← Quay lại trang sách

MỤC 6 CẢI CÁCH TƯ TƯỞNG, VĂN HÓA, GIÁO DỤC

Trong toàn bộ công cuộc cải cách của Hồ Quý Ly có thể nói văn hóa, tư tưởng, giáo dục là lĩnh vực mang tinh thần cách tân nổi bật nhất mà ít đụng chạm đến quyền lợi riêng tư của các tầng lớp xã hội đương thời. Về văn hóa - tư tưởng, phương hướng cải cách của Hồ Quý Ly thể hiện tinh thần phát huy văn hóa dân tộc, đề cao chữ quốc ngữ (chữ Nôm), đồng thời bài bác tư tưởng của các thánh hiền Trung Quốc mà gần như toàn thể giới nho sĩ lúc bấy giờ vẫn coi là bất khả xâm phạm. Về giáo dục, nội dung cải cách thể hiện tinh thần yêu nước, tính đại chúng và gắn bó với cuộc sống xã hội...

I. CẢI CÁCH TƯ TƯỞNG - VĂN HÓA 1. Soạn sách “Minh đạo” nhận định lại về Nho giáo

Tháng 12 năm Nhâm Thân (1392), Quý Ly soạn sách Minh đạo nghĩa là “làm sáng tỏ đạo (Nho)” (*) . Sách gồm 14 thiên, đại lược nhận định rằng “Chu Công là Tiên thánh, Khổng Tử là Tiên sư” (*) ; khi sắp xếp ngôi thứ thờ ở Văn miếu thì “đặt bài vị Chu Công ngồi giữa, mặt hướng Nam; bài vị của Khổng Tử ngồi bên, mặt hướng Tây” (*) . Như vậy, ở đây Quý Ly đã hạ thấp vai trò của Khổng Tử, đề cao Chu Công... Đồng thời ông nêu trong sách Luận Ngữ có 4 chỗ đáng lấy làm ngờ, như sau:

– “Khổng Tử đến yết kiến nàng Nam Tử” (la) (Nam Tử là vợ Linh Công nước Vệ, người đẹp nhưng rất dâm dật, vậy mà Khổng Tử đã đến chơi nhà này).

– “ Khổng Tử bị hết lương ãn ở nước Trần” (lb) (Khổng Tử từ nước Vệ sang nước Trần, dọc đường bị hết lương thực để ăn, người đi theo đói, đến nỗi không đứng dậy được).

– “Công Sơn triệu, Phật Hất triệu, Khồng Tử đều muốn đến giúp” (lc) (Công Sơn Phất Nhiễu làm quan Tể của họ Quý nước Lỗ, giữ ấp Phí, làm phản; Phật Hất là quan Tể ấp Trung Mâu, gia thần của quan Đại phu Triệu Giản nước Tấn).

– “Về Hàn Dũ, Quý Ly cho là “đạo Nho”; còn các người hiền như Chu Mậu Thúc, hai họ Trình, Dương Qui Sơn, La Trọng Tố, Lý Diên Bình và Chu Tử thì Quý Ly cho là học rộng mà ý nghĩ viễn vông, không sát với tình hình sự việc, chỉ chăm bề cắp nhặt” (*) (Quý Ly cho Hàn Dũ - một danh nho đời Đường - là “đạo nho” nghĩa là người ngoài miệng chuyên nói đạo nghĩa thánh hiền mà việc làm thì như kẻ trộm cắp, còn những hiền giả đời Tống như Chu Mậu Thúc, Trình Hiệu, Trình Di... thì Quý Ly phê phán tuy học rộng nhưng tài kém, không sát với thực tế, chỉ chuyên nghề lấy cắp văn chương, tư tưởng của người xưa)...

Có thể coi Minh đạo là quyển sách phê bình triết học đầu tiên ở nước ta. Qua nội dung của sách này, Quý Ly đã chứng tỏ ông chủ trương “tri hành hợp nhất” và muốn tấn công thẳng vào hệ tư tưởng Tống Nho mà phẩn đông giới quý tộc và quan lại ở Trung Quốc cũng như ở nước ta lúc bấy giờ vẫn tôn vinh như là “khuôn vàng thước ngọc”! Điều Quý Ly phê phán có thể chưa thật thỏa đáng nhưng dù sao qua nhận xét của Quý Ly ta cũng thấy họ quả là người có một tính thẩn cách tân và độc lập, có óc phê bình sáng tạo, không chịu nô lệ thành kiến, tư tưởng nào, nhất là đối với tư tưởng đương thời đang giữ vai trò chính thống. Tư tưởng của Hồ Quý Ly đã vượt hẳn tầng lớp nho sĩ cùng thời đại với ông và cả những người trí thức thế hệ sau ông nữa...

