Chương 1 SỰ TÌNH CỜ
Năm 1949, cha tôi đoạt giải đua ngựa ở Melbourne: Bill Fellows và con ngựa Foxzami về đích trước một cách thật dễ dàng.
Trong thời gian đó, cha mẹ tôi đã có hai người con, Gary 4 tuổi và Gail 2 tuổi. Đời sống gia đình tôi lúc bấy giờ rất ổn định. Nhưng trước khi tôi sinh ra, năm 1953, gia đình Fellows bắt đầu suy sụp. Sáu tháng sau ngày chiến thắng của cha tôi, Gary qua đời vì bị bệnh đường ruột. Kể từ đó cha tôi mất hết hứng thú trong các cuộc thi tranh tài. Tinh thần ông xuống dốc thê thảm đến mức không có cách gì vực lên được. Tôi nhớ rất rõ cha tôi từng là một người khá lạc quan nhưng, cũng theo tôi biết, không phải ông không có nỗi buồn và một điều bực dọc nào đó đã giấu kín trong lòng. Mặc cho những biến cố xảy ra trong gia đình và những buồn bực của riêng ông, ông vẫn tiếp tục chăm sóc, huấn luyện ngựa và đã trở thành một chuyên viên huấn luyện ngựa đua thật tài tình mà lúc bấy giờ khó có thể tìm đâu ra người thứ hai như ông.
Tôi thường hay theo cha tham gia vào những buổi tập luyện ngựa và rồi dần trở nên quen thuộc với công việc. Hơn nữa, cha tôi lại là một nhân vật quan trọng trong hội đua ngựa; do đó, tôi rất thích thú tham gia vào một phần sinh hoạt của ông. Rồi từ đó, chính trường đua này đã khiến sở thích cá cược của tôi phát triển. Cũng như những người chơi khác, khi chơi ai cũng muốn thắng nhưng đồng thời họ cũng thích cái cảm giác vừa hồi hộp vừa thú vị khi biết mình sắp thua dù đôi khi thua một cách thảm hại.
Sự đam mê vô bổ đó kéo dài cho đến khi, sau cha tôi 30 năm, hình ảnh của tôi được đưa lên báo. Không phải vì tôi lập được chiến tích gì hoặc được ai ca ngợi như cha tôi đã từng mà là hình ảnh của một chàng thanh niên còn rất trẻ ngồi co rúm trước hai bàn tay đặt trên bàn với 8,5kg heroin bày ra trước mặt.
Lý do nào tôi có mặt trên báo chí, việc này là nguyên nhân của một loạt rắc rối giữa những cuộc gặp gỡ tình cờ và những quyết định sai lầm của tôi. Như đã kể với các bạn, tôi luôn luôn bị lôi kéo vào các trò chơi có liên quan đến may rủi. Vì thế, tôi hoàn toàn tin vào Số Mệnh, cái Số Mệnh đang chờ đợi ở ngã tư đường để thay đổi cuộc đời tôi.
Thời gian tôi làm việc tại một quán rượu ở Wynyard, quán này nằm tận trong cùng của trung tâm thương mại Sydney, chính tại nơi này tôi đã gặp Richard. Richard thường đến đây để uống bia và hình như anh đang làm nghề đánh cá ngựa thuê chuyên nghiệp. Một hôm Richard gọi tôi và nhờ đem 500USD đến phòng bán vé để đặt cược giùm. Anh ta bảo mình không đi được vì hiện đang giữ trong người một số tiền khá lớn. Tôi chưa hề được cảnh giác về việc này, nhưng qua kinh nghiệm ở những trận cá độ thì những người chơi thuê chuyên nghiệp thường là những kẻ làm việc mờ ám; tuy nhiên, họ hiếm khi hại ai trừ hại chính bản thân mình hoặc những người họ vay nợ. Từ hôm đó tôi bắt đầu chạy công việc lặt vặt này cho Richard một cách đều đặn. Người chủ quán rượu chẳng quan tâm gì đến việc làm riêng tư của tôi vì tôi chắc rằng ông cũng có tham gia vào cuộc ăn thua mờ ám đó nên xem đây như là một lối sống ở các quán rượu mà thôi.
Sau một thời gian, tôi và Richard trở thành bạn thân. Chúng tôi thường đi ăn nhậu với nhau giờ này qua giờ khác. Chúng tôi lại sinh cùng ngày, ngày 13 tháng 9.
Một đêm cũng ở tại quán rượu, Richard hỏi tôi có dám làm công việc mạo hiểm không. Anh ta cho biết anh hiện đang liên hệ với một người có thể cung cấp heroin với giá rất rẻ, nếu tôi dám làm thì chỉ cần qua Ấn Độ rồi mang thuốc về bán. Tiền lời khá lớn.
Lúc này tôi chỉ mới có 21 tuổi. Ma tuý không đóng vai trò nào trong cuộc đời tôi và thành thật mà nói tôi chưa hề biết những loại thuốc đó ra sao, nhưng tôi biết nhiều người rất ghiền nó. Riêng cá nhân tôi, tôi chẳng thấy có gì gọi là hấp dẫn. Trong thời gian học nghề làm tóc ở Double Bay, ngoại ô Sydney, tôi được nghe vài mẩu chuyện về tác dụng của ma túy. Người ta bảo sau khi hút vào, người cứ lâng lâng như ở trên mây. Còn vấn đề thuốc này được trồng ở đâu, sản xuất chỗ nào tôi không hề quan tâm. Ý tưởng tôi sẽ làm công việc chuyên chở ma túy hoặc có khả năng thâm nhập vào thế giới đó để rồi nó sẽ thay đổi vĩnh viễn cả cuộc đời mình, thật sự là điều không tưởng.
