CHƯƠNG 11 MỘT NGƯỜI MỸ
Ông Fournier mải lo nói chuyện với lão Georges. Ông mật thám đang lo lắng bồn chồn.
- Chẳng khác gì bọn cớm, - lão gác dan nói lẩm bẩm giọng khản đặc. - Hỏi đi hỏi lại mỗi một câu. Chờ tin gì đây? Trước sau gì rồi sẽ khai thật hay láo đây? Đồng ý là khai láo như trong tập truyện của mấy ngài này đây.
- Tôi không muốn nghe lời khai láo, mà khai thật kia.
- Thì đây, tôi sẽ khai hết sự thật. Buổi tối hôm đó trước khi Madame chuẩn bị đi qua bên Ănglê có một bà tới đây. Ngày bày ra mấy tấm hình hỏi tôi có nhìn ra được ai không. Tôi đã cho ngài hay trước - mắt tôi kém lắm - trời lúc đó nhá nhem tối - tôi nhìn không kỹ. Tôi không nhìn ra người đàn bà đó. Cho dù có nhìn thấy tận mặt cũng không nhận ra. Đấy, tôi đã nói bốn năm bận rồi đó.
- Vậy mà ông không nhớ bà cao hay thấp, tóc đen hay bạch kim, già hay trẻ, thật khó mà tin.
Ông Fournier mỉa mai lên giọng bực tức.
- Vậy thì chớ vội tin. Tôi còn lo sợ gì nữa? Dính dáng tới bọn cớm - hay ho gì đâu! Tôi cảm thấy nhục nhã. Nếu không có vụ Madame bị giết chết trên máy bay thì chắc là ông gán cho tôi tội bỏ thuốc độc. Bọn cớm là vậy đó!
Poirot biết trước thế nào ông Fournier cũng tức giận, bèn chìa tay ra vẻ thân thiện với ông bạn.
- Thôi đến đây, ông bạn, - ông nói - cái bụng tôi nó đang kêu. Ta làm qua loa một bữa rồi tính chuyện sau. Ta gọi món chả trứng chiên nấm rơm với món cá lá mít nấu theo kiểu Normande-phó mát Port Salut, một chai rượu chát. Nên gọi rượu gì cho đúng điệu?
Fournier liếc nhìn đồng hồ.
- Chính xác, - ông nói. - Một giờ. Ta còn bàn với lão khỉ gió này nữa. - ông liếc nhìn lão Georges.
Poirot nhếch mép cười động viên lão gác dan.
- Dù không biết là, - ông nói - người phụ nữ vô danh cao hay thấp, tóc đen hay bạch kim, gầy hay béo, nhưng ông có thể cho biết: bà ta ăn mặc có lịch sự không?
- Lịch sự à? - Lão Georges hỏi lại vẻ kinh ngạc.
- Tôi nghe nói, - Poirot lên tiếng, - bà rất lịch sự. Tôi muốn nói, này ông bạn, bà mặc áo tắm trông còn đẹp nữa.
Lão Georges trố mắt nhìn.
- Áo tắm à? Áo tắm là thế nào?
- Tôi vừa nghĩ trong đầu. Một phụ nữ dễ thương mặc áo tắm càng dễ thương hơn. Ông nhất trí chứ? Này xem đây.
Ông đưa cho lão nhìn một trang trên tờ tạp chí Sketch.
Cả hai lặng thinh. Lão gác dan khẽ nhúc nhích.
- Ông nhìn ra chứ, hở? - Poirot hỏi lại.
- Trong xinh đấy chứ, cả hai người, - lão vừa nói tay vừa giữ lại - không mảnh vải che thân thì cũng vậy thôi.
- Ấy, - Poirot nói. - Thời buổi này con người đã biết công dụng tắm nắng. Hay biết mấy.
Lão Georges phá ra cười rồi bỏ đi, Poirot và ông Fournier bước ra ngoài dạo bộ trên phố nắng chang chang.