Phản ứng về cách đánh giá của Hồ Quý Ly, Quốc tử trợ giáo Đoàn Xuân Lôi dâng thư nói Quý Ly bàn như vậy là không phải. Xuân Lôi liền bị đày đi châu gần. Xuân Lôi khai là Đào Sư Tích đã có xem thư của mình phê phán Quý Ly nên Sư Tích bị giáng xuống làm Trung thị lang đổng Tri thẩm hình viện sự. Đời sau, sử thần Ngô Sĩ Liên đã chép lại quan điểm ấy của Hồ Quý Ly trong Đại Việt sử ký toàn thư và có lời phê phán Quý Ly như sau: “Đạo của Tiên thánh nếu không có Khổng Tử thì không ai phát huy được; Hậu thánh sinh ra, nếu không có Khổng Tử thì không còn ai làm khuôn phép nữa. Từ khi có sinh dân đến nay, chưa có ai nổi tiếng hơn Khổng Tử, thế mà Quý Ly lại dám khinh suất bàn về Ngài thì thực là không biết lượng sức mình” (*) .

2. Dịch thiên “Vô dật” trong Kinh Thư để dạy vua

Mùa hạ, tháng 4 năm Ất Hợi (1395), Hồ Quý Ly biên dịch thiên “Vô dật” từ chữ Hán ra chữ quốc ngữ (chữ Nôm) để dạy vua Trần Thuận Tông.

“Vô dật” nghĩa là chớ có lười biếng, chớ thích an nhàn. Đây là một thiên trong sách Thượng Thư (Kinh Thư) chép lời của Chu Công (Đán) khuyên dạy vua Thành Vương nhà Chu; nội dung của sách này nhấn mạnh về bổn phận làm vua phải chăm lo chính sự, hiểu nỗi khó nhọc của dân, không nên đánh thuế nặng...

3. Dịch và đề tựa lại Kinh Thi để làm sách học cho hậu phi và cung nhân

Tháng 11 năm Bính Tý (1396), Hồ Quý Ly làm sách Quốc ngữ Thi nghĩa (*) và viết lại bài Tựa theo ý mình, bỏ không dùng bài Tựa của Chu Tử. Chu Tử (Chu Hy) là người đã chú giải bộ sách kinh điển của Nho giáo (lục kinh) bao gồm: Kinh Thi, Kinh Thư, Kinh Dịch, Kinh Lễ, Kinh Nhạc và Kinh Xuân Thu.

Trong bài Tựa mới, Hồ Quý Ly nói rõ ông dịch và giải thích theo ý kiến riêng của mình chứ không theo lời chú thích của Chu Hy. Bình luận về việc này, tác giả Kiều Thanh Quế trong tác phẩm Cuộc tiến hóa văn học Việt Nam viết: “Người nước ta, trước Quý Ly, học Thi, Thư của Tàu, nô lệ theo tư tưởng người Tàu, nhất nhất quy theo lời chú thích của Chu Hy. Chỉ họ Hồ là người trước hết thoát ly được óc nô lệ cổ nhân, đáng phục thay!” (*) .

Trước Hồ Quý Ly, trừ Hàn Thuyên (*) và Nguyễn Sĩ Cố (*) đời Trần đã có làm thơ chữ Nôm, còn nói chung tầng lớp quý tộc và trí thức Đại Việt thường chỉ biết có chữ Hán, chỉ coi trọng chữ Hán, Nhà nước xem chữ Hán là văn tự chính thức của dân tộc và chỉ cho phép dùng chữ Hán để dạy học... Hai sách biên dịch nói trên cùng nhiều bài thơ Nôm của Hồ Quý Ly (*) đã cho thấy rõ thái độ ông đề cao, khuyến khích việc phổ biến và sử dụng chữ Nôm đến mức nào. Thái độ ấy nói lên một cách hùng hồn tinh thần dân tộc của Hồ Quý Ly và tinh thần ấy lại được thể hiện qua nội dung cẩm nang dành để dạy dỗ những người đang giữ cương vị tối cao trong xã hội. Thật là một hành vi văn hóa có ý nghĩa lịch sử hết sức đặc biệt!

Ở đây, tinh thần độc lập, sáng tạo của Hồ Quý Ly đã đưa ông lên vị trí vượt xa người cùng thời với ông và tầng lớp nho sĩ đời sau ông rất xa, như có lần danh nho Ngô Sĩ Liên (thế kỷ XV), đời Lê, đã mạnh tay phê phán Hồ Quý Ly rằng: “Chu Tử sinh vào cuối đời Tống, kế tiếp công việc chú giải lục kinh của các nhà nho Hán, Đường, ngược dòng tìm nguồn, hiểu được ý của thánh nhân ở các bộ kinh để lại, rõ được đạo thánh nhân ở những lời huấn giải, vắt óc nghiền ngẫm, lý và tâm dung hợp. Ông giải thích thì tường tận, chỉ dẫn thì xa rộng, thực là tập đại thành của các tiên nho và cũng là khuôn mẫu cho những kẻ hậu học. Huống chi lại có Trình Tử xướng ở trước và Chu Tử bổ sung chỗ chưa hoàn hảo ở sau, thì nghĩa đã tinh lắm rồi. Người sau mà có trước tác thì cũng chỉ là mở mang cho rộng thêm, tô chuốt cho bóng thêm, có thế mà thôi, sao lại được chê bai bàn cãi?” (*) .

4. Chấn hưng lễ nhạc

Bên cạnh các lĩnh vực cải cách khác, nhà Hồ cũng quan tâm đặc biệt đến việc chấn hưng lễ nhạc. Nhiêu nghi thức lễ tân của Nhà nước được quy định lại như: cải cách phẩm phục triều nghi, định lại thể lệ áo mũ các quan, khôi phục lê Tế Giao của Hoàng đế, lập nhà thái miếu và các tẩm miếu

Năm 1402, đặt nhã nhạc, lấy con các quan văn làm Kinh vĩ lang, con các quan võ làm Chỉnh đốn lang, tập múa các điệu vũ văn, võ (*) .

II. CẢI CÁCH GIÁO DỤC

Hồ Quý Ly rất quan tâm đến công tác giáo dục - đào tạo để xây dựng một tầng lớp nho sĩ trí thức mới phục vụ đắc lực cho chế độ của mình.

1. Cải cách nền giáo dục địa phương

Tháng 5 năm Đinh Sửu (1397), vua Trần Thuận Tông xuống chiếu cải cách việc giáo dục ở các phủ lộ (thực chất là làm theo ý của Hồ Quý Ly) như sau: “(...) Nay thể lệ về nhà học của nước đã được đầy đủ, nhưng ở châu, ở huyện hãy còn thiếu sót, thì làm thế nào mà mở rộng được đạo dạy dân? Vậy hạ lệnh cho phủ và châu thuộc các lộ Sơn Nam, Kinh Bắc và Hải Đông đều đặt một viên quan Giáo thụ giữ về việc học, cấp cho ruộng theo đẳng cấp sau này: phủ và châu hạng lớn 15 mẫu, hạng trung bình 12 mẫu, hạng nhỏ 10 mẫu, để lấy hoa lợi ruộng ấy chi dùng vào việc học trong phủ hoặc châu. Viên quan cai trị ở lộ đôn đốc viên quan giữ việc học phải dạy bảo học trò, cho thành người tài năng văn nghệ (...)” (*) .

Trước đó, việc học hành chỉ được Nhà nước tổ chức ở các đô thị, còn ở các châu, huyện thì nhân dân không có trường học nên dễ bị dốt chữ hoặc chỉ phó thác hoàn toàn cho các thầy đổ tư nhân, gồm cả các nhà nho trí sĩ, ẩn dật... Với việc cải cách nói trên, Quý Ly đặt ra ngạch học quan của Nhà nước và ra lệnh cho các lộ Sơn Nam, Kinh Bắc và Hải Đông đều phải có học quan để trông coi việc giáo dục ở địa phương mình. Nhà nước cho phép lấy hoa lợi ruộng công (học điền) đài thọ các chi phí điều hành của nhà trường, chi phí học tập của học trò và một phần để làm lễ cúng vào ngày đầu tháng. Diện tích học điền được cấp thay đổi tùy theo từng hạng phủ, châu: 10 mẫu, 12 mẫu hoặc 15 mẫu...

Đến nay, không còn sử liệu xác định chính xác phạm vi 3 lộ Sơn Nam, Kinh Bắc và Hải Đông, có thể “các lộ ấy đều xung quanh Thăng Long” (*) ; hay “đã chiếm hầu hết miền đồng bằng và miền duyên hải đất Bắc Bộ ngày nay” (*) . Dù sao, trong điều kiện xã hội nước ta hồi cuối thế kỷ XIV, làm được việc mở mang trường công đến các phủ, châu ở 3 lộ ấy đã là công cuộc cải cách giáo dục với ý thức mở mang văn hóa hết sức quan trọng.

Bên cạnh đó, cũng cần lưu ý: ngoài cách tuyển chọn nhân tài bổ dụng qua kỳ thi (khoa cử), từ năm 1397, cũng qua Chiếu về cải cách giáo dục nói trên, Hồ Quý Ly muốn thực hiện thêm hình thức đề cử (tiến cử hay tuyển cử): “Hằng năm, cứ đến cuối năm, lựa chọn người nào vào hạng ưu tú tiến cống vào triều, Trẫm sẽ thân hành thi lại rồi cất nhắc bổ dụng” (*) .

2. Cải cách chế độ thi cử

Cuối tháng 2 năm Canh Thìn (1400), Hồ Quý Ly lên ngôi; 6 tháng sau ông đã tổ chức kỳ thi Thái học sinh, chọn được 20 người (*) .

Hồi đầu đời Trần, về việc thi, thể văn không được nhất định, Quý Ly cải cách lại như sau:

a) Từ năm Bính Tý (1396), Hồ Quý Ly định ra cách thức thi chọn nhân tài (thi Cử nhân) một cách cụ thể, dùng thể văn bổn kỳ và bỏ lối ám tả cổ văn.

Thể văn bốn kỳ (Tứ trường văn thể) là:

– Kỳ thứ nhất: thi một bài kinh nghĩa, có đoạn phá để, tiếp ngữ, tiểu giảng, nguyên để, đại giảng, kết luận; giới hạn từ 500 chữ trở lên.

– Kỳ thứ hai: thi một bài thơ Đường luật và một bài phú cổ thể hoặc thể Ly tao, thể văn tuyển; riêng bài phú cũng phải từ 500 chữ trở lên.

– Kỳ thứ ba: thi chiễu, chế, biểu, mỗi thể một bài; bài chiếu theo thể đời Hán, bài chế và bài biểu theo thể tứ lục đời Đường.

– Kỳ thứ tư: thi một bài Văn sách, dùng điển tích ở sách kinh, sách sử và thời sự để ra đầu bài, giới hạn 1.000 chữ trở lên (*) .

Ngoài ra, các khoa thi được quy định như sau: Cứ năm trước thi Hương thì năm sau thi Hội; người nào trúng tuyển được chính nhà vua ra đề thi gồm một bài Văn sách để xếp hạng cao thấp.

Trong chế độ thi cử ở nước ta, từ “Hương”, “Hội”, “Cử nhân” bắt đầu có từ đấy.

b) Đến năm Giáp Thân (1404), dưới triều Hồ, việc thi được sửa đổi lần nữa. Thay vì 4 kỳ như quy định năm 1396, vua Hán Thương tổ chức thêm 1 kỳ thi gồm thi viết chữ và làm toán. Tổng cộng thành ra 5 kỳ thi.

Cứ 3 năm mở 1 khoa: tháng 8 năm nay thi Hương, người nào trúng tuyển được miễn lao dịch; đến tháng 8 năm sau dự thi ở bộ Lễ, người nào trúng tuyển mới được chọn bổ dụng; lại tháng 8 năm sau nữa thi Hội, người nào trúng tuyển được bổ vào Thái học sinh (tức Tiến sĩ sau này)... Năm sau nữa lại bắt đầu khoa thi Hương khác như 3 năm về trước.

Cũng theo quy định này, những quân nhân, người làm trò và kẻ phạm tội đều không được dự bổ (*) .

Chế độ thi cải cách như nói trên chỉ mới thực hiện được 2 năm, sĩ tử mới dự thi xong ở bộ Lễ, có 170 người trúng tuyển, chưa kịp thi Hội thì quân Minh tiến công xâm lược nên không tổ chức thi được nữa.

Ở đây, một tiến bộ đặc biệt trong hệ thống tư tưởng cải cách của Hồ Quý Ly là đưa vào chương trình thi Hương ở đầu thế kỷ XV môn toán pháp (*) , một việc mà hàng mẫy trăm năm sau, trước khi người Pháp tới xâm chiếm nước ta cũng chẳng có triều đại nào nghĩ tới việc thi toán đối với những người sắp được bổ ra làm quan.