Bốn năm trước đây, cũng vào cái đêm này, lúc ấy tôi chỉ mới 18 tuổi, lần đầu tiên tôi tập hút thuốc. Sau khi hút xong, tôi có cảm giác cả căn phòng quay cuồng như thể nó được gắn trên một cái bánh xe khổng lồ. Trước khi điếu thuốc tàn, tôi đã nhuốm bệnh. Chuyện này nghe khó tin nhưng là sự thật. Đó là trải nghiệm đầu tiên về sử dụng ma túy trước khi tôi nhận lời đề nghị đi đến Ấn Độ của Richard.
Richard cho tôi biết là giá một pound heroin chỉ có 50USD thôi. Thật sự tôi không có một tí ý niệm gì về chuyện này và cũng chẳng biết giá cả thị trường ra sao, cho nên tôi bảo để suy nghĩ lại rồi sẽ trả lời sau.
Cuối tuần đó tôi đến một hộp đêm để gặp vài người bạn cũ khi còn học trường De La Salle ở Ashfield. Trong lúc ôn lại chuyện xưa, tôi có nhắc đến lý do tại sao mình bị đuổi học. Ngày đó tôi thường chơi cá độ ở trong lớp: Tôi bị đuổi vì dính vào chuyện đánh cá gian lận. Tôi lôi tờ hướng dẫn cá độ đua ngựa để dưới hộc bàn ra rồi thu tiền cá độ của các bạn, chờ đến giờ ăn trưa chạy đến phòng bán vé để đặt cược. Việc này diễn ra rất suôn sẻ trong thời gian đầu - theo tôi biết, có vài thầy giáo trong trường cũng thích chơi trò này lắm. Nhưng sau đó thì mọi việc bị đổ bể.
Một hôm, trong buổi họp toàn trường, thầy hiệu trưởng tuyên bố là đã phát hiện trong trường có hiện tượng cá độ đua ngựa và thầy bảo học sinh nào có liên quan nên bước ra phía trước. Thầy còn nói thêm đã biết rõ ai là người đầu têu nhưng thầy cho một cơ hội cuối cùng để tự thú và chuộc tội. Trước đó, tôi đã được vài bạn mách là tên tôi đã bị đưa lên ban giám hiệu như đầu sỏ trong vụ này rồi, tuy nhiên tôi vẫn đứng im vì nghĩ rằng ông ta chỉ nói doạ thế thôi… Sau một hồi thấy không ai phản ứng, ông nói tiếp: “Được, thế thì… Warren Fellows bước ra ngay!”. Đó không phải là lần cuối trong đời tôi đã lờ đi những lời cảnh cáo và bước vào trận phục kích. Các bạn học cũ tin rằng tôi hiện vẫn còn tiếp tục con đường phạm pháp nên hỏi xem tôi có thích buôn ma tuý không. Đầu tiên tôi trả lời không, nhưng sau đó lại tò mò muốn biết giá thị trường của heroin là bao nhiêu. Khi một bạn cho biết giá một pound heroin là 1.800USD, tôi sững sờ. Món tiền này quá hấp dẫn đến độ tôi, thành thật mà nói, nghĩ rằng có lẽ hậu quả xấu sẽ không xảy đến cho tôi đâu và khả năng kiếm lời vượt trên sự rủi ro bị bắt. Thế là tôi quyết định ngay.
Vài ngày sau gặp lại Richard, tôi bảo với anh ta là tôi chấp nhận lời đề nghị hôm nọ. Anh ta giải thích thêm: trước khi làm bất cứ việc gì cũng phải có tiền để mua vé máy bay và lo nơi ăn chốn ở, đồng thời cũng còn phải có sự thỏa thuận nữa. Tôi bảo với Richard tôi biết một người có thể cho tôi vay… Khi gặp lại người đó, tôi nói rõ mục đích của việc vay tiền, anh ta đồng ý ngay: “Được, tôi tin anh, Warren”.
Cho đến giờ tôi vẫn còn một cảm nhận rất đặc biệt về xứ Ấn Độ. Có lẽ không ai có thể quên được chuyến đi ngoại quốc đầu tiên của đời mình và quên đi những cảm giác khi đặt chân lên một vùng đất lạ. Bây giờ, mỗi lần nhắm mắt lại, tôi vẫn cảm thấy đâu đây mùi nồng nặc, nóng rang và hôi hám xông lên từ nơi ăn, chốn ở của những con người cùng khổ. Tôi còn nghe được tiếng van xin của các gã hành khất; của những kẻ khốn cùng; của những con người tuyệt vọng sống chui rúc và lớn lên trên các ngõ phố chật hẹp bẩn thỉu; của những người với hình hài đã biến dạng. Và nữa… hình ảnh gương mặt của một người đàn bà hầu như mất hết đường nét vì các lỗ đỏ hỏn do hậu quả của những cái mụn vừa bưng mủ trước đó vài phút. Và sống động nhất là những câu hỏi thường xuyên ám ảnh tôi: “Tại sao tôi có mặt ở đây? Tại sao tôi làm chuyến đi này? Tại sao tôi cần tiền?”, và “Hiện tại tôi chẳng làm điều gì tồi tệ, phải không?”.