Giữa bữa ăn do Poirot đề nghị, ông mới đưa cuốn sổ bìa đen ra.
Fournier mừng rõ dù còn căm giận bà Elise. Ông Poirot bèn bênh vực cho bà.
- Lẽ tất nhiên. Bọn cớm à? Nghe nhắc ai cũng run sợ, lọt vô mê hồn trận mà không hay biết. Chuyện như vậy đâu cũng có - đâu cũng thấy.
- Vậy nên ông đã thắng một điểm. - Fournier nói. - Một thám tử chuyên nghiệp thu thập chứng cứ nhờ ở lời khai nhiều hơn là theo lối làm việc hành chánh. Nhưng cần phải thấy bề trái nữa. Ta nắm được nhiều số liệu - cả một hệ thống cơ quan dưới quyền.
- Vậy thì ta cùng nhau hợp tác hữu nghị, - Poirot nhếch mép cười nói. - Món chả trứng ngon miệng.
Trong khi chờ món cá, ông Fournier lật xem mấy trang trong cuốn sổ bìa đen. Xong ông lấy sổ tay trong túi ra ghi chú.
Ông nhìn qua Poirot.
- Ông đã coi hết chưa?
- Chưa. Mới xem qua. Cho tôi xem nào.
Ông chìa tay đỡ lấy cuốn sổ từ tay Fournier. Món phó mát vừa dọn ra, Poirot đặt cuốn sổ xuống mặt bàn, hai ông khách nhìn nhau.
- Có mấy dòng ghi chú, - Fournier nói.
- Năm dòng. - Poirot nói.
- Đúng, có năm dòng.
Ông lấy cuốn sổ tay trong túi ra đọc.
- Bí số CL 52. Phu nhân Bá tước người Ănglê. Có chồng.
- Bí số RT 362. Bác sĩ. Ở phố Harley.
- Bí số MR 24. Thợ làm đồ cổ giả.
- Bí số XVB 724. Người Ănglê. Can tội biển thủ.
- Bí số GF 45. Can tội ngộ sát. Người Ănglê.
- Hay lắm ông bạn, - Poirot nói. Tư tưởng lớn đã gặp nhau, những câu ghi chú trong cuốn sổ này chỉ năm đoạn có liên quan tới những người đi trên chuyến bay. Ta xem xét từng người một.
- Bá tước phu nhânngười Ănglê. Có chồng. - Fournier nói, - đoạn này trung hợp với Bá tước phu nhân Horbury. Tôi biết bà này là một tay có máu cờ bạc. Không còn nghi ngờ gì nữa bà có đến gặp bà Giselle vay tiền. Thân chủ bà Giselle đều thuộc nhóm gày. Đoạn ghi chú có chồng ngụ ý là hoặc bà Giselle chờ ông này trả nợ giùm cho bà vợ, hoặc là bà có bản lĩnh hơn phu nhân Horbury, một ẩn số bà chỉ có thể tiết lộ cho người chồng biết.
- Đúng thế, - Poirot nói. - Cả hai giả thiết đúng cả. Tôi nghiêng về giả thiết thứ hai hơn, là vì tôi dám cuộc người đến thăm bà Giselle tối hôm trước lúc bà đi xa chính là phu nhân Horbury.
- Ôi, ông nghĩ vậy sao?
- Ờ, thì ông cũng nghĩ như tôi thôi. Tôi vừa nghĩ tới lão gác dan cũng biết nịnh đầm. Lão nhất quyết cho là không biết ai tới thăm bà chủ. Phu nhân Horbury là một người đẹp tuyệt trần. Hơn nữa tôi để ý thấy lúc ban đầu - ồ, một chút sơ hở thôi - lúc tôi đưa ra hình chụp bà mặc áo tắm trong tờ tạp chí Sketch. Ờ, chính là phu nhân Horbury, người tới nhà bà Giselle tối hôm đó.
