”, hễ ai ở đất nhà vua, làm dân của vua thì phải chịu thuế thân, nên định mỗi đinh nam đều phải nộp 3 quan tiền, không kể có ruộng hay không (*) .

Nay theo chủ trương cải cách của Hồ Quý Ly, lại căn cứ theo sổ ruộng mà thu thuế đinh với mức cụ thể như sau:

– Có ruộng 5 sào: nộp 5 tiền giấy.

– Có từ 6 sào đến 1 mẫu: nộp 1 quan.

– Có từ 1 mẫu 1 sào đến 1 mẫu 5 sào: nộp 1 quan 5 tiền.

– Có từ 1 mẫu 6 sào đến 2 mẫu: nộp 2 quan tiền.

– Có từ 2 mẫu 1 sào đến 2 mẫu 5 sào: nộp 2 quan 5 tiền.

– Có từ 2 mẫu 6 sào trở lên: nộp 3 quan.

– Đinh nam không có ruộng (*) , trẻ mồ côi, đàn bà góa: đều được miễn thuế.

Như vậy, so với chế độ thuế đinh ban hành trước cải cách thì mức thuế mới nói chung có giảm nhiều, theo hướng chiếu cố đối với người nghèo, tức là giảm thuế đối với người có ít ruộng, mức giảm có thể chỉ còn 1/6 mức thuế cũ. Đồng thời, qua đó Nhà nước chính thức quy định diện chính sách được hưởng sự nâng đỡ bằng cách cho miễn thuế hoàn toàn đối với người không có ruộng, trẻ mồ côi và đàn bà góa (*) .

2. Thuế điền

Thuế điền là sắc thuế đánh vào ruộng đất canh tác thuộc sở hữu tư nhân, đối tượng thu thế là người có điền sản.

Sử chép rõ sắc thuế này có từ đời Lý, năm 1092, vua Lý Nhân Tông định mức thu thuế tô ruộng mỗi mẫu là 3 thăng thóc. Sang đời Trần, năm 1242, vua Trần Thái Tông định điển tô đồng đểu mỗi mẫu phải nộp 100 thăng thóc. Mức thu 100 thăng thóc/mẫu qua các đời sau đều không thấy có sự điều chỉnh lần nào, kể cả lần tăng thuế dưới đời Trần Phế Đế năm 1378 theo đề nghị của Đỗ Tử Bình... Song, Đại Việt sử ký toàn thư và Việt sử thông giám cương mục ghi sự kiện về thuế năm 1402 đều cho biết: đời Trần đối với tư điền thu mỗi mẫu 3 thăng thóc; đất bãi trồng dâu thu mỗi mẫu 9 quan hoặc 7 quan tiền.

Nay theo cải cách của Hồ Quý Ly, mức thuế điền định lại như sau:

- Đối với tư điền: thu mỗi mẫu 5 thăng thóc.

- Đối với đất trồng dâu: chia ra 3 hạng:

+ Thượng đẳng điền: thu mỗi mẫu 5 quan tiền.

+ Trung đẳng điền: thu mỗi mẫu 4 quan tiền.

+ Hạ đẳng điền: thu mỗi mẫu 3 quan tiền.

Như vậy, so với chế độ thuế điền hiện hành trước cải cách thì mức thuế mới đối với tư điển có tăng mỗi mẫu 2 thăng thóc (tức tăng 2/3 mức cũ) nhưng mức thuế đối với đất trổng dâu là đất có quan hệ mật thiết với sự phát triển của tiểu thủ công nghiệp trong nước thì giảm thuế khoảng từ 50% đến 60% mức cũ (*) .

Nhìn chung, qua cải cách của nhà năm 1402, mức thuế đinh và thuế điển đều có xu hướng giảm mà việc phân hạng đổi với các đối tượng thụ thuế có tính khoa học hơn, cụ thể hơn, đổng thời chính sách cải cách có để ra biện pháp nâng đỡ thiết thực, chiếu cổ đối với các thành phần nhân dân nghèo khó, cần được hưởng chính sách ưu đãi của Nhà nước.

3. Thuế thuyền buôn

Thuyền buôn là những cửa hàng kinh doanh thương mại lưu động dưới nước hoặc chỉ hành nghề chuyển vận hàng hóa đường thủy, thường có mức doanh thu và lợi tức cao hơn nhiều so với đối tượng lao động sống bằng nghề nông, nhất là các thuyền buôn nước ngoài. Nhưng qua sử cũ, trước đời Hồ, chưa thấy có triều đại nào đánh thuế các thuyền buôn. Như vậy, trên thực tế nhiều đời đã có sự thất thu vì đối tượng thụ thuế này đã bị bỏ sót. Tình trạng ấy còn thể hiện sự thiếu công bằng trong nghĩa vụ nộp thuế của người dân.

Chính sách cải cách thuế của Hồ Quý Ly được áp dụng ngay từ năm đầu họ mới lên ngôi, qua cách định lệ thuế đối với thuyền buôn. Đây là nguồn thu mới có khả năng góp phần tăng cường tài chính đáng kể cho công quỹ Nhà nước. Mức thuế được phân hạng cụ thể theo quy mô hoạt động của từng đối tượng, chia ra thành 3 bậc thuế: 3 quan, 4 quan và 5 quan tiền.