Sau đó chúng tôi gặp Rashik, đầu mối giao dịch ma tuý của Richard, một người trông có vẻ thật xuề xoà. Rashik tha thiết mời chúng tôi đến ở với gia đình ông, nhưng sao ông lại chẳng biết điều tí nào. Khi Richard đề cập đến mục đích của chuyến viếng thăm, ông ta tỏ ra kinh hãi và căng thẳng hết sức. Ông từ chối thẳng thừng, viện lý do không làm bất cứ việc gì dính líu đến ma tuý trong lúc này vì Thủ tướng Gandhi vừa đưa ra tuyên bố khẩn cấp - không phải không thường xuyên xảy ra ở Ấn Độ - mọi hành vi có liên quan đến ma tuý dù nhỏ nhặt đến đâu cũng lãnh ít nhất 2 năm ngồi khám.
Mấy ngày kế tiếp, tôi và Richard giả làm khách du lịch đi loanh quanh để nghe ngóng tình hình. Cuối cùng chúng tôi lần mò về phía Nam đến Bangalore, một thành phố gần nhất, nơi đó có trường đua ngựa. Tại đây chúng tôi gặp Ronny Monroe, người đảo Corse khoảng 35 tuổi, khá láu cá. Không hiểu vì lý do gì, Ronny bị cấm nhập cảnh vào bất cứ một xã hội văn minh nào, vì vậy hắn ở lại đây và nhận Ấn Độ làm quê hương. Trong khi chưa có nơi nào để đi lấy ‘hàng’, Ronny giới thiệu cho chúng tôi những người cần tiếp xúc. Tối đó hắn mời chúng tôi đi ăn cơm ở khách sạn Quốc tế Bangalore.
Vừa rời trường đua, tôi và Richard bị ba cảnh sát chận lại. Họ hỏi tên họ và nơi chúng tôi đang trú ngụ. Richard ngốc chưa từng thấy, anh ta khai ra hết.
Ngay chiều hôm ấy, vào lúc 6 giờ, có tiếng gõ cửa. Tôi ra mở thì đối mặt ngay với ba người cảnh sát gặp lúc chiều. Tôi lấy làm lạ sao họ chỉ đi ngang qua mặt tôi rồi đến thẳng chỗ Richard để đòi xem căn cước. Sau đó họ lục soát tất cả hành lý của anh ta nhưng chẳng hề động một thứ gì của tôi cả. Lúc ra về, tên đại tá, tôi đoán thế, còn quay lại nhìn tôi mỉm cười và chúc tôi ngủ ngon. Tôi nhớ rất rõ, lúc bấy giờ tôi có một cảm giác thật kỳ lạ - cái cảm giác mình đang vướng vào một cái gì thật khó hiểu, nhưng nó không thể nào làm hại tôi. Hay là vẻ vô tư đã bảo vệ tôi được an toàn mặc dù mình đang có tội?
Trong buổi cơm tối hôm đó, Ronny giới thiệu chúng tôi với nhiều người ở địa phương mà hắn quen biết mật thiết. Cách chỗ ngồi của chúng tôi không xa, tôi để ý thấy một anh Ấn Độ, khoảng gần 40, nhìn dáng ngồi có vẻ chán đời, đầu gục giữa hai cánh tay dang rộng trong tư thế như đang cầu kinh. Ronny giới thiệu người đó là Ahma, chủ nhân của khách sạn này. Nói xong, Ronny bước đến mời anh vào ngồi chung bàn với chúng tôi. Trong suốt buổi cơm, tôi để ý thấy Ahma cố gắng hết sức để tham gia vào câu chuyện, nhưng hình như anh ta không thể nào tập trung nổi. Rồi bỗng dưng anh ta oà lên khóc nức nở. Ronny tiết lộ rằng Ahma đang thất tình vì vừa bị một cô gái bỏ rơi. Tôi bước đến cạnh bày tỏ sự cảm thông, nhưng vô ích. Nỗi buồn đó không vơi được. Sau cùng, tôi hỏi tôi có thể giúp gì cho anh không thì Ahma ngưng khóc ngay, ngẩng đầu lên nhìn tôi và rồi yêu cầu tôi đi theo anh ấy. Đến văn phòng, Ahma chỉ cho tôi bức ảnh của một cô gái. Vừa thấy bức ảnh, tôi hiểu ngay tại sao anh ta đau khổ đến mức độ ấy. Đó là một thiếu nữ Ấn lai Pháp đẹp cực kỳ, có mái tóc đen dài và đôi mắt xanh rất thu hút. Tên nàng là Avril.
Ahma nhờ chúng tôi đến nhà Avril, gần Cochin, để mang nàng về cho anh. Anh ta hứa sẽ trả mỗi người 1.000USD, đồng thời sẽ lo vé máy bay cùng nơi ăn chốn ở cho tôi và Richard. Anh ta còn bảo mình đang sửa lại một lỗi lầm khủng khiếp và mãi mãi mang ơn chúng tôi với điều kiện là đừng bao giờ đề cập đến tên của anh khi gặp cô gái đó. Anh dặn thêm, nếu tình cờ có nói thì chỉ nhắc đến tên Arthur, một người đua ngựa mà nàng quen biết thôi. Việc này phải hoàn toàn giữ bí mật và không được tiết lộ với bất kỳ ai.
Tôi hội ý với Richard và trong khi chưa tìm được nơi lấy ‘hàng’ thì chúng tôi coi đây như một chuyển hướng công việc khá thú vị. Nghe chúng tôi chấp thuận lời đề nghị này, Ahma càng khóc to hơn trước.