- Chính bả này đi cùng chuyến máy bay từ Paris tới Le Pinet, - Fournier thủng thỉnh nói, - Có vẻ bà đang gặp lúc sa cơ.
- Ờ, ờ, tôi nghĩ có phần đúng.
Fournier đang còn hồ nghi.
- Nhưng không ăn khớp với chuyện ông đang nghĩ trong đầu phải không?
- Này ông bạn, tôi nói rồi tôi thấy được manh mối nhưng mà không đúng người... bởi tôi chẳng biết gì hết. Manh mối tôi tìm ra thì không thể nhầm vô đâu được; và hơn nữa...
- Ông chưa muốn nói ra hết sao? - Fournier khích lệ.
- Không phải, bởi tôi có thể nhầm - nhầm to. Nếu nghe theo tôi, ông cũng sai lầm nốt. Thôi, ta nghĩ sao làm vậy. Ta bàn tiếp theo những mục ghi trong sổ bìa đen.
- Bí số RT 362. Bác sĩ. Ở phố Harley? - ông Fournier đọc.
- Có khả năng nghi cho bác sĩ Bryant. Không thấy gì khác lạ hơn, dù sao cũng không thể bỏ qua cuộc thẩm vấn này.
- Việc này xin dành cho ngài thanh tra Japp.
- Còn phần tôi, - Poirot nói. - Tôi sẽ tham gia.
- Bí số MR24. Thợ làm đồ cổ giả, ông Fournier đọc. Không có lý do, nhưng ta có thể nghi cho cha con nhà Dupont. Coi bộ khó tin. Ngài Dupont là chuyên gia khảo cổ nổi tiếng, có địa vị.
- Vậymới dễ làm việc, - Poirot nói. - Thử coi, ông bạn Fournier, địa vị càng cao thì càng kiêu căng. Đáng khâm phục những tay lừa đảo - cho đến khi bị phát hiện.
- Đúng, quá đúng, - ông khách người Pháp thở ra một hơi nhất trí.
- Một nhân vật có uy tín, - Poirot nói, - là tiền đề cho một tay có ngón nghề lừa đảo cao siêu. Một ý tưởng độc đáo. Thôi, ta quay lại việc trước mắt.
- Bí số XVB 724 đáng khả nghi. Người Ănglê, can tội biển thủ.
- Chẳng được gì, - Poirot nói tiếp, - thủ phạm là ai? Một ông luật sư? Một nhân viên ngân hàng? Hay người đáng tin cậy được giao nhiệm vụ ở một cơ sở thương mại. Một nhà văn thì không phải rồi, không phải một nha sĩ hay bác sĩ, có thể họ biển thủ công quỹ, rồi vay mượn bà Giselle để che giấu hành vi phạm pháp, nghi can sau cùng là...
- Bí số BF 45 can tội ngộ sát, Người Ănglê-phạm vi điều tra dàn trải. Thủ phạm có thể là nhà văn, nha sĩ, bác sĩ, doanh nhân, tiếp viên, thợ làm tóc - đều có thể xếp vô dạng mang bí số BF 45. Đúng ra hai cha con nhà Dupont được miễn trừ vì lý do quốc tịch.
Ông gọi hầu bàn tính tiền.
- Ta còn đến đâu nữa, ông bạn? - ông hỏi.
- Ta đi qua Sở Mật Thám, biết đâu có tin sốt dẻo.
- Được. Ta đi thôi. Tới phiên tôi mở cuộc thẩm vấn mởi ông tham gia.
Tại Sở Mật Thám, Poirot được dịp gặp lại ngài Chánh Sở Mật Thám trước đây ông từng công tác trong mấy vụ án, ngài Gilles lịch sự và thân tình.
- Rất hân hạnh được biết ông quan tâm tới vụ án này, ông Poirot.
- Này ông bạn Gilles, tôi tin những gì diễn ra trước mắt. Ông có nghĩ đó là một việc đáng sỉ nhục? Hercule Poirot nằm ngủ khò giữa lúc vụ án mạng đang diễn ra trước mắt!
