CHƯƠNG III VƯƠNG TRIỀU HỒ SỤP ĐỔ
Trong lịch sử nước ta, từ đầu thế kỷ XV trở về trước chưa có triều đại nào để ra được chính sách cải cách toàn diện, có hệ thống và thực hiện công cuộc cải cách một cách kiên quyết, táo bạo như Hồ Quý Ly và nhà Hồ. Nhưng trong suốt lịch sử dân tộc Việt Nam mấy ngàn năm, trước và sau nhà Hồ, cũng không có một triều đại nào phải chịu sự thất bại nặng nề, thảm hại, dẫn đến hậu quả mất nước một cách nhanh chóng như nhà Hồ!
Có thể nói công cuộc quản lý Nhà nước, quản lý xã hội trong hơn 20 năm cầm quyền của Hồ Quý Ly và nhà Hồ đã thể hiện qua nội dung chính sách cải cách về các mặt chính trị, quân sự, kinh tế, văn hóa, giáo dục, xã hội... Trong thời gian tương đối ngắn ngủi, các chính sách cải cách ấy đã đạt được những kết quả tiến bộ nhất định. Tuy nhiên, công cuộc cải cách được thực hiện trong hoàn cảnh đẩy khó khăn, phức tạp của đất nước, vừa phải giải quyết cuộc khủng hoảng bên trong vừa phải đối phó với nạn xâm lược bên ngoài nên không sao tránh khỏi một số mặt hạn chế. Điều hạn chế cơ bản nhất là do bản thân các chính sách cũng như việc tiến hành cải cách đã có những điều không phù hợp với yêu cầu phát triển của xã hội. Quý Ly đã thấy rõ những vấn đề lịch sử đặt ra vào cuối thế kỷ XIV ở nước ta, ông đã nỗ lực giải quyết nhưng ông đã không thành công khi đương đầu với những vấn đề đó.
Sự hạn chế ấy đã góp phần làm cho thế lực quân sự của nhà Hôg bị suy yếu, từ đó dẫn đến sự thất bại nhanh chóng trước cuộc xâm lược của quân Minh. Và ngược lại, sự thất bại trên mặt trận quân sự - quốc phòng đã làm sụp đổ hoàn toàn Nhà nước và công cuộc cải cách của họ Hồ trên mọi lĩnh vực.
I. MẶT HẠN CHẾ TRONG CẢI CÁCH CỦA HỒ QUÝ LYCó thể nói Hồ Quý Ly là người rất có tài, một nhà chính trị đa mưu túc trí, một nhà cải cách kiên quyết và táo bạo, một người có ý thức dân tộc mạnh mẽ thể hiện qua hành động thực tế của mình... Song những cải cách và biện pháp thực hiện cải cách của ông về căn bản đã không đem đến thành công. Sự thất bại bắt nguồn từ nhiều nguyên nhân sâu xa, mang tính quyết định.
1. Về mặt chính trịViệc giành lấy ngôi vua có thể coi là một hành động cải cách chính trị kiên quyết và triệt để nhất của Phụ chính Hồ Quý Ly hòng nắm lấy trọn vẹn chính quyền vào tay họ Hồ, đẩy mạnh công cuộc cải cách đang gặp phải nhiều trở lực. Song đó lại là một hành động táo bạo, giẫm đạp lên bao nhiêu giáo điều chính trị Khổng - Mạnh, luân lý và đạo đức chính thống của xã hội đương thời.
Mặc dù trong học thuyết Nho giáo, bên cạnh chủ trương tôn quân quyền, cũng không loại trừ hành vi lật đổ, thay thế các vua bất xứng, tàn bạo; song do ảnh hưởng của chính trị quân quyền và sự biến đổi của Nho giáo trong lúc hành đạo, quan điểm đạo Nho chỉ chú ý tưởng lệ sự trung tiết, nhăn mạnh nghĩa vụ tôn quân hơn là đề cập đến việc lật đổ vua bất xứng. Do đó, hành vi thoán đoạt ngôi vua của Quý Ly dù nhằm mục đích gì cũng phải hứng chịu nhiều “búa rìu dư luận”. Quý Ly bị lên án nặng nề chứ ít ai ca ngợi ông. Từ giới nho sĩ là tầng lớp thống trị xã hội lúc bấy giờ đến các tầng lớp quần chúng nhân dân, ai cũng sẵn sàng và tích cực kết tội Quý Ly là kẻ soán nghịch, một gian thần cướp ngôi nhà Trần.
Sau này, Trần Trọng Kim - một nhà nho đầu thế kỷ XX vẫn còn kết luận: “Nhưng vì cái lòng tham xui khiến, hễ đã có thế lực là sinh ra bụng muốn tranh quyền cướp nước. Bởi thế Hồ Quý Ly mới làm sự thoán đoạt và nhà Minh mới có cái cớ mà sang đánh lấy nước An Nam. Cũng vì cái cớ ấy, cho nên lòng người mới bỏ họ mà theo giặc, để đến nỗi cha con họ Hồ thua chạy, bị bắt, phải đem thân chịu nhục ở đất nước người” (*) .
2. Về chính sách hạn điềnQua Đại Việt sử ký toàn thư và Việt sử thông giám cương mục chép nội dung chính sách hạn điền của Hồ Quý Ly (“Đại vương và Trưởng công chúa thì số ruộng không hạn chế; đến thứ dân thì số ruộng là 10 mẫu”) cho thấy chính sách hạn điền đã có phần không triệt để (trừ Đại vương và Trưởng công chúa, họ có quyền sở hữu ruộng đất vô giới hạn) mà mặt khác cũng không cho ta biết rõ số phận ruộng đất của tầng lớp tôn thất, các loại quý tộc, quan liêu (dưới thành phần Đại vương và Trưởng công chúa mà trên thứ dân) được giải quyết như thế nào? Nếu hiểu quy định ấy theo cách hiểu của nhiều người là “trừ bậc Đại vương và Trưởng công chúa ra, còn lại tất cả mọi người khác đều không ai được có quá 10 mẫu ruộng” thì quả thật chính sách ấy đã có sự cào bằng đồng loạt, đi ngược lại với trật tự xã hội đương thời từ lâu đã tồn tại sự phân chia đẳng cấp rất nặng nề. Chính sách ấy không thể làm thỏa mãn các tầng lớp tôn thất, quý tộc cũ của nhà Trần lại cũng không thỏa mãn quyền lợi kinh tế của phe cánh quý tộc mới tập hợp xung quanh Hồ Quý Ly.