Ba hôm sau đến Cochin, chúng tôi bỏ cả buổi sáng đi la cà xung quanh khu vực um tùm cây cối của khách sạn tìm kế sách. Đến trưa chúng tôi vẫn chưa nghĩ ra điều gì ngoạn mục nên quyết định đi tới địa chỉ đã cho để xem có tìm được cái gì hay hay không. Nhà của Avril được bao bọc bằng một bức tường rất cao, khiến người ta nghĩ bên trong cất giấu một báu vật mà chủ nhân của nó không muốn cho ai nhìn thấy. Để ý một cái lỗ nhỏ chỗ tường gỗ mà ai đó đã khoét sẵn trước đây, tôi ghé mắt nhìn vào tìm hiểu nguyên nhân tại sao nhà lại kín cổng cao tường đến thế và ý đồ của cái lỗ này là gì.
Khi nhìn vào bên trong, tôi thấy Avril đang ngồi trên bậc cấp phía sau nhà, trên người không mặc gì cả trừ mỗi cái quần short trắng. Nàng đang ngồi chải tóc, mái tóc đen mượt đổ xuống đến tận thắt lưng. Trước đây tôi chưa bao giờ được chiêm ngưỡng một vẻ ngoại lai nào lộng lẫy và tuyệt vời đến thế. Thảo nào Ahma không đau khổ và nỗi khổ đó bây giờ đang chuyển dần sang cho tôi.
Chúng tôi vòng ra cổng trước rồi gõ cửa. Mẹ Avril ra mở, chúng tôi tự giới thiệu là bạn của Arthur và nói dối là Arthur bảo chúng tôi đến thăm Avril nhân dịp đi Cochin. Bà mỉm cười vui vẻ, mời vào nhà cho uống trà và ăn bánh.
Thoạt đầu Avril có vẻ dè dặt, nhưng sau đó thì cả bà mẹ và Avril đều hòa nhập vào câu chuyện của chúng tôi một cách thật thoải mái. Tôi không rời mắt khỏi Avril nhưng cứ làm ra vẻ mệt mỏi để che giấu những ý định của mình. Ngồi một lúc, tôi nóng ruột muốn mời họ ra ngoài ăn tối nhưng trong lòng cứ ngại sợ họ không chịu đi. Thật hết sức ngạc nhiên, họ nhận lời ngay tức khắc. Chúng tôi đưa hai mẹ con đến một nhà hàng đẹp nhất ở Cochin và gọi mấy chai champagne. Cả buổi tối hôm đó tôi thỉnh thoảng bắt gặp Avril nhìn tôi làm tôi bắt đầu thấy xao xuyến. Tôi biết mình đang bị sắc đẹp của nàng lôi cuốn. Đầu óc tôi hầu như quay cuồng trong những cảm xúc riêng tư đến nỗi không còn nhớ là mình đang uống rượu champagne của Ahma.
Sau buổi cơm, Avril rủ tôi ra vườn đi dạo với nàng. Hạnh phúc dâng lên làm tôi choáng ngợp đến độ hầu như không thể đứng dậy nổi. Lúc đi dạo, nàng tâm sự với tôi rằng nàng muốn tìm một nơi an toàn để mẹ con nàng thoát khỏi cảm giác nặng nề đang vây hãm, đồng thời nàng cũng muốn biết nhiều về bản thân tôi. Nàng hỏi tôi đang làm gì ở Cochin, tôi cảm thấy đau nhói vì những lời nói dối quanh co. Đến bên luống hoa, nàng dừng lại ngắt một đoá hoa cánh thật to, trắng muốt và quay lại trao cho tôi. Rồi chúng tôi ôm hôn nhau đắm đuối, say mê.
Khi về khách sạn, tôi kể hết cho Richard những việc đã xảy ra giữa tôi và Avril. Richard bảo rằng mối tình lãng mạn này sẽ mang đến cho hai chúng tôi một tai hoạ khó lường vì Ahma không phải là người không có quyền lực; hơn nữa, hắn đang đau khổ vì vụ này. Vậy thì chỉ còn cách nói dối rằng Avril từ chối không chịu đi theo chúng tôi thôi.
Trở về Bangalore, khi đến khách sạn tôi đã thấy Ahma chạy nhào ra với vẻ mặt vô cùng thất vọng. Hắn hỏi tới tấp: “Các anh không thành công à? Avril ở đâu?”. Nghe chúng tôi nói xong, mặt hắn chảy dài đau đớn. Hắn không tin những lời giải thích của chúng tôi nên cứ tiếp tục vặn hỏi. Cuối cùng, hắn ngỏ ý muốn gặp riêng tôi ở văn phòng của hắn. Tại đây, hắn nhìn thẳng vào mặt tôi và nói: “Tôi biết cậu có thể đem nàng về lại cho tôi. Tôi biết không ai ngoài cậu làm được việc này. Vậy tôi cần cậu trở lại Cochin”.
Giọng nói của Ahma lúc này không còn yếu mềm và nhạt nhẽo như trước nữa mà rất cương quyết và đầy sức thuyết phục. Tôi nghĩ hắn không thể biết được điều gì đã xảy ra giữa tôi và Avril, nhưng một cái gì đó mách cho tôi rằng hắn có thể đã đoán ra. Nhưng hắn đâu có cần, miễn sao tôi mang được Avril về cho hắn thôi. Tôi không hiểu mình mủi lòng vì cảm thông với tâm trạng của hắn hay vì tình cảm của tôi dành cho Avril mà tôi nhận lời trở lại Cochin hai ngày sau đó bất chấp mọi tình huống có thể xảy ra. Cho đến bây giờ tôi cũng không biết nốt.