Ngài Gilles lắc đầu thật khéo.
- Những cỗ máy! Gặp bữa trở trời chạy không trơn tru. Chính tôi đây có lúc còn cảm thấy rêm mình!
- Người ta thường cho là đói cồn cào như kiến bò trong bụng, - Poirot nói. - Khi đói thì đầu óc quay cuồng. Mỗi lần bị say sóng, Hercule Poirot này chỉ như một cái xác không hồn, tâm trí trống rỗng. Thật đáng trách, nhưng phải chịu thôi! Cho qua chuyện này, ông bạn Giraud của tôi nay ra sao?
Khéo léo phớt lờ "chuyện này", ngài Gilles cho hay Giraud vẫn tiếp tục sự nghiệp.
- Ông ta rất nhiệt tình, hăng say không mệt mỏi.
- Từ nào giờ ông vẫn vậy, - Poirot nói, - Ông tất bật suốt ngày, đâu đâu cũng nhìn thấy ông. Không thấy lúc nào ông nhàn rỗi.
- Ôi, ông Poirot, đó cũng là chỗ yếu của ông. Một người như ông Fournier, đỡ cho ông biết mấy. Ông này thuộc về một trường phái mới - nặng về mặt tâm lý. Vậy ông yên tâm?
- Đúng thế.
- Ông ta nắm vững tiếng Anh nên mới được phái tới Croydon lo vụ án này. Đây là một vụ án nổi cộm, ông Poirot. Bởi Madame Giselle là một nhân vật có tiếng tăm ở Paris. Và cái chết của bà thật lạ thường! Thủ phạm sử dụng ống xì đồng thổi tên độc. Tôi hỏi ông chuyện đó có thể xảy ra chứ?
- Có chứ, - Poirot la lên. - Có đấy. Ông nói trúng phóc, ông chỉ đâu trúng đó - À, ông bạn Fournier tốt bụng đây rồi. Có tin tức gì mới không?
Ông Fournier có gương mặt buồn nhưng hôm nay trông đầy nhiệt tình và hớn hở.
- Có, có chứ. Tôi biết có một tay buôn đồ cổ người Hy Lạp là Zeropoulos kể lại chuyện vừa mới bán một ống xì đồng với mấy tên độc cách nay ba bữa trước khi xảy ra vụ án. Tôi đề nghị với ngài - ông trịnh trọng nghiêng người chào sếp - cho phép được kiểm vấn người này.
- Vậy thì, - Gilles nói, - có ông Poirot đi theo không?
- Nếu ngài cho phép, - Poirot nói, - Vụ này lạ lắm. Lạ lắm.
Cửa hiệu của ông Zeropoulos nằm ở phố St. Honoré, bán hàng đồ cổ cao cấp, nhiều món làm ra từ vùng Rhages và gốm sứ của Ba Tư. Một vài món đồ đồng ở Louristan, nữ trang Ấn Độ, hàng lụa, hàng thêu sản phẩm của nhiều nước, hàng rẻ tiền sản xuất ở Ai Cập. Tại đây bạn có thể bỏ ra 1 triệu quan mua một món hàng trong khi giá trị của nó chỉ bằng phân nửa, có thể bạn trả giá mười quan cho một món hàng chỉ bằng giá 10 xăng tim. Khách du lịch Mỹ và những tay sưu tầm đồ cổ là khách hàng thường xuyên lui tới.
Chủ hiệu là ông Zeropoulos người thấp béo mắt đen tròn xoe, ăn nói lưu loát.
Có phải mấy ông khách vừa tới là cảnh sát, ông mừng thầm. Biết đâu mấy ông sẽ vô tới bên trong văn phòng. Đúng thế, ông đã bán ra cho khách một ống tiêu với mấy tên độc - hàng của thổ dân Châu Mỹ la tinh - quý vị hiểu cho ở đây tôi bán đủ thứ. Tôi có nhiều hàng độc của Ba Tư. Tại đây có ngài Dupont kính mến, ông sẽ giải đáp thắc mắc giùm cho quý vị. Ông đến đây để được tận mắt nhìn thấy bộ sưu tập độc đáo - xem tôi có thu được hàng mới - góp ý mấy món hàng chưa rõ nguồn gốc. Ngài thật tài tình! Trình độ cao siêu! Ngài nhìn và đánh hơi thấy được món hàng. Tôi nói lạc đề rồi đấy. Tôi có một bộ sưu tập - nó vô giá như các tay trong nghề đã thấy - tôi còn giữ đây - dạ thưa một chiếc thuyền buồm! Hàng nước ngoài, được kết hợp từ nhiều thứ - từ vùng Nam Hải, Ấn Độ, Nhật Bản,... Không sao! Tôi không có giá trước. Nếu khách chọn mua tôi mới phóng một giá mà thường thường khách sẽ trả giá dữ lắm, tôi bớt xuống bằng nửa giá. Cho dù vậy vãn còn lời to! Tôi mua được của mấy tay thủy thủ giá rất lời.
Ông Zeropoulos hít một hơi thật sau hăm hở kể tiếp, mồm nói huyên thuyên.
- Cái ống xì đồng kèm theo mấy tên độc tôi mua vô được từ lâu rồi - có tới hai năm. Tôi bày ra trên chiếc mâm kia, có cả xâu chuỗi vỏ sò, một bồ tộc dân da đỏ châu Mỹ, mấy con búp bê khắc gỗ, một chùm hạt ngọc rẻ tiền. Không ai nhìn vô, chẳng có ai để ý mãi đến lúc có ông khách người Mỹ hỏi là cái món gì.
- Một người Mỹ? - ông Founier hỏi xẵng.
- Dạ, đúng một người Mỹ - quả không sai, một người Mỹ. Không phải là một người Mỹ sành điệu, cũng không - ông khách chẳng hiểu gì mấy món đó. Ông thích mua một món hàng lạ về làm kỷ niệm. Ông ta làm nên sự nghiệp nhờ mua bán xâu chuỗi ở Ai Cập - hàng bùa chú ở bên xứ Tiệp Khắc. Vậy là tôi đoán ngay ông khách cần gì, tôi kể ra các tục lệ của thổ dân, cách sử dụng độc dược. Tôi nói ngay đây là hàng hiếm. Ông khách hỏi giá, tôi đưa ra cái giá theo lối Mỹ không cao lắm đâu (thì ra ở bên đó giá cả đang sụt). Tôi chờ ông trả giá, vậy mà ông chịu mua ngay, tôi chới với. Tiếc là lẽ ra tôi muốn nói giá cao hơn. Tôi giao ống tiêu còn mấy tên độc gói cẩn thận cho vô bao. Tiền trao cháo múc. Đến một bữa coi báo thấy đăng tin một vụ án ly kỳ tôi lấy làm lạ - dạ đúng, tôi thắc mắc ghê lắm. Tôi hỏi thăm mấy ông ở sở cảnh sát.
- Cảm ơn ông nhiều lắm, ông Zeropoulos, - Fournier nói năng lịch sự. - Cái ống xì đồng với tên độc - ông có thể nhận dạng lại được chứ? Món hàng này đang ở bên Ănglê, rồi ông sẽ được mời tới để làm công việc nhận dạng.
- Cái ống xì đồng dài bằng cỡ như vầy, - ông Zeropoulos chỉ tay làm dấu trên mặt bàn, nó nặng - ông biết không, bằng cỡ chiếc bút máy này đây. Màu sắc nhợt nhạt. Có thêm bốn mũi tên độc dài sắc bén, đầu mũi tên phai màu đính thêm một mảnh vải tơ màu đỏ.
- Mảnh vải tơ màu đỏ à? - Poirot hỏi gắt.