Còn đối với các tầng lớp nông dân nghèo khổ không có ruộng? Sử liệu không cho thấy có sự phân phối lại ruộng đất cho đối tượng dân nghèo nào mà sau cải cách tất cả ruộng đất truất hữu đều tập trung hết vào tay Nhà nước. Dù cho sự tập trung ruộng đất vào tay Nhà nước là nhằm để thực hiện mục đích kinh tế - xã hội to lớn của Nhà nước nhưng thời gian ngắn ngủi chỉ đủ cho người ta thấy việc cải cách của Hồ Quý Ly không đem đến cho nông dân nghèo quyền lợi cụ thể, thiết thực. Chính vì vậy mà khi tiến hành công việc khai báo, đo lại ruộng đất của từng người, Hành khiển Hà Đức Lân đã nói mỉa rằng: “Đặt ra phép này chỉ để cướp ruộng của dân thôi” (*) .
Như vậy, bước đầu thực hiện chính sách hạn điền, rõ ràng giới vương hầu, quý tộc, giàu có thì bị tước mất ruộng đất còn tầng lớp nô tỳ, nghèo đói thì chưa thấy được hưởng lợi lộc nào!
3. Về chính sách hạn nôTừ năm 1397, thực hiện chính sách hạn điền, Nhà nước có thêm được diện tích ruộng công đáng kể, trong khi đó trong tay các vương hầu, quý tộc lại dôi ra số gia nô không có đất để canh tác. Tình trạng mất thăng bằng giữa số lượng lao động trên diện tích đất bị thu hẹp kéo dài 4 năm đã được nhà Hồ kịp thời điều chỉnh bằng chính sách hạn nô ban hành năm 1401. Nếu chính sách hạn nô có mặt tích cực về lâu dài là tạo điều kiện ban đầu để tiến tới giải phóng tầng lớp gia nô thì trước mắt, việc tách rời họ với chủ ít nhiều cũng gieo vào lòng tầng lớp dân nghèo khổ ấy một sự hoang mang, lo sợ, nhất là khi làm nô tỳ cho vương hầu, quý tộc họ còn có thể chọn lựa, có thể được ở gần quê hương, còn khi sung vào lực lượng quan nô của Nhà nước thì họ có thể bị điều động đến bất cứ nơi nào theo yêu cầu của Nhà nước, có thể phải đến làm việc ở những vùng đất xa xôi, biết đâu lại phải đến tận những vùng hoang vu mới chiếm được... Thời ấy, mặc dù nhà đã có chuẩn bị cẩn thận cho các công trình di dân khai khẩn đất mới, nhưng nhà Hồ cũng không sao ngăn chặn được luồng dư luận hoang mang trong dân chúng khi mà vào năm 1403 đã có chuyện không may xảy ra đối với những người di dân: “Những người này, lúc đi đường biển gặp gió bão, bị chết đuối nhiều. Lòng dân rất là náo động” (*) .
Một điểm rất đáng để ý về mặt tâm lý, đối với tầng lớp nô tỳ, không phải lúc đó họ có thể hiểu được đầy đủ ý nghĩa của việc giải phóng họ khỏi kiếp sống nô tỳ, như một nhà tư tưởng (*) đã từng viết: “Người nô lệ mẫt hết trong gông cùm, mất cả lòng mong muốn thoát khỏi vòng nô lệ: họ yêu thích kiếp tôi tớ của họ, giống như bộ hạ của Ulysse yêu thích sự ngu đần của chúng”.
4. Về chính sách tiền giấyTrong lịch sử tiền tệ, việc xuất hiện tiền giấy là một hiện tượng tiến bộ. Nó có ưu điểm là đối với nhân dân, tiền giấy là phương tiện trao đổi gọn nhẹ, dễ cất giữ, tiện di chuyển hơn tiền đồng. Đặc biệt đối với Nhà nước Trần lúc đó, việc phát hành tiền giấy nhất thời có thể giải quyết được nhiều khó khăn tài chính cấp bách, đáp ứng cho nhiều công trình lớn phải chi dùng công quỹ mà khả năng quốc khố lại đang bị cạn kiệt. Tuy nhiên, việc phát hành tiền giấy của Hồ Quý Ly cũng thật là một biện pháp quá sớm và quá táo bạo mà lúc ấy uy tín của chính quyền nhà Trần cũng như uy tín của riêng cá nhân Hồ Quý Ly không đủ để đảm bảo cho giá trị của tiền giấy, trong khi đó cũng không có bản vị nào, không có gì khác để bảo đảm cho giá trị của nó.
Ngày nay, không ai còn có thể thấy được tiền giấy Hồ Quý Ly, không thể biết được hình dáng, chất giẫy, cách vẽ, màu sắc và kỹ thuật in tiền giấy thời ấy như thế nào. Song có thể suy đoán vào thời Hồ Quý Ly, chắc hình thức và chất lượng tiền giấy cũng chưa được bảo đảm lắm: chất giấy không cao để có thể sử dụng lâu ngày mà khỏi hư rách, kỹ thuật in không đủ bảo đảm tránh khỏi sự làm giả. Vì ở nước ta, giữa thế kỷ thứ XV, Lương Nhữ Học trong khi đi sứ sang Trung Quốc đã học được nghề khắc bản in bằng gỗ và đã truyền lại nghề này trong nước. Trước đó mọi công việc in bằng bảng khắc gỗ đều phải nhờ thợ Trung Hoa” (*) . Vả lại, sử cũ cũng chép vào năm Quý Mùi (1403) tức đã 7 năm sau khi phát hành, tiền giấy Thông Bảo hội sao vẫn không được dân chúng tin dùng nên Nhà nước đã phải “định giá tiền giấy cho mua bán với nhau. Bấy giờ, người buôn bán phần nhiều chê tiền giấy. Lại lập điều luật để xử tội không tiêu tiền giấy, bán giá cao, đóng cửa hàng, bao che giúp nhau” (*) . Điều đó chứng tỏ tiền giấy Thông Bảo hội sao được đưa ra lưu hành bằng sự cưỡng bức của pháp luật, đã không được dân chúng hưởng ứng, tín nhiệm!