Khi thấy tôi đứng trước cổng, Avril chạy ào ra với vẻ mặt rất hớn hở. Nàng xúc động và ôm chầm lấy tôi âu yếm. Qua mấy ngày liền chúng tôi quấn quýt bên nhau không rời nửa bước. Chẳng làm sao tả hết niềm hạnh phúc của tôi lúc bấy giờ. Vào buổi tối, Avril lấy xe gắn máy chở tôi đến thăm một ngôi làng ở gần đó. Ngôi làng này không có bóng một chiếc xe, không có máy móc,… không có bất cứ thứ gì ngoại trừ vài túp lều dựng lên bằng đất sét. Nó cổ xưa và lạc hậu đến mức tôi có cảm tưởng mình đang trở về thời kỳ nguyên thuỷ. Trước những ngôi nhà, tạm thời gọi như thế, vài ba người phụ nữ đang ngồi giã từng hạt thóc để lấy bột làm bánh. Giữa làng, một nghi lễ diễn ra thật kỳ lạ: một người đàn bà nằm dưới đất quằn quại và quăng tung tóe mấy thứ gì giống như nội tạng của bà ta. Trong khi đó, một người đàn ông mặc đồ trắng đeo lủng lẳng những chuỗi hạt đứng phía trên đầu bà này và lầm bầm khấn vái những câu gì mà tôi chẳng hiểu. Avril giải thích: ở đây người ta vẫn còn sử dụng tà thuật để chữa bệnh. Người đang nằm dưới đất đã bị quỷ ám nên thầy phù thuỷ phải đọc thần chú để hoá giải. Đồng thời lúc đó lại có một người đàn bà khác xuất hiện, tay ôm một con gà còn sống. Trong khi người phù thuỷ đọc thần chú thì bà này chặt phăng đầu con gà. Cái thân không đầu của nó chạy lòng vòng một cách đau đớn và điên cuồng, một lúc sau nó kiệt sức và ngã xuống thì người đàn bà bị quỷ ám kia có phần thư giãn hơn. Avril nói tiếp: “Như vậy ma quỷ từ trong thân thể người đàn bà đã chuyển sang con gà không đầu rồi đó”.
Vì chưa từng chứng kiến cảnh tượng này bao giờ nên tôi thấy rất khó chịu. Ngược lại, Avril có vẻ thật tự nhiên như thể đã quen với cái thế giới kỳ lạ này, cái thế giới hoàn toàn khác với thế giới mà chúng ta đang sống. Chịu, tôi không thể nào hiểu nổi.
Một đêm khi tôi và Avril đang ở trong khách sạn thì có tiếng điện thoại reo, Ahma gọi. Tim tôi đập mạnh đến nỗi tôi có cảm tưởng Ahma ở Bangalore cũng cảm nhận được. Tôi vừa trả lời anh ta là tôi đang ở khách sạn một mình và đồng thời cũng phải đánh lạc hướng để Avril không biết ai đang bên kia đầu dây. Ahma hỏi tôi đã gặp Avril chưa và nàng có chịu đi về cùng tôi không, tôi trả lời tôi chưa biết. Avril bắt đầu tò mò và tỏ chút lo ngại. Tôi quay lại mỉm cười để trấn an nàng rồi quay sang điện thoại nói chuyện tiếp với Ahma: “Tôi sẽ gọi cho anh sau khi có kết quả”.
Cuộc điện đàm vừa chấm dứt, Avril vặn hỏi tôi người gọi là ai. Tôi nói dối đó là Richard, anh ta muốn biết chừng nào tôi về lại Bangalore.
Khi nghe giọng Ahma, tôi mới sực nhớ lại mục đích sự có mặt của mình ở Cochin. Lúc đó nếu không tự chủ được, tôi suýt khai hết cho Avril rồi. Nhưng một cảm nghĩ lạ lùng xuất hiện buộc tôi phải giữ lời hứa với Ahma và rồi tiếp tục đánh lừa nàng.
Tôi ngỏ ý đưa Avril về Bangalore vì thật sự tôi không thể chịu được nếu bỏ nàng ở lại. Lúc đầu nàng từ chối viện lý do không thích Bangalore. Nàng nói: “Em không thích trở lại nơi đó, mặc dù em rất muốn gần gũi anh”. Tôi yêu cầu nàng giải thích lý do, nhưng Avril chỉ lắc đầu. Tôi cố nài nỉ và hứa rằng khi về đấy tôi sẽ không bỏ nàng một mình và hứa sẽ đưa nàng trở về thăm mẹ bất cứ lúc nào nàng muốn. Cuối cùng Avril đồng ý với điều kiện là chúng tôi phải di chuyển bằng xe hơi chứ không được đi máy bay vì nàng không muốn người khác gặp nàng ở phi trường. Điều này khiến tôi càng thắc mắc hơn, nhưng tôi không dám vặn hỏi thêm nữa vì sợ nàng đổi ý.