- Dạ, đúng thế. Màu đỏ anh đào - còn thấy mờ mờ.
- Lạ thật, - ông Fournier nói. - Vậy ông còn nhớ rõ không có một chiếc nào dính thêm mảnh vải tơ đen hay vàng?
- Đen và vàng nào? Dạ, không có.
Ông chủ hàng lắc đầu.
Ông Fournier nhìn qua Poirot. Một nụ cười tâm đắc vừa thoáng hiện trên gương mặt nhà trinh thám nhỏ thó.
Fournier đang còn nghi ngờ trong đầu. Có phải là Zeropoulos nói láo hay vì một lý do nào khác?
Fournier nửa tin nửa ngờ nói. - Có thể cái ống xì đồng với mấy tên độc này không dính dáng gì tới vụ án, xác suất là một phần năm mươi, dù sao tôi phải tìm cho ra lai lịch của anh chàng này
Zeropoulos chìa hai tay.
- Ông này là người Mỹ. Tôi nghe ông nói giọng Mỹ. Ông không biết tiếng Pháp, nhai kẹo cao su, đeo kính gọng đồi mồi, dáng người cao không phải già lắm đâu.
- Tóc vàng hay tóc đen?
- Tôi không rõ, lúc đó ông khách đội mũ.
- Nếu gặp lại ông còn nhớ mặt.
Zeropoulos lưỡng lự.
- Tôi không dám chắc. Nhiều người Mỹ thường lui tới đây, ông khách không có dấu hiệu gì lạ.
Fournier chìa ra một tập ảnh, không có cái nào nhìn ra. Zeropoulos không nhớ ra ai cả.
- Thế là uổng công, - Fournier vừa bước ra vừa nói.
- Biết đâu được, hở, - Poirot nói theo - tôi không cho là vậy đâu. Tôi nhìn thấy bảng giá cùng một cỡ và trong câu chuyện có một vài điểm cần lưu ý. Giờ ông bạn vừa hỏng việc, nghe lời tôi qua điểm khác.
- Tới đâu?
- Ở phố Boulevard des Capucines.
- Để xem, chỗ đó là...?
- Văn phòng hãng máy bay Universal Airlines.
- Phải rồi. Ta đã mở một cuộc thẩm vấn sơ qua tại chỗ đó. Không có lời khai nào đáng lưu ý.
Poirot thân mật vỗ vai ông bạn.
- Ôi này, ông thấy chưa, mình hỏi ra sao thì được trả lời vậy. Ông chưa biết lựa chuyện mà hỏi.
- Vậy là ông biết?
- Chứ sao, tôi xin góp ý.
Ông không nói thêm gì nữa, chốc lát xe đã tới phố Boulevard des Capucines.
Văn phòng hãng máy bay Universal Airlines nhỏ hẹp. Đứng phía sau quầy gỗ láng bóng là một anh chàng ăn mặc lịch sự, nước da ngăm đen bên cạnh là thằng nhóc độ mười lăm tuổi ngồi sau bàn đánh mày.
Fournier chìa giấy giới thiệu ra, anh chàng giới thiệu là Jules Perrot hân hạnh được đón tiếp khách quý.
Theo yêu cầu của ông Poirot, thằng nhóc thư ký đánh máy được điều qua chỗ khác cách xa.
- Chúng tôi có việc riêng cần nói ra đây, - ông phân bua.
Jules Perrot vẻ mặt hớn hở.
- Dạ, thưa quý vị.
- Đây là chuyện giết hại Madame Giselle.
- Ồ, thì ra là vậy. Hình như tôi đã được nghe hỏi qua về vụ này.
- Đúng thế. Chúng tôi đang cần thu thập chứng cứ rõ ràng. Chúng tôi cần biết rõ Madame Giselle đăng ký vé máy bay - vào lúc nào?
- Mọi việc đã xong xuôi. Bà gọi điện đăng ký vào ngày 17.
- Tức là chuyến bay 12 giờ ngày hôm sau?
- Dạ, đúng thế.
- Vậy mà người hầu giúp việc kể lại Madame Giselle dặn chỗ chuyến bay 8.45 giờ.
- Không, không phải vậy. Người hầu của Madame đặt vé chuyến bay 8.45 giờ. Nhưng hết chỗ, hãng chúng tôi bán vé chuyến bay 12 giờ.
- Ồ, tôi hiểu. Tôi hiểu.
- Dạ, thưa ông vậy đó.
- Tôi hiểu, tôi hiểu - nhưng phải nói là chuyện lạ - lạ thật.
Anh chàng nhân viên ngơ ngác nhìn về phía ông.
- Bởi tôi có một ông bạn cầu đi chuyến 8.45 qua Ănglê sáng hôm đó, máy bay còn trống nửa chuyến.
Anh chàng Perrot lật qua mấy trang giấy. Gã hỉ mũi vô khăn.
- Có thể ông bạn kia nhớ nhầm ngày. Ngày bữa trước hay là sau ngày...
- Không hề gì. Chính là ngày xảy ra vụ án trên tàu, bạn tôi kể lại nếu ông lỡ chuyến bay đó, suýt nữa thôi, thì ông sẽ được tính vô trong số hành khách đi trên chuyến phi cơ Prometheus ngày hôm đó.
- Ồ, thật vậy. Ờ nhỉ, lạ thật. Tất nhiên, gặp lúc đúng vào giờ chót hành khách không tới kịp thì máy bay còn chỗ trống... mà cũng có khi do nhầm lẫn. Tôi phải liên lạc với phi trường Le Bourget; không phải lúc nào giờ giấc cũng chính xác.
Nhìn ánh mắt hồ nghi của Hercule Poirot, anh chàng Jules Perrot có vẻ bối rối. Gã không nói nữa, mắt nhướng lên, mồ hôi lấm tấm trên vầng trán.
- Có hai lối giải thích, - Poirot nói. - Theo tôi thì chưa xác thực. Ông có thấy là nên thú thật hết đi thì hay hơn.
- Khai hết những gì mới được chứ? Tôi chưa hiểu ý ngài.
- Này, này. Ông hiểu quá rồi còn gì. Đây là một vụ án - vụ án, đó ông Perrot. Ông nhớ giùm cho. Nếu ông ém nhẹm chuyện này thì sẽ nguy cho ông - thậm chí rất nguy nữa là đàng khác. Mật thám không tha cho vì ông cố tình ngăn cản công lý.
Jules Perrot trố mắt ra nhìn, há hốc mồm, hai tay run rẩy.
- Này, - Poirot nói nghe như lệnh cấp trên đầy quyền uy. - Chúng tôi cần thông tin chính xác, ông hiểu cho. Lương ông bao nhiêu và ai trả lương?
- Tôi thấy không có hại - tôi không có ý kiến - tôi không thể nói ra...
- Bao nhiêu, do ai trả?
- Na - năm nghìn quan. Tôi chưa nhìn thấy ông khách lần nào. Tôi - chuyện này hại đời tôi...
- Nếu không khai ra thì mới hại chứ. Này, nghe đây, chúng tôi còn biết hơn thế nữa kia. Khai ra hết đi.
Mồ hôi nhỏ giọt lăn dài trước trán, Jules Perrot nhanh nhẩu khai nấc từng chập.
- Tôi thấy vô hại... xin thề danh dự, tôi thề không nói sai. Có một ông khách tới đây, ông cần đáp chuyến bay ngày mai. Ông đến để xin được vay một món tiền - của Madame Giselle, ông không muốn cho biết trước, mà theo ông tin là sẽ gặp may. Ông còn biết bữa sau bà mới qua bên Ănglê. Tôi phải báo lại chuyến bay sớm đã hết chỗ và đăng ký vé cho bà ngồi ghế số 2 theo chuyến bay trên tàu Prometheus, tôi thề, tôi không làm điều gì sai trái. Có gì khác lạ đâu? - tôi nghĩ sao nói vậy. Người Mỹ đều thế cả - họ muốn tự chủ trong công việc làm ăn.