Tiền giấy lúc ấy chưa phải là yêu cầu thiết yếu đối với một nền kinh tế hàng hóa chưa phát triển tới trình độ cao. Thực ra, nền kinh tế hàng hóa ở nước ta vào cuối thế kỷ XIV có phát triển hơn trước nhưng nông nghiệp vẫn là căn bản của nền kinh tế quốc gia, vẫn chưa có dấu hiệu gì chứng tỏ cơ chế kinh tế thời ấy đòi hỏi cần phải có tiền giấy. Chính vì vậy, phát hành tiền giấy lúc ấy chủ yếu phát xuất từ yêu cầu tài chính của Nhà nước, từ ý muốn chủ quan của người cầm quyền, nên nó chỉ được bảo đảm thực hiện bằng sự cưỡng bách của Nhà nước, bằng biện pháp pháp luật cưỡng chế mạnh mẽ để bắt buộc người dân sử dụng.
Sự thật là tiền giấy lúc ấy còn hết sức xa lạ đối với người dân, tâm lý của nhân dân sợ mất của khi phải đem “tài sản của mình đáng giá 5, 6 trăm đồng đổi lấy một mảnh giấy vuông chỉ đáng giá 5, 3 đồng tiền” thì làm sao mà họ khỏi lo âu, xao xuyến... Quần chúng đón nhận tiền giấy của Quý Ly một cách không tự nguyện, nếu không muốn nói là có sự phản ứng ngược lại bằng nhiều hình thức, dưới nhiều mức độ khác nhau: phần nhiều người tiêu dùng chê tiền giấy, không tiêu tiền giấy, chứa lén, tiêu vụng tiền đồng, làm tiền giấy giả, nâng giá hàng hóa, đóng cửa hàng... Tháng 8 năm Kỷ Mão (1399), Nguyễn Nhữ Cái trốn vào núi Thiết Sơn làm giả tiền giấy để tiêu dùng. Sau chiêu dụ được dân chúng nổi lên cướp bóc ở vùng Lập Thạch, sông Đáy, Lịch Sơn, sông Đà, Tản Viên...
Bên cạnh biện pháp cưỡng chế hình sự, Nhà nước cũng đã dùng đến nhiều cách khuyến khích, thúc đẩy, sử dụng tiền giấy: 1 quan tiền đồng đổi lấy được 1,2 quan tiền giấy, thu thuế bằng tiền giấy, Nhà nước dùng tiền giấy mua lúa thóc của dân, thưởng cho các phụ lão bằng tiền giấy v.v...
Mặc dù so với tiền đồng, tiền giấy tiến bộ hơn, nhưng việc phát hành tiền giấy vào cuối thế kỷ XIV chưa hẳn là một biện pháp tài chính hợp tình, hợp thời, hợp cảnh. Không những nó không đáp ứng yêu cầu của nền kinh tế hàng hóa chưa phát triển lúc bấy giờ mà trái lại, nó còn gây nên một số khó khăn nhất định cho đời sống của nhân dân, nhất là góp phần làm gia tăng sự khổ cực cho dân nghèo vì thị trường xáo động, vật giá gia tăng...
5. Để đạt tới mục đích của mình, Quý Ly tích cực vận dụng mọi thủ đoạn, hành động cứng rắn, dứt khoát đến mức độc tài, tàn bạoCông bằng mà nói, qua sử liệu cũ mà người chép đều có ác cảm với Quý Ly, không thấy ông có thói hư tật xấu nào của một người đang nắm quyền thế trong tay như: tham ô nhũng lạm, bê tha trụy lạc, cờ bạc, rượu chè, dâm dật, xa xỉ, ức hiếp nhân dân... Dù pháp luật đương thời cho phép, với tư cách một Đại vương, Quý Ly vẫn không lập điển trang, thái ấp, thu vén cá nhân... Tuy nhiên, trong cuộc đời hoạt động chính trị của mình, thái độ Hồ Quý Ly cho thấy ông là người đấy tham vọng, hết sức ham muốn quyền uy, từ chức thấp ông cố vươn lên chức cao, từ quan hệ xa ông sẵn sàng chụp thời cơ thuận lợi để tạo thêm mối quan hệ gần gũi, tình cảm thân thiết hơn đối với các vua, để rồi từ vị trí một bậc đại thẩn ông giành lấy ngôi hoàng đế...
Trên đường phát triển quyền lực đầy gian lao, nguy hiểm đó, Quý Ly đã tỏ ra là một người đa mưu túc trí đến mức xảo quyệt; ứng xử khôn khéo đến mức quá thủ đoạn; luôn luôn cảnh giác đối với mọi người thành ra đa nghi; nghiêm khắc, thẳng tay đối với những hành vi trái ý mình đến mức thành ra độc tài, độc ác... Với ông, thật là “cứu cánh biện minh cho phương tiện”!
Quý Lỵ thường trừng trị rất nặng thậm chí nhiều khi rất tàn bạo đối với những người có hành vi trái với ý mình, những người dám thẳng thắn góp ý, chỉ trích mình, nhất là những người có hành động cản trở, chống lại chủ trương của mình. Năm 1391, nhân bàn luận việc lợi hại, Phan Mãnh có nói “Trời không thể có hai mặt trời, dân không thể có hai vua” và Chu Bỉnh Khuê nói “Dương liễu nhiều lời, mọi người ngậm miệng” (ý nói: Quý Ly nói nhiều để khóa miệng mọi người). Quý Ly nghe được, cho họ có âm mưu làm loạn nên giết cả... Năm 1395, hai người tôn thất là Nguyên Uyên và Nguyên Dận, khi dự đám tang của Thượng hoàng Nghệ Tông, cứ nói chuyện Nhật Chương mưu giết Quý Ly bị Nghệ Tông giết, nên Quý Ly ra lệnh giết cả hai cùng với sĩ nhân Nguyễn Phù... Năm 1397, khi nghe cung nhân Trần Ngọc Cơ và Trần Ngọc Kiểm nói với vua Thuận Tông là dời đô về Thanh Hóa thế nào cũng có việc cướp ngôi, Quý Ly liền đem giết cả hai cung nhân này cùng với viên Miếu lệnh Lê Hợp, viên Phụ đạo Lương Ông vì cho rằng những người này đồng mưu... Năm 1398, để thực hiện cải cách ruộng đất, Quý Ly lệnh cho những người có ruộng phải khai báo diện tích ruộng. Lúc ấy Hành khiển Hà Đức Lân có nói kín với người nhà rằng “Đặt phép này chỉ để cướp ruộng của dân thôi”. Quý Ly nghe được liền giáng Lân xuống làm Hộ bộ Thượng thư... Năm 1399, Quý Ly tự xưng là Quốc tổ Chương hoàng, mặc áo màu bổ hoàng (màu vàng như nhụy hoa xương bổ). Nguyễn Dụng Phủ dâng thư đại ý nói rằng “Chương hoàng là hiệu gì? Bồ hoàng là sắc gì? Đối với việc phó thác của tiên đế thì thế nào?” Quý Ly liền lệnh cho bắt giam Dụng Phủ hết mấy ngày... Năm 1402, Nguyễn Bẩm dâng thư đề nghị Thượng hoàng Quý Ly nên nhường ngôi về quê, để vua Hán Thương lên làm Thái thượng hoàng và tôn Thái tử Nhuế (con của Hán Thương) lên ngôi vua. Quý Ly tức giận, cho Bẩm có ý chỉ trích mình, liền sai đem chém... Có lẽ hãi hùng nhất là vụ chính biến ở Hội thể Đốn Sơn (1399) vì âm mưu giết Quý Ly bất thành, cả 370 người gồm đại thần, tôn thất nhà Trần đểu bị giết, tịch thu gia sản, con gái bị bắt làm tỳ, con trai từ 1 tuổi trở lên đều bị chôn sống hay dìm xuống nước.
Ngay cả đối với những người cùng phe nếu phản bội hoặc bị Quý Ly ghét thì cũng bị trừng trị thẳng tay. Tướng quân Nguyễn Đa Phương là em đỡ đầu, con của Sư Tề - thầy dạy võ nghệ của Quý Ly; Đa Phương cũng là người tham mưu đồng đảng với Quý Ly, song có lần Đa Phương chê Quý Ly bất tài và làm ra vẻ tự kiêu nên Quý Ly ghét rồi tìm cách gièm với Thượng hoàng Nghệ Tông để bắt Đa Phương phải tự vẫn (năm 1389)... Phạm Khả Vĩnh là bậc thượng tướng được Quý Ly giao cho trọng trách thắt cổ giết vua Thuận Tông, ít tháng sau, Khả Vĩnh đã phải chết vì chính tay Quý Ly do có liên quan đến vụ Hội thề Đốn Sơn (năm 1399)...
Đối với bạn đồng liêu, Quý Ly mạnh tay như vậy; đối với vua, Quý Ly còn quyết liệt hơn nữa. Quý Ly thẳng tay một cách không thương xót đối với những vị vua “bù nhìn”. Quý Ly triệt hạ vua Đế Hiện (Đế Hiện là con vua Duệ Tông và người em gái họ của Quý Ly) bằng cách “òn ỉ” với Thượng hoàng Nghệ Tông để truất phế vua, rồi sai người thắt cổ vua cho chết (năm 1389). Các tướng kéo quân về cứu Phế Đế, làm theo lệnh “giải pháp” của Phế Đế, rốt cuộc cũng bị giết cả (như: Nguyễn Khoái, Nguyễn Vân Nhi, Nguyễn Kha, Lê Lặc, Nguyễn Bát Sách)... Sau khi Thượng hoàng Nghệ Tông qua đời, Quý Ly nắm toàn quyền đối với ông vua rể của mình, rồi bức vua dời đô, xuất gia và sau cùng sai người thắt cổ vua cho chết (1398). Quý Ly cũng truất phế cháu ngoại của mình, song vì Thiếu Đế là cháu ngoại nên Quý Ly không giết (năm 1400)... Cả ba vị vua cuối nhà Trần đều là con cháu của Quý Ly cho nên, dù xuất phát từ động cơ nào, dù nhằm để thực hiện mục đích gì, cách xử sự như vậy đối với vua của mình, đối với con cháu của mình, Quý Ly cũng đã bộc lộ rõ cá tính tàn bạo.
Năm 1389, khi nổi dậy chống triều đình ở Lương Giang, để tạo niềm tin thu hút nhân dân, Nguyễn Thanh đã tự xưng là Linh Đức vương (*) đi lánh nạn. Việc này cho thấy lòng dân lúc đó vẫn thương xót, hướng về vua Trần Phế Đế, coi vua như một nạn nhân đáng thương của “loạn thần tặc tử” Quý Ly...
Đối với ngoài xã hội, trong lúc cần tập trung nỗ lực chống quân Minh, Quý Ly có lệnh cầu hiền, triệu mời Lê Lợi cùng giúp sức. Vốn không phục Quý Ly, Lê Lợi bỏ trốn vào rừng. Quý Ly tức giận mắng nhiếc Lê Lợi rồi ra lệnh truy lùng vì... “tội đáng chém cả họ”! Năm 1406, trong lúc thất thế, trên đường lánh giặc Minh, nghe Ngụy Thức khuyên cha con vua Hồ nên tự thiêu để bảo toàn danh dự, Quý Ly tức giận chém ngay Ngụy Thức...
Có thể nói phong cách xử sự như vậy đã đặt nhà lãnh đạo cải cách Hồ Quý Ly vào vị trí đối nghịch hẳn với bao nhiêu chuẩn mực đạo đức xã hội đương thời, ở đó người ta đề cao lòng tôn quân, nệ cổ, thành tín, lễ nghĩa, chân thật, vị tha, nặng về giáo dục, nhẹ về trừng trị... Công cuộc cải cách của họ do đó cũng phải chịu ảnh hưởng rất nhiều mặt bất lợi.
II. KHÔNG ĐƯỢC SỰ ĐỒNG TÌNH ỦNG HỘ CỦA NHÂN DÂN LÀ NGUYÊN NHÂN QUYẾT ĐỊNH SỰ THẤT BẠI CỦA NHÀ HỒQua nội dung một số chính sách cũng như những biện pháp thực hiện cải cách một cách kiên quyết, triệt để của Hó Quý Ly, bên cạnh tác động tích cực của nó, ông đã đánh mất gần như tất cả uy tín của một vị nguyên thủ quốc gia đối với dân mà sau đó nhà cũng không có chính sách nào khả dĩ lôi kéo được các tầng lớp quý tộc, quan liêu, nho sĩ và quẩn chúng về với mình. Đó là chưa kể lắm lúc qua một số chính sách và việc làm cụ thể, ông đã đẩy các tầng lớp trên, cả xã hội về phía đỗi nghịch với ông, thậm chí họ sẵn sàng tiếp tay hay bỏ chạy sang hàng ngũ của kẻ thù xâm lược... (*)
Kể từ sau vụ phe nhóm quý tộc Trần tổ chức sát hại Quý Ly ở Hội thê' Đốn Sơn thất bại (1399), bị đàn áp đẫm máu với cuộc thanh trừng xử tử hơn 370 người và tiếp theo đó họ Hồ đã phát động một cuộc lùng bắt dư đảng của tôn thất nhà Trần liền suốt mấy năm không ngớt, đến nỗi “người quen biết nhau chỉ đưa mắt ra hiệu, không dám nói chuyện với nhau”!
Tình hình xã hội lúc ấy hết sức ngột ngạt, căng thẳng! Mặc dù sau đó không còn nhen nhúm tổ chức lật đổ, chống đối nào nữa đối với nhà Hồ, song cũng từ đó lòng người như đã xa lìa Quý Ly. Ngay từ những năm cuối nhà Trần, dư luận xã hội đã mở một cuộc phản kích nhắm vào công cuộc cai trị và các mặt cải cách của Quý Ly. Công cuộc tuyên truyền ngấm ngẩm chống lại thế lực họ Hô thể hiện qua các hình thức văn chương, ca dao, huyền thoại lan truyền khắp dân gian, gây ra cuộc chống đối âm ỉ thường xuyên...
Việt Nam phong sử sưu tầm và kể lại nguồn gốc, ý nghĩa các câu ca dao lưu truyền trong dân gian vùng Thanh Hóa, trong đó có truyện kể về hai câu nhằm chĩa mũi nhọn vào nhà:
“Chàng về Hồ, thiếp cũng về Hồ
Chàng về Hồ Hán, thiếp về Hồ Tây”.
Trong lúc xây thành Tây Đô, có viên cống sinh được Quý Ly giao cho quản lĩnh trông coi việc xây dựng. Vợ cống sinh là nàng Bình Khương đã mưu tính với chổng: “Bậc quân tử lập thân trên đời, đạo không gì trọng hơn cương thường, nghĩa phải rõ ràng ở việc đến hay đi (...). Huống chàng là cống sinh của triều nhà Trần chứ đâu phải cống sinh của triều ngụy Hồ mà đem ủy thác thân phận cho ngụy Hồ để luyến mến sủng lộc nhất thời. Sao bằng thề lòng với nước cũ mà được vinh dự toàn danh với ngàn xưa. Chàng khu khu quản lĩnh việc xây cắt, giữ lời ước mà theo người, gọi là chi vậy?”. Âm mưu của hai vợ chồng bị phát giác. Quý Ly rất giận. Nhân việc đắp thành mãi không xong, Quý Ly mới sai đem viên cống sinh ấn vào chỗ thành lở, rồi xây đè lên trên, giết chết. Người vợ đến đấy đau khổ đập đầu vào thành, lấy tay vỗ mạnh vào đá khóc thảm thiết rồi chết. Đá ấy bị lõm sâu vào, còn dấu cái đầu và hai tay, đến giờ vẫn còn...
Vì vậy, dân gian truyền khẩu hai câu ca dao trên. Hồ Tây là nơi cố đô của nhà Trần. Hai câu ca dao ấy có ý nói: Dù chàng theo ngụy Hán Thương, thiếp vẫn theo nhà Trần (*) .
Thành kiến của người đời đối với họ hết sức nặng nề!
Truyện Trinh thử là một tập thơ chữ Nôm gồm 850 câu mà tác giả là một nho sĩ đồng thời với Hồ Quý Ly: Trần triều xử sĩ Hồ Huyền Qui. Qua truyện ngụ ngôn kể tình cảnh của một con chuột bạch góa chồng, tác giả đã lên án Hồ Quý Ly là một tay gian tà, chỉ chực kéo người trung trinh vào bằng đảng của mình để tạo vây cánh làm lợi cho mình. Dưới ngòi bút đại biểu cho tâm trạng chung của giới nho sĩ đương thời ấy, Hồ Quý Ly bị mô tả là ếch ngồi đáy giếng, nịnh thần, đa nghi, vô ân, tham lam, phản bội, sâu dân mọt nước, ích kỷ, vô ích cho xã hội...
“Nàng nghe chàng nói nhỏ to,
Bây giờ mới kể sự Hồ Quý Ly:
Làm người mang tính hồ nghi,
Thấy người cốt ngạnh (*) chẳng vì chẳng yêu.
vẫy vùng ếch giếng tự kiêu,
Tham lam chẳng khác Lý Miêu đời Đường.
Bệ rồng gác phượng tấc gang,
Quên lòng khuyển mã, toan đường dong thân.
Nỡ làm đố quốc (*) hại dân,
Những phần ích kỷ nào phần ích ai?
Rồi ra động đất chuyển trời,
Bây giờ có lẽ đứng ngồi làm thinh (...)” (*)
Rõ ràng công cuộc cải cách của Hồ Quý Ly chưa có đủ điều kiện thời gian để phát huy tác dụng, chưa thấy đem lại lợi ích thiết thực cho quần chúng nhân dân. Trong khi đó, do chưa vận động được các tầng lớp nhân dân hiểu biết và ủng hộ cải cách, lại kiên quyết tiến hành cải cách bằng bạo lực thì bao nhiêu nhiệt tinh của họ Hồ chẳng khác chi hành động của kẻ liều lĩnh, táo tợn, chỉ có “mua thù chuốc oán” mà thôi.
Đó là nguyên nhân thất bại chủ yếu của Hồ Quý Ly và nhà Hồ.
Nguyễn Trãi cũng từng có nhận xét về con người Hồ Quý Ly và chính sự nhà Hồ như sau: “Họ Hồ dùng gian trí để cướp nước, lại lấy gian trí để hiếp lòng dân. Lệnh Bảo sao ban bổ mà mọi người oán nổi thương sinh, việc di dân thi hành mà mọi người kêu bề thất sở. Gia dĩ thuế má phiền, giao dịch nặng, pháp luật ngặt, hình phạt nghiêm. Chỉ vụ ích kỷ phì gia, chẳng nghĩ khổ dân hại nước. Yêu người gần, vị tình riêng. Họ hàng thì người thấp cũng tôn quý, tiện nhân mà người nịnh cũng tin dùng. Nhân mừng mà thưởng khen, nhân giận mà phạt giết. Người trung thực phải khóa miệng, kẻ lương thiện thì ngậm oan. Thế mà còn cứ kiêu ngạo tự tôn; không sợ mệnh trời gieo họa” (*) . Hoặc “Họ Hồ dối trời, hại dân” (*) . Hoặc “Bấy giờ họ Hồ thoán đoạt, người cả nước xem tựa kẻ thù, dân chúng chống lại, thân thích phân ly” (*) . Hoặc “Vừa đây họ Hồ chính sự phiền hà; để đến nỗi nhân tâm oán, phản” (*) ...
Nhận xét của một nhà chính trị lỗi lạc, nhà trí thức, nhà yêu nước họ Nguyễn - người đã từng đỗ đạt vào đầu triều, cha con cùng được giữ chức trọng quyền cao tới cuối nhà Hồ, đã từng tận mắt chứng kiến sự hưng phế của nhà Hồ, rất đáng để đời sau suy ngẫm...
III. CUỘC XÂM LƯỢC CỦA QUÂN MINH LÀ YẾU TỐ BÊN NGOÀI TRựC TIẾP ĐÁNH ĐỔ VƯƠNG TRIỀU HỒTrải qua hơn 1.000 năm Bắc thuộc, sau đó dưới các triều đại độc lập tự chủ, từ Đinh, Lê đến Lý, Trần, thời nào phương Bắc cũng có đưa quân xâm lược nhằm thôn tính nước ta. Nhưng dưới sự lãnh đạo của các Nhà nước quân chủ Đại Cổ Việt và Đại Việt, dân tộc ta đã liên tiếp đập tan mọi ý đồ xâm lược thôn tính của các thế lực bành trướng.
Song, đến đầu thế kỷ XV, trước cuộc xâm lược vũ trang của nhà Minh, Nhà nước Đại Ngu tuy đã quyết tâm chiến đấu kiên trì đến giờ phút chót, nhưng đã không giữ được nước. Vương triều Hồ sụp đổ, công cuộc cải cách của Hồ Quý Ly và nhà Hồ đã phải dừng lại, một lần nữa dân tộc ta phải chịu cảnh mất nước...
1. Cuộc xâm lược của quân Minh - Vương triều Hồ sụp đổNăm Giáp Thân (1404), Trần Khang nguyên là gia nô của Trần Nguyên Huy, sau khi Huy bị bắt tội, Khang đã trốn sang Trung Quốc, đổi tên là Thiêm Bình, giả danh là con cháu của vua Nghệ Tông, Thiêm Bình kể lể sự tình Hồ Quý Ly có hành động thoán nghịch rồi kêu van với Minh triều, xin đưa quân sang giúp mình phục quốc.
Mặc dù năm trước (1403) nhà Minh đã phong cho Hồ Hán Thương làm An Nam Quốc vương, nay Minh Thành Tổ (*) vẫn cứ trách nhà Hồ làm việc tiếm nghịch, cướp ngôi của nhà Trần, rồi sai Hàn Quan và Hoàng Trung dẫn 5.000 quân (*) hộ tống Thiêm Bình về nước để lên ngôi vua. Quân Minh vừa tiến đến ải Chi Lăng thì bị quân chặn đánh. Quân Minh thua, bèn giải giao Thiêm Bình sang cho quân để xin được toàn mạng trở về nước. Thiêm Bình bị bắt giải về kinh, bị xử lăng trì (*) .
Sau khi đánh tan đạo quân hộ tống Thiêm Bình, triều Hồ cử sứ sang nhà Minh giải thích về sự gian trá của Thiêm Bình và xin cống nạp như cũ, nhưng các sứ giả Việt đều bị nhà Minh giữ lại không cho về.
Lần này, nhà Minh quyết tâm tiến hành trực tiếp cuộc xâm lược nước ta. Chúng huy động trên 20 vạn quân bộ binh và kỵ binh cùng với hàng chục vạn dân phu vận chuyển do Chu Năng, Trương Phụ, Mộc Thạnh chỉ huy Chu Năng làm Đại tướng; Trương Phụ và Mộc Thạnh làm Tả, Hữu phó tướng; Lý Bân, Trần Húc làm Tả, Hữu tham tướng, chia quân ra hai đạo tiến sang đánh nước ta. Một cánh do Trương Phụ từ Quảng Tây tiến vào Lạng Sơn, ở phía đông; một cánh do Mộc Thạnh chỉ huy từ Vân Nam, theo dọc sông Hồng tràn xuống, ở phía tây. Đồng thời nhà Minh sai mang sắc dụ vua Chiêm phối hợp tấn công ta ở biên giới phía nam. Sau khi Chu Năng bị bệnh mất, Trương Phụ lên thay quyền thống lĩnh toàn quân.
Dưới chiêu bài “phù Trần diệt Hồ”, từ biên giới, chúng dùng thủ đoạn tâm lý chiến kể tội nhà Hồ, viết bài hịch vào nhiều miếng ván, gỗ rồi thả cho trôi giạt theo dòng nước, đi khắp nước ta. Nội dung bài hịch kể tội họ Hồ và nói quân Minh sang là để giúp khôi phục dòng dõi nhà Trần, dẹp loạn Hồ, cứu dân Nam khỏi bị khốn khổ... Tâm lý quân Hồ bị dao động, một số bỏ qua đầu hàng giặc Minh.
Ngày 9 tháng 10 năm Bính Tuất (19-11-1406), quân Minh vượt biên giới tràn sang. Trước sức tấn công ồ ạt của quân Minh, quân Hồ quyết thủ thành Đa Bang. Nhưng chẳng bao lâu, ngày 12 tháng Chạp năm Bính Tuất (20-1- 1407) thành Đa Bang bị thất thủ; rồi hai ngày sau (14 tháng Chạp năm Bính Tuất) giặc Minh tiến quân vào Đông Đô.
Chúng bắt đàn bà con gái, vơ vét của cải. Chúng đặt bộ máy cai trị, bổ cử Việt gian làm quan dưới quyền của người Minh, tích trữ lương thực, định kế lâu dài...
Quân rút về Hà Nam, đóng cọc đắp lũy tiếp tục phòng ngự. Nhưng rồi cũng bị quân Minh đánh bại liên tiếp ở các trận Mộc Phàm giang và Hàm Tử quan. Tả Tướng quốc Nguyên Trừng rước hai vua Quý Ly, Hán Thương chạy về cố thủ Tây Đô.
Tháng 4 năm Đinh Hợi (1407), quân Minh phối hợp thủy bộ tiến đánh Tây Đô. Bị đánh bại nữa, Quý Ly cùng một số đình thần rút về Hà Tĩnh. Quan lại các lộ ra hàng giặc khá nhiều. Một số bị giặc bắt, đã chửi mắng chúng nên bị giết, còn một số cùng đường phải tự vẫn. Quân Minh tiếp tục truy đuổi vua quan nhà, đến tháng 5 năm Đinh Hợi (1407) giặc Minh bắt được Thượng hoàng Hồ Quý Ly và vua Hán Thương. Tháng 6 năm Đinh Hợi (1407) chúng áp giải hai vua và sổ quần thần bị bắt về Kim Lăng. Quân Minh tiến vào Nam, tiếp quản vùng Thuận Hóa (Quảng Trị, Thừa Thiên), trong lúc đó đất Thăng Hoa (Quảng Nam, Quảng Ngãi) cũng đã bị quân Chiêm Thành tiến ra giành lại...
2. Nguyên nhân dẫn đến thất bại quân sự của nhà HồSau hơn 6 tháng phát động cuộc chiến tranh xâm lược, quân Minh đã chiếm được toàn bộ lãnh thổ nước ta. Nhà Hồ sụp đổ. Trong lịch sử chiến tranh Việt Nam, chưa có lần nào quân ta thất bại nhanh chóng như thế, nhiều trận chưa đánh đã tan...
Tại sao có sự thất bại thảm hại ấy?
Công cuộc cải cách quân đội, chuẩn bị chiến tranh chống xâm lược phương Bắc cho thấy nhà Hồ đã thực sự xây dựng được một lực lượng vũ trang hùng mạnh vào hàng bậc nhất trong lịch sử nước ta, tính từ đầu thế kỷ XV trở về trước. Nhưng trong cuộc đọ sức với quân Minh, quân Hồ đã “đánh đâu thua đó”, ắt không phải vì quân lực nhà Hồ quá yếu kém về quân số và vũ khí mà chính bởi nhiều lý do khác.
– Trước hết, phải kể đến áp lực vũ trang tấn công của địch tập trung mạnh mẽ trên nhiều mặt để thực hiện ý đồ chiến lược đánh nhanh, thắng nhanh của chúng. Ngoài sức tấn công quân sự, địch đã khai thác triệt để thế yếu “thất nhân tâm” của Hồ Quý Ly; chúng tận lực dùng thủ đoạn tâm lý chiến để lung lạc tinh thần quan quân nhà Hồ, làm cho quân Hồ rã rời, chưa đánh đã tan...
– Trong khi đó, dưới sự lãnh đạo của Thượng hoàng Hồ Quý Ly vốn là người không giỏi tài quân sự điều binh (*) , khi cầm quân kháng chiến chống Minh, nhà Hồ đã phạm phải sai lầm nghiêm trọng về mặt chỉ đạo chiến lược, về phương thức tiến hành chiến tranh và cả trong chỉ đạo tác chiến...”
Do phạm sai lầm, chính trị thì để mất lòng dân, quân sự thì nặng về phòng ngự, nên cuộc kháng chiến đã bị thất bại nhanh chóng” (*) . Dựa vào quân đội mạnh và hệ thống phòng vệ kiên cố, Hồ Quý Ly trước sau vẫn chủ trương thực hành chiến lược phòng ngự chống lại chiến lược tiến công, đánh nhanh thắng nhanh của địch và dựa vào thành cao hào sâu để cố thủ cự địch là phương thức tác chiến cơ bản, trong khi đó nếu muốn đánh bại kẻ địch phải có phản công và tiến công mới thực hiện được mục tiêu chiến lược... Bên cạnh đó, những sai lầm về mặt chiến thuật đã dẫn quân đội nhà đến thất bại hoàn toàn: quyết dùng trận địa chiến (chiến tranh dàn thành mặt trận hẳn hoi) chống lại trận địa chiến của quân Minh. Lẽ ra trong điều kiện địa thế và lực lượng quân đội nước ta thì phải tận dụng chiến thuật “lấy đoản binh chống với trường trận” (*) , lấy nhu thắng cương, lấy nhược thắng cường... vận dụng chiến thuật du kích chiến, phục kích chiến hơn là cứ xông vào trận địa chiến.
Song, sự thất bại của quân thực sự đã bắt nguồn từ nhược điểm có tính quyết định, đó là lực lượng tác chiến thiếu tinh thần chiến đấu và nhân tâm ly tán. Hồ Quý Ly ngày đêm vẫn thường ao ước “làm thế nào có được 100 vạn quân để chống giặc Bắc” (*) , trong khi lực lượng quân số đông đảo ấy lại thiếu hẳn về mặt chất lượng, thiếu sự huấn luyện cho tinh nhuệ, thiếu bồi dưỡng ý thức để tướng sĩ và quân lính đồng lòng xả thân vì sự tổn vong của Tổ quốc. “Quân của họ trăm vạn người trăm vạn lòng” (*) . Vào cuộc chiến mà người thì muốn đánh, kẻ lại muốn hòa... Đó là chưa kể đến thủ đoạn tâm lý chiến “phù Trần diệt ” của quân Minh. Tất cả những sự yếu kém ấy đã khiến quân đội nhà tan rã nhanh chóng. Sự yếu kém có tính quyết định chính là quân đội nhà, mà nói chung là vương triều Hồ, không được sự hậu thuẫn và niềm tin của nhân dân. Nhà không phát động được cuộc chiến tranh nhân dân vì không thực hiện được sự đoàn kết dân tộc, không tập hợp được sức mạnh cả nước cùng kháng chiến chống giặc như các thời trước và sau nhà đã từng làm. Hơn ai hết, chính cha con Hồ Quý Ly hiểu rất rõ điều đó. Năm 1405, khi Thượng hoàng Quý Ly và vua Hán Thương họp cùng triều thẩn và An phủ sứ các lộ để bàn việc chuẩn bị chiến đấu chống Minh, có người bàn đánh, có người nói nên tạm hòa, còn Tả Tướng quốc Nguyên Trừng thì cả quyết: “Thần không sợ đánh, chỉ sợ lòng dân không theo mà thôi”. Vì câu nói ấy hợp với ý mình, Quý Ly liền ban ngay cho Nguyên Trừng cái hộp trầu bằng vàng (*) . Quý Ly cũng dư biết sức mạnh của lòng dân nhưng trong thời buổi ấy, dù đã nỗ lực tiến hành nhiều mặt cải cách để lấy lại nhân tâm, nhà Hồ cũng đành phải chịu thất bại chua xót về mặt này. Trong cảnh thế cùng lực tận, quân Minh đuổi theo truy bắt, sử cũ đã chép về sự kết thúc số phận nhà Hồ qua việc cha con Hồ Quý Ly không được nhân dân che chở, bảo bọc. Lúc ấy Hồ Quý Ly vừa chạy đến vùng Kỳ La, định chạy vào Tân Bình. Dằn ở đó có một ông lão ra bái yết, thưa rằng: “Xứ này là Ky Lê, trên có núi Thiên Cầm là điều không lành” rồi ông lão khuyên vua nên đi nơi khác, chớ lưu lại ở đó. Quý Ly nghe vậy liền rút gươm chém chết ông lão ấy! (*) .
Không được hậu thuẫn của nhân dân dẫn đến sự bạc nhược của quân đội, sự thất trận nhanh chóng và sự sụp đổ của vương triều Hồ. Công cuộc cải cách đang còn dang dở của Hồ Quý Ly cũng kết thúc.
Bao nhiêu cải cách của Hồ Quý Ly cùng với việc phát triển quân đội nhà Hồ với lực lượng quân số đông đảo, vũ khí, trang bị được cải tiến... đã góp phần xây dựng nhà thành một công trình kiến trúc to lớn, đổ sộ, song công trình kiến trúc ấy được thiết dựng trên một nển móng không vững chắc. Lòng dân ly tán, xa lìa cũng như một bãi cát rời rạc, mênh mông... chỉ một cơn gió mạnh ào tới như cuộc xâm lược của quân Minh, nó đã sụp đổ!
Hồ Quý Ly và nhà Hồ phải chịu mất ngôi, mất nước do đã để mất dân. Công cuộc cải cách của nhà Hồ mang giá trị lịch sử thật là to lớn. Sự thất bại của nhà cũng là một bài học quý báu cho ngàn đời sau mà liền sau ông, có lẽ Nguyễn Trãi đã tổng kết được bao nhiêu kinh nghiệm xương máu của người trước để khẳng định một chân lý khái quát của lịch sử cứu nước và dựng nước của dân tộc ta: Dân là gốc của nước, giữ nước trước hết là giữ dân, muốn giữ nước phải an dân, phải giữ được lòng dân...
Xét kết quả trước mắt thì rõ ràng cuộc cải cách của Hồ Quý Ly và nhà Hồ đã thất bại. Nguyên nhân thất bại chủ yếu bắt nguồn từ những hạn chế của biện pháp cải cách và cách thức tiến hành cải cách. Những nguyên nhân ấy mang tính chất quyết định, thực sự làm suy yếu vương triều, dẫn đến chỗ nhà Hồ bị xóa bỏ hoàn toàn khí có nhân tố bên ngoài tác động vào.
Song xét quá trình lâu dài, thì không thể phủ nhận được vị trí nổi bật của nhà Hồ trong dòng lịch sử dân tộc Việt Nam. Nhà chỉ tồn tại được có hơn 7 năm nhưng đã tích tụ và hình thành được bao nhiêu kinh nghiệm trị nước trọng đại. Cải cách Hồ Quý Ly đã mở ra một bước phát triển mới trong lịch sử chính trị Việt Nam, có thể đó là tiền đề của công cuộc kháng chiến và cải cách thành công của Bình Định vương Lê Lợi và nhà Lê ở thế kỷ XV.
Hồ Quý Ly là một nhà cải cách lớn, một nhà pháp trị đã để lại cho lịch sử Việt Nam nhiều bài học quý giá muôn đời, xét về cả chính diện lẫn phản diện.