← Quay lại trang sách

MỤC 7 CẢI CÁCH XÃ HỘI

Công cuộc cải cách xã hội của Hồ Quý Ly cho thấy trong việc thực hiện lý tưởng chính trị của mình, họ Hồ không ngừng hoạt động cho sự công bằng xã hội, nâng cao mức sống của quảng đại quần chúng nhân dân, hạn chế thế lực của các đẳng cấp phi sản xuất lại ăn trên ngồi trước, quyết đưa đất nước đến chỗ công bằng, tiến bộ, văn minh hơn so với trước đó.

I. CHÍNH SÁCH HẠN NÔ

Đồng thời với chủ trương cải cách ruộng đất, một chính sách nổi tiếng về mặt xã hội của Hồ Quý Ly là hạn chế gia nô, ban hành vào năm thứ 2 đời nhà Hồ (1401) nhằm hạn chế việc dùng dân nghèo làm nô tỳ cho địa chủ, quý tộc.

1. Nội dung chính sách hạn nô

Đại Việt sử ký toàn thư chép về chính sách này như sau: “Hán Thương lập phép hạn chế gia nô, chiếu theo phẩm cấp được có số lượng khác nhau, còn thừa phải dâng lên, mỗi tên được trả 5 quan tiền. Người nào đáng được có gia nô phải xuất trình chúc thư 3 đời. Nô người nước ngoài thì không theo lệ này.

Các nô đều thích vào trán để đánh dấu. Quan nô thì thích hình viên ngọc hỏa châu, có khi lấy bổ sung vào quân điện tiền; của công chúa thì thích hình cây dương, cây đường; của đại vương thì thích hai khuyên đỏ, của quan nhất phẩm thích một khuyên đen; của quan nhị phẩm trở xuống thích hai khuyên đen” (*) .

Như vậy, chính sách hạn nô của Hồ Quý Ly bao gồm mấy nội dung chủ yếu sau đây:

– Mỗi quý tộc vẫn được nuôi một số gia nô nhẩt định (không rõ bao nhiêu - TG); sổ còn dư ra phải sung công làm quan nô của Nhà nước.

– Nhà nước xuất công quỹ bù cho quý tộc, mỗi gia nô bị sung công là 5 quan tiền.

– Để biết nô tỳ của ai, mỗi gia nô đều phải ghi dấu hiệu vào trán.

2. Lý do, mục đích ban hành chính sách hạn nô

– Cùng với chính sách hạn điền, phép hạn nô của Hồ Quý Ly nhằm hạn chế quyền lợi và làm suy yếu lực lượng của các nhà quý tộc có quyền lợi gắn chặt với vương triều Trần vừa sụp đổ. Đại Việt sử ký toàn thư chép: “Bấy giờ bọn sĩ đại phu tham phú quý, mong được lòng của họ, dâng thư khuyên giết hại con cháu nhà Trần, giảm bớt số ruộng và nô để nén bớt thế lực của họ, như bọn Hoàng Hối Khanh, Nguyễn Hy Chu, Đổng Thức, còn lại thì nhiều vô kể” (*) .

Thực vậy, trong xã hội thời Trần, quyền sở hữu đất đai của tư nhân được pháp luật thừa nhận vô giới hạn, nhất là đối với các vương hầu, quý tộc được phép khai khẩn và chiếm hữu, mở rộng diện tích các điền trang, thái ấp. Tầng lớp địa chủ chiếm hết ruộng đất, làm nông dân không có tư liệu sản xuất để sinh sống. Thiên tai thường xuyên xảy ra gây cho nhân dân cảnh nghèo đói. Dân nghèo không còn con đường nào khác hơn là bán ruộng đất, nhà cửa hoặc tự bán thân mình, bán vợ đợ con đi làm nô (đày tớ trai), tỳ (đày tớ gái) cho địa chủ. Thành thử chế độ nô tỳ đã bị hạn chế dưới thời Lý thì lại tái sinh dưới thời Trần, phát triển mạnh từ tháng 10 năm Bính Dần (1266) đời Trần Thánh Tông đến tháng 6 năm Đinh Sửu (1397) đời Trần Thuận Tông.

Tầng lớp nô tỳ ngày càng trở nên đông đảo, số phận của những “công cụ biết nói” đó ngày càng gắn chặt vào địa chủ, quý tộc. Họ trở thành một lực lượng tôi đòi hoàn toàn phụ thuộc vào quyền sinh sát của chủ. Trên thực tế, tầng lớp địa chủ, quý tộc tập trung được trong tay nhiều ruộng đất, đông nô tỳ như vậy đã ảnh hưởng không nhỏ đến việc thu thuế, việc binh dịch và lao dịch của Nhà nước, và nói chung là ảnh hưởng đến quyền lực của Nhà nước quân chủ trung ương tập quyền... Do đó, một việc làm đặt ra cấp bách đối với vương triều Hồ là phải lập tức phá vỡ cơ chế quyền lực tản mạn ẫy, chủ yếu là phá vỡ toàn bộ thế lực của quý tộc Trần vốn là tầng lớp vừa bị Hồ Quý Ly đánh đổ.

Nhưng triệt hạ thế lực quý tộc không phải là mục đích duy nhất của Hồ Quý Ly mà qua chính sách hạn nô, nhà đã nhắm tới mục tiêu giải phóng tầng lớp nô tỳ vốn đã hình thành và phát triển trong xã hội cũ hàng thế kỷ bằng cách chuyển một số lớn nô tỳ của tư nhân (quý tộc) thành quan nô (nô tỳ của Nhà nước) và một số trong họ được chuyển thẳng, bổ sung vào đội quân điện tiền của Nhà nước.

Đành rằng làm như vậy có thể chưa phải là phương cách giải phóng triệt để, trọn vẹn, bởi trước mắt việc đó xem ra chẳng khác nào hiện tượng “dịch chủ tái nô”. Nhưng xét thực tế, nếu không thông qua giải pháp đó, công cuộc giải phóng nô tỳ chắc chắn sẽ không thực hiện được. Thật vậy, dù cho cuộc đời nô tỳ có khổ sở đến đâu, kẻ nô tỳ lúc ban đầu vẫn có sự “tự nguyện” để xin được gia nhập vào đội ngũ ấy và họ vẫn muốn không bị mất chỗ làm! Một cuộc cải cách nào đó tách nô tỳ ra khỏi chủ nô mà không giúp cho họ có việc để làm, có phương tiện để sinh sống thì cũng tức là tạo cho họ điều kiện được tự đo... để chết đói, khi đó họ có muốn trở lại làm kiếp nô tỳ cũng không được vì chủ cũ của họ đã đủ chỉ tiêu do Nhà nước định rồi! Thật không có gì hãi hùng cho bằng đưa họ trở lại cuộc đời mà chính họ đã “tự nguyện” từ bỏ trước đó để đi làm nô tỳ! Xét về mọi phương diện, Nhà nước Hồ lúc đó chắc chắn không còn khả năng nào khác để giải phóng nô tỳ hơn là tách ngay nô tỳ ra khỏi sự bóc lột triệt để của địa chủ, quý tộc, để đặt họ dưới sự quản lý, điều động trực tiếp của Nhà nước với tư cách quan nô. Sự chuyển đổi chủ từ tư nhân qua Nhà nước không phải để xóa ngay cuộc sống nô lệ, mà khi chuyển thành quan nô, Nhà nước sẽ tạo điều kiện cho tầng lớp nô tỳ phấn đấu vươn lên tới chỗ có thể tự giải phóng được mình. Chắc chắn với tấm lòng và tài trí của Hồ Quý Ly, nhà Hồ đã có kế hoạch triển khai chính sách hạn nô để cứu vớt cuộc đời tầng lớp nô tỳ, trước mắt có thể như đưa quan nô đi sản xuất nông nghiệp trong phạm vi thuộc sở hữu Nhà nước; đi khai khẩn vùng đất mới ở Thăng Hoa; tổ chức cho quan nô tham gia sản xuất tiểu thủ công nghiệp; đào hào, đắp lũy, làm đường sá, đê điều; cũng có thể phối hợp lao động sản xuất của quan nô với những đội cùng nhân mà vua Hán Thương đã ra lệnh biên chế vào năm 1404... Những việc này tuy sử liệu không thấy ghi lại nhưng chắc chắn là có, dưới hình thức này hoặc hình thức khác, bởi không dễ gì một Nhà nước đang lâm cảnh công khố trống rỗng, đang còn phải đối phó với nhiều yêu cầu chi tiêu cấp bách mà dám bỏ ra cho mỗi nô tỳ 5 quan tiền (*) để chuộc họ về mà không có khoản sinh lợi vật chất nào khác do chính họ làm ra để bù đắp lại...

Nói chung, chính sách hạn nô của Hồ Quý Ly về mặt chính trị có tác động làm suy yếu, đi đến triệt hạ toàn bộ thế lực của tầng lớp quý tộc, đại thần chế độ cũ; về mặt xã hội có khả năng giải phóng tầng lớp nô tỳ và về mặt kinh tế có thể xây dựng nên một lực lượng lao động mới đặt dưới sự điều động, quản lý trực tiếp của Nhà nước.

II. MỞ RỘNG CÁC CHÍNH SÁCH XÃ HỘI

Chính sách xã hội cũng được Hồ Quý Ly quan tâm chăm sóc.

1. Chính sách tôn giáo đối với nhà chùa

Đến cuối đời Trần, Phật giáo ở nước ta vẫn còn thịnh. Nhà chùa là nơi lãnh đạo tinh thần của bá tánh, đồng thời là nơi nắm giữ một phần thế lực kinh tế, vì chùa nào cũng thường có nhiều ruộng đất và có cả thế lực chính trị nữa. Nhưng thực tế không phải lúc nào trong chùa cũng gồm toàn những bậc chân tu, thánh thiện. Cho nên, từ khi nắm được chính quyền, Hồ Quý Ly vốn đã nhìn thấy mặt trái của các tổ chức nhà chùa và ông bắt tay ngay vào việc chỉnh đốn.

Năm 1396, Hồ Quý Ly đã làm Phụ chính cai giáo hoàng đế, là người giúp vua giữ chính quyền kiêm cả việc dạy bảo vua. Mùa xuân, tháng Giêng năm Bính Tý (1396), Quý Ly ra lệnh bắt các tăng sư chưa đến 50 tuổi phải hoàn tục. Ai muốn đi tu phải thông hiểu kinh giáo và phải trải qua một kỳ thi. Người nào thi đỗ thì được cho làm chức Đường đầu thủ (Tăng đường đầu mục). Tri cung, Tri quán, Tri tự hoặc cho làm người tu luyện pháp môn trong chùa (tu nhân), làm tăng phục vụ cho sư trưởng (thị giả) (*) .

Chính sách ấy lẽ dĩ nhiên không sao tránh khỏi đụng chạm đến quyền lợi của một số người nhưng cũng có tác dụng hạn chế bớt những sự việc tiêu cực từng diễn ra ở cửa thiền, loại bỏ những kẻ lười biếng, không xứng đáng, trốn tránh trách nhiệm đối với xã hội (*) ; đồng thời qua đó nâng cao trình độ và đạo đức của những người lãnh đạo tinh thẩn quần chúng, ai xứng đáng thì Nhà nước ban cho chức làm sư...

2. Quan tâm các hoạt động xã hội, từ thiện

a) Lập Quảng tế thự khám chữa bệnh cho dân: Dưới các đời trước, ở triều đình đã có tổ chức Thái y viện là cơ quan chuyên trách chữa bệnh cho vua và hoàng tộc. Còn việc chữa bệnh của nhân dân thì dân chúng tự lo liệu bằng kinh nghiệm dân gian hay do tư nhân giúp đỡ... Năm Quí Mùi (1403), Quý Ly lập ra cơ quan Quảng tế thự là bệnh viện công của Nhà nước chuyên lo việc chữa bệnh cho dân. Nguyễn Đại Năng là một phương sĩ (*) chuyên khoa châm cứu được cử chức Quảng tế tự thừa, trông nom việc chữa bệnh ở đây. Đây là lần đầu tiên trong lịch sử y tế nước ta, Nhà nước lập ra cơ quan y tế công và cử quan chuyên trách chăm sóc sức khỏe cho dân (*) . Cùng với việc mở rộng mạng lưới trường công xuống tận các địa phương, chính sách mở cơ quan y tế công chăm sóc sức khỏe cho dân đã cho thấy quan điểm của Hồ Quý Ly về vai trò của Nhà nước đỗi với đời sống xã hội đã được nâng cao.

b) Tổ chức các đội cùng nhân ở địa phương: Năm Giáp Thân (1404), Hán Thương lệnh cho các lộ biên chế những người không có ruộng làm đội cùng nhân (*) , tức là đội lao động bao gồm những người cùng khổ, không có phương tiện sinh sống. Những đội cùng nhân này có thể được điều đến vùng đất hoang chưa được khai phá đang cần lao động và cấp đất để giúp họ sinh cơ lập nghiệp.

c) Tổ chức cứu đói: Từ năm 1401, Nhà nước Hồ lập ra các kho Thường bình ở các lộ có nhiệm vụ dùng tiền công khổ thu mua lúa thóc trong dân khi thị trường dồi dào, để chứa vào kho; đến khi gặp thiên tai, mất mùa, lương thực khan hiếm, giá cả tăng cao, thì Nhà nước đem bán ra với giá phải chăng hay chẩn cấp, cứu đói cho dân... Xét về mặt kinh tế, kho Thường bình có chức năng tham gia quản lý thị trường, điều tiết cung cầu lương thực trong nước; về mặt xã hội, đây là biện pháp cứu đói thiết thực đối với dân nghèo. Bên cạnh đó, trong những lần nạn đói xảy ra, Nhà nước thường tổ chức để chính quyền các địa phương kiểm tra số lúa thóc tồn kho và vận động những nhà giàu bán với giá thương lượng hay lạc quyên phát chẩn cho dân... Những người đóng góp lúa thóc để góp phần giải quyết nạn đói được Nhà nước ban tước.

d) Nâng đỡ dân nghèo, cô nhi quả phụ: Trong biện pháp hợp lý hóa đối tượng thụ thuế ban hành năm 1402, thuế đinh được miễn đối với những đinh nam không có ruộng cũng như trẻ mổ côi, đàn bà góa dù có ruộng cũng được miễn thuế. Qua biện pháp thuế khóa này, cho thấy Nhà nước Hồ đặc biệt quan tâm đến đời sống dân chúng nghèo đói, neo đơn và định ra tiêu chuẩn về những đối tượng thuộc diện chính sách để được Nhà nước chiếu cố, giúp đỡ.

đ) Chính sách phụ lão: Bên cạnh thành phẩn cô nhi, quả phụ, các phụ lão cũng là đối tượng trong dân được vua Hồ quan tâm chăm sóc. Năm 1405, Quý Ly thấy mình đã 70, bèn ban cho các phụ lão ở các lộ từ 70 tuổi trở lên mỗi người hưởng tước 1 tư; đối với các cụ bà thì ban cho tiền. Còn ở kinh thành thì ngoài việc ban tước còn ban cho tiệc rượu (*) .

Việc trên xảy ra vào năm nhà Minh bắt đầu khiêu khích xâm lược nước ta, hẳn Quý Ly cũng thấy rõ vai trò của người già, tầng lớp có nhiều uy tín trong gia đình và ngoài xã hội. Bằng cách cư xử “tranh thủ lòng dân” này chắc chắn Quý Ly sẽ có lợi trong việc tuyên truyền, vận động quẩn chúng ủng hộ nhà, đoàn kết đấu tranh chống xâm lược phương Bắc, qua đó cũng cho thấy Quý Ly là một nhà chính trị tinh tế và khéo léo, tỏ ra biết quan tâm đến mọi tầng lớp nhân dân, bằng những việc làm xã hội mang tính chất thiết thực, thể hiện nghĩa cử thân dân, vì dân của mình.

•••

Chính trị là việc cao cả và phức tạp, nhưng chính trị lại thường khi thể hiện bằng những việc làm thực tế, giản dị, ở mọi lĩnh vực. Vào thời đại Hồ Quý Ly, lịch sử đã ghi nhận một con người hoạt động chính trị thông minh, có khả năng hành động, có bản lĩnh ứng xử linh hoạt trong mọi tình huống... lất cả để phục vụ mục đích to lớn nhất là lý tưởng chính trị. Lý tưởng ấy lúc nào cũng nghiêng hẳn về quần chúng, lo lắng cho sự thịnh vượng của đất nước, đời sống ấm no của nhân dân, xóa bỏ bất công xã hội...

Giá mà Hồ Quý Ly có đủ thời gian, có đủ điều kiện để nhìn thấy và khắc phục kịp thời các mặt hạn chế trong việc cải cách và trị nước của mình, cùng với trình độ trưởng thành về chính trị của quần chúng nhân dân lúc bấy giờ cao hơn, thì có thể ông đã có thể vượt qua được bao nhiêu trở lực, đưa nước nhà đến tiến bộ vinh quang.