- Người Mỹ à? - Ông Fournier nói giọng xẵng.
- Dạ, ông khách là một người Mỹ.
- Ông kể rõ hơn nữa.
- Ông dáng người cao, lưng khòm, tóc hoa râm, đeo kính gọng đồi mồi để chòm râu dê.
- Ông đến đăng ký vé?
- Dạ phải, ghế số 1 - gần bên - chỗ ngồi dành cho Madame Giselle đã đặt trước.
- Ông khách tên gì?
- Silas - Silas Harper.
- Không có hành khách nào tên đó, ghế số 1 không có người.
Poirot khẽ lắc đầu.
- Tôi kiểm tra giấy tờ không có hành khách nào tên đó, nên tôi không nêu ra đây. Bởi ông ta không đi máy bay.
Fournier lạnh lùng nhìn gã.
- Ông che giấu thông tin mà sở cảnh sát đang cần tìm cho ra. - ông nói. - Việc này rất hệ trọng.
Cả hai ông khách bỏ ra về, gã Jules Perrot đứng lại trố mắt nhìn theo vẻ mặt khiếp đảm.
Đang đi trên hè đường, ông Fournier giở mũ nghiêng đầu chào.
- Tôi xin phục ông, ông Poirot. Làm thế nào ông nghĩ ra được cái ý tưởng đó?
- Tôi nghe được hai câu. Sáng nay trên máy bay có một gã nói hắn đã đi trên chiếc phi cơ chỉ có vài hành khách ngay buổi sáng xảy ra vụ án mạng. Còn câu kia là Elise nói nhỏ vừa đủ nghe bà gọi đến hãng máy bay Universal Airlines nhưng chuyến bay sáng sớm hết chỗ. Hai câu nói đó hoàn toàn không ăn khớp, tôi còn nhớ gã tiếp viên trên phi cơ Prometheus kể lại hắn nhìn thấy Madame Giselle ngay trước chuyến bay sáng sớm - vậy thì rõ quá bà thường đi chuyến bay sớm 8.45 giờ.
- Vậy mà sao có người muốn bà đi chuyến bay12 giờ - tức là người đang ngồi trên chiếc máy bay Prometheus. Vậy sao anh chàng nhân viên cho hay là chuyến tàu sớm đã hết chỗ. Một chuyện nhầm lẫn hay nói sai lời? Tôi cho là nói sai lời... tôi nghĩ đúng.
- Chuyện càng dài càng rắc rối thêm ra. - ông Fournier mồm la to. - Ban đầu ta lần theo dấu vết của một bà. Giờ lại hóa ra là ông. Một ông Mỹ.
Ông lặng thinh nhìn qua Poirot.
Ông kia khẽ gật đầu.
- Phải đấy, ông bạn, - ông nói. - Muốn làm một người Mỹ không có gì khó - vì đây là Paris! - Người nói giọng mũi - nhai kẹo cao su - để chòm râu cằm - đeo kính gọng đồi mồi - hội đủ những nét của một người Mỹ trên sàn diễn.
Ông lôi trong túi ra một trang xé ở tờ tạp chí Sketch.
- Ông đang xem gì vậy?
- Hình Bá tước phu nhân mặc áo tắm.
- Ông cho là - nhưng mà không, bà nhỏ con, dễ thương, mảnh dẻ - làm sao hóa thân làm một người Mỹ lom khom, cao nghều. Bà đã từng là diễn viên, đúng thế, nhưng mà không thể có chuyện hóa thân làm một người Mỹ đâu. Không đâu, ông bạn, làm gì có chuyện đó? - Tôi có nói là được đâu, - Hercule Poirot đáp.
Ông vẫn ngồi đó dán mắt vô tấm hình chụp trên báo.