Tôi gọi điện thoại cho Ahma để giải thích tình huống. Hắn không những không ngạc nhiên mà còn tỏ vẻ rất xúc động. Hắn bảo sẽ thuê taxi để đón chúng tôi về. Trên suốt dọc đường, đầu óc tôi rối bời vì nhiều cảm nghĩ khác nhau: tình yêu đối với Avril làm tôi hạnh phúc, nhưng vì lời hứa với Ahma tôi phải phản bội nàng. Tôi thật không biết điều gì sẽ xảy ra cho nàng, nhưng lúc thấy Avril lộ vẻ sợ hãi tôi bắt đầu cảm thấy không yên. Tôi đang rơi vào một tình huống khó xử mà chưa nghĩ được cách giải quyết nào thỏa đáng cả. Trước khi xe vào địa phận Bangalore, tôi mới thấy quyết định của mình sai lầm một cách chết người.
Taxi vừa đỗ ở bãi của khách sạn Quốc tế Bangalore, mặt Avril bỗng tái nhợt và người nàng cứng đơ. Tôi hỏi nàng có việc gì không nhưng nàng chỉ lắc đầu và từ chối không chịu xuống xe… Quá muộn rồi! Ahma vừa nhận ra chiếc taxi và nhìn thấy Avril bên trong, hắn chạy ào đến với vẻ mặt hết sức thỏa mãn. Trong lúc đó, Avril rũ rượi vì sợ hãi và tuyệt vọng. Nàng quay lại yêu cầu tôi giải thích… Tôi chết lặng người!
Ahma kéo Avril ra khỏi xe một cách thô bạo và lập tức lôi nàng vào khách sạn khi tôi chưa kịp lấy lại hơi thở. Về phòng riêng của mình, tôi nhớ đến việc vừa xảy ra và bắt đầu nghĩ cách đối phó.
Chiều hôm sau tôi xuống quầy rượu dò la tin tức của Avril. Tôi hỏi thăm mọi người ở đấy nhưng chẳng ai biết nàng ở đâu, song qua cách trả lời thì rõ ràng bọn họ đã có sự đồng lõa với nhau. Cuối cùng tôi gặp được Ronny Monroe. Hắn nhìn tôi ngạc nhiên thật sự khi nghe tôi tiết lộ hết những việc vừa rồi. Tôi choáng váng khi nghe Ronny nói: như vậy là Avril đang bị giam giữ tại đây, trong một căn hộ đặc biệt, ở đó có người mang vũ khí canh gác. Mỗi đêm Ahma đưa nàng xuống phòng ăn của khách sạn để nàng đánh đàn guitar cho thực khách thưởng thức rồi đến khuya lại hộ tống nàng trở về phòng. Có nghĩa là trước đây Avril đã trốn một lần và rồi ngày hôm nay tôi lại mang nàng giao lại vào tay hắn, như thế thì làm sao hắn rời mắt khỏi nàng?
Tôi nài nỉ Ronny chỉ cho tôi nơi nàng đang ở. Đọc được ý định trong đầu tôi nên hắn nói ngay: “Chỉ có điên mới dám đương đầu với Ahma”. Ngoài tình cảm đối với Avril, tôi biết tôi không thể nào sống yên nếu bỏ đi mà không cố gắng đảo ngược tình huống khó xử tôi đã gây ra cho nàng. Cuối cùng tôi cũng thuyết phục được Ronny. Anh ta chỉ cho tôi chỗ ở của Avril. Nó nằm trên tầng lầu ba của khách sạn, bên dưới ngay lối vào cầu thang lúc nào cũng có hai tên mang súng trường nòng 303 túc trực.
Trước khi trời tối, tôi quan sát cấu trúc của tòa nhà và tìm ra được một lối có thể đến chỗ Avril đang bị nhốt, lối này nối từ ban công tầng bốn. Điều này có hơi mạo hiểm nhưng tôi quyết định hành động thử xem sao.
Ngày hôm sau, chờ cho Ahma vắng mặt ở khách sạn, tôi leo ra cửa sổ của tầng bốn, bò theo mái dốc và đu mình xuống ban công bên dưới và đợi ở bên ngoài một lúc. Khi biết chắc không có ai khác ngoài Avril, tôi gõ cửa. Vừa mở cửa, Avril vừa mừng vừa kinh hãi khi nhìn thấy tôi. Nàng vội vàng kéo tôi vào trong và đóng ngay cửa lại. Avril bảo nếu Ahma biết được thì chết cả hai. Thật ngắn gọn, tôi giải thích những chuyện đã xảy ra và lý do tôi phản bội nàng. Những giây phút ngắn ngủi bên nhau vừa lo âu lại vừa tràn ngập yêu đương, cuối cùng tôi bảo tôi sẽ làm mọi cách để giải thoát cho nàng. Trước khi từ giã căn phòng ‘nhà giam’ nhỏ hẹp đó, tôi hứa khi nào nàng ra khỏi chỗ đấy thì chúng tôi sẽ cưới nhau.
Mấy ngày tiếp theo tôi cất công đi tìm một vị linh mục để xin làm lễ cưới cho hai đứa, có như thế tôi mới chính thức đưa Avril về Úc được. Đi khắp nơi và đến chỗ nào người ta cũng bảo rằng tôi phải chờ ba tháng để làm các thủ tục pháp lý ở tòa án. Thời gian cứ thế trôi đi.
Trong lúc tôi vướng bận việc riêng của mình thì Ronny khám phá ra một đầu mối có thể cung cấp heroin với chất lượng tuyệt hảo, và anh ta còn tìm được một người hợp tác lo việc giấu hàng trong các hành lý mang theo. Như vậy có nghĩa là Richard và tôi sẽ rời Ấn Độ trong vài ngày tới.
Trước khi ra đi, tôi trở lại thăm Avril một lần nữa. Tôi cho nàng biết việc đám cưới gặp rất nhiều trở ngại. Bây giờ tôi bận công việc phải về Úc nhưng hứa sẽ sớm trở lại tìm nàng. Buổi chia tay thật bùi ngùi, cảm động. Avril yêu cầu tôi để lại cho nàng một vật gì đó để làm kỷ niệm. Vật đó sẽ nhắc nàng nhớ đến tôi trong thời gian chờ ngày tôi quay lại. Tôi chẳng có cái gì khác đáng giá ngoại trừ một chiếc lược, vật duy nhất đang nằm trong túi. Tôi bảo với Avril: “Vật này, anh nghĩ, rất thích hợp với em vì lần đầu tiên anh nhìn thấy em là lúc em đang ngồi chải tóc.” Giờ sắp chia tay, Avril ôm chầm lấy tôi khóc nức nở, rồi hai đứa hứa hẹn sẽ đợi nhau.
Cả ngày hôm sau, trước khi rời Ấn Độ, tôi lang thang xuống phố. Khi đi ngang qua nhà của một thầy bói, tự dưng tôi dừng lại và bước vào. Trong căn phòng tối tăm lờ mờ hiện ra dáng một bà già gầy yếu. Thoạt đầu, tôi nghĩ rằng bà này làm gì còn đủ hơi sức và đủ kiên nhẫn để cho tôi biết về việc xảy ra trong hiện tại huống hồ nói chi đến chuyện tương lai. Tuy nhiên, tôi cũng ngồi xuống đối diện với bà. Nhưng những câu mở đầu bà thốt lên khiến tôi giật mình kinh hãi và có cảm giác như mình đang bị thôi miên. Bà ấy nói ngày sinh tháng đẻ của tôi đúng vanh vách, ngay cả giờ sinh của tôi nữa, trong khi tôi chưa mở miệng nói lời nào. Rồi bà tiếp tục cho tôi biết những điều sắp xảy đến. Bà ta bảo đến năm 25 tuổi tôi sẽ bắt đầu bước vào 10 năm lao đao, khốn khổ, rồi tiếp theo phải chịu đựng những mất mát không tả xiết và nữa, tôi sẽ mắc một chứng bệnh hiểm nghèo nhưng nó không làm tôi chết đâu. Sau cùng bà còn nói thêm rằng có một người đàn bà tôi gặp trong cuộc đời, người này, theo lời bà, rất độc ác. Bà khuyên tôi không nên để người ấy cất giữ bất cứ món đồ dùng nào của tôi, ngay đến một sợi tóc cũng không, và tôi phải vô cùng thận trọng với người đó. Lúc sắp đứng dậy ra về bà còn dặn khi ra phi trường phải hết sức thận trọng và còn dặn tôi đừng bao giờ trở lại Ấn Độ nữa.
Trở lại Ấn Độ lần nữa sẽ gặp đại họa.
Chúng tôi lấy chuyến bay nội địa đến Madras, để từ đó mới chuyển máy bay đi Úc. Lúc đến cửa hải quan, tôi bắt đầu thấy lạnh xương sống vì trong những chiếc vali của chúng tôi chất đầy heroin. Ở đây tất cả các vali và hành lý xách tay bị lục soát rất kỹ. Đồ đạc nào sau khi kiểm xong thì được đánh dấu X lên trên và để sang một bên. Như vậy làm sao những chiếc vali này họ làm ngơ được. Nhanh trí, tôi và Richard bèn giả vờ dựng lên một màn kịch đánh mất chìa khóa. Đứa này sẽ đổ lỗi cho đứa kia hầu mong đánh lạc hướng sự chú ý của thuế quan.
Khi một nhân viên bảo tôi mở vali ra, tôi quay lại hỏi Richard chìa khóa. Hắn trả lời hắn không có giữ và tôi chưa hề giao chìa khoá cho hắn. Thế là cuộc cãi vã ầm ỹ bắt đầu, tôi làm bộ nổi cơn thịnh nộ, đá lung tung vào những chiếc vali như thể muốn chúng bật tung ra. Các nhân viên hải quan đứng nhìn và có lẽ họ cho rằng chẳng đời nào người ta muốn mở hành lý của mình một khi trong đó có cất giấu những thứ bất hợp pháp. Một tên thấy thế bèn trấn an và bảo tôi không cần thiết phải nổi giận, rồi đánh dấu X vào hành lý của chúng tôi, đồng thời xua chúng tôi qua cửa cho nhanh.
Nhưng tình hình khó khăn này chưa hết, chúng tôi còn một chặng đổi máy bay ở phi trường Singapore nữa. Ở phi trường này chúng tôi buộc phải trình giấy thông hành và thẻ chích ngừa. Lúc đứng trước mặt các quan chức Singapore, Richard sực nhớ là giấy chủng ngừa của hắn không có trong xách tay mà để ở một trong những chiếc vali kia. Tôi nghĩ là họ sẽ thông qua cho chúng tôi, nhưng không, họ sai một người hộ tống chúng tôi đến khu hành lý để lấy tờ khai đó ra. Tự cho mình đóng kịch giỏi hơn Richard, tôi tình nguyện đi thay. Đóng vai một người hiền lành, thơ ngây và vui vẻ thật là một công việc hết sức nhức đầu. Một nhân viên hộ tống tôi đến khu hành lý. Anh ta mang súng đứng ngay sau lưng và ngoái cổ qua vai tôi nhìn chằm chằm trong lúc tôi lục hết vali này đến vali khác. Cuối cùng tờ giấy đó cũng đã tìm thấy, thế là chúng tôi được thông qua.
Chưa hết, trong lúc đợi hành lý xuất hiện trên băng chuyền tại phi trường Sydney, việc xử lý mấy cái vali này còn khủng khiếp hơn là khi ở Madras. Một cái bị tét đường may, chỉ cần chạm nhẹ là nó sẽ toạc ra và tuôn hết các gói heroin trước mặt đám đông hành khách đang tụ tập chung quanh. Tôi có ý định chuồn đi và bỏ hết hành lý trên băng chuyền, nhưng lại nghĩ họ chẳng khó khăn gì mà không lần ra tung tích của tôi và Richard. Thế là tôi giật phắt mấy cái túi xách bỏ lên xe đẩy rồi tiến về phía lối ra, mạnh dạn tuyên bố với hải quan tôi chẳng có gì để khai cả. Tôi lại qua trót lọt! Như vậy, một lần nữa vận may đã che chở tôi trong mọi tình huống thảm khốc có thể xảy ra.
Mấy tháng sau tôi có mặt tại Ấn Độ vì một phi vụ khác. Đã đến đây rồi, tôi phải tới thăm Avril. Khi đi ngang qua khách sạn Quốc tế Bangalore, tôi nhìn thấy nàng đang ngồi trong khu vườn phía trước, đầu hơi cúi xuống. Tôi dừng lại. Và hình như linh cảm có người nhìn mình, nàng ngước lên. Ánh mắt chúng tôi gặp nhau. Avril vẫn quyến rũ như thuở nào, nhưng trên gương mặt nàng biểu lộ một nét thật kỳ lạ mà trước đây tôi chưa từng thấy bao giờ - không ngạc nhiên, không biểu lộ tình yêu, không hằn nét thù hận, và không… không gì cả… - như thể nàng đang nhìn vào bóng tối mênh mông. Nàng khẽ cúi chào tôi rồi tiếp tục chải tóc, mái tóc dài đen mượt đổ xuống đến tận thắt lưng.
Tôi kể câu chuyện này chỉ để thấy rằng tôi thiếu thận trọng như thế nào. Sự việc như thế này, chẳng là khi đến Ấn Độ tôi đã gặp và ăn ở với một cô gái khác vào thời điểm tôi biết Avril. Vì thiếu suy nghĩ, dễ bị cảm kích và hơi quẫn trí nên tôi không thể kiềm chế cảm xúc sâu đậm và mạnh mẽ dù chỉ trong một khoảnh khắc, nhưng ngược lại tôi là người chuyên chở thuốc phiện lậu thật hoàn hảo.
Chuyến đi sang Ấn Độ lần này chỉ là việc ham kiếm tiền và sau đây là câu chuyện của tôi.
Các bạn nên biết, chỗ nào kiếm ra được nhiều tiền nhanh chóng thì chỗ đó sẽ đẻ ra hàng vạn tên lừa đảo. Có những người từ khi sinh ra cho đến lúc lớn lên đã là những người có tư cách trong xã hội, trong khi đó những kẻ khác, như tôi, được sinh ra với bản chất không thật thà. Tôi không muốn đưa hết tên những người như thế ra đây vì thấy không cần thiết. Hơn nữa, nó có thể ảnh hưởng đến tương lai của vài người khác. Đó là lý do mà trong câu chuyện này tôi đã loại bỏ hẳn tên của một vài nhân vật và thay bằng những biệt danh.
Dĩ nhiên, mãi đến hôm nay mấy tên đó vẫn còn tồn tại với bản chất man trá. Thỉnh thoảng tôi nghe những chuyện đồn đại về họ như chuyện đồn về Elvis. Nếu tôi nêu đích danh họ ra đây thì lập tức tôi bị giết ngay. Vì thế tôi không làm.
Trong bất cứ tình huống nào, những gì tôi đã làm và những gì đã xảy đến cho tôi cũng tại ‘NÓ’. Tôi không muốn khởi tố người nào vì thật sự tôi chẳng muốn làm điều này. Để tự họ giải quyết lấy hoặc giao họ cho Thượng Đế, hoặc luật tạo hóa sẽ đào thải họ thôi. Điều này bây giờ đối với tôi không thành vấn đề nữa rồi. Tuy nhiên cũng có vài trường hợp ngoại lệ đáng lưu ý khác, tôi sẽ kể sau.
Khi trở về Sydney, tôi lập gia đình và có một đứa con. Tôi ao ước được nhắc nhiều đến vợ con tôi, nhưng trong câu chuyện này vợ con tôi không có dính dáng gì nên tốt hơn tôi không nên đề cập đến. Ngày nay họ đã tạo dựng lại cuộc đời mới rồi, thế nên tôi càng không muốn làm sống lại những đau khổ mà vợ con tôi đã chịu đựng, vì mục đích của một vài chi tiết thú vị được nhắc đến trong quyển sách này. Bây giờ mỗi lần nghĩ đến vợ con, lòng tôi lại quặn lên.
Khi bạn tống giam một người nào dù có tội hay không hoặc khi bạn bắt bớ một kẻ vô tội, tất cả những người đó đều có tình mẫu tử, cho dù họ là một tên giết người đốn mạt nhất.
Vì những lý do hoàn toàn khác nhau, nên trong câu chuyện này, tôi rất muốn loại bỏ hẳn một nhân vật. Tôi muốn xem như hắn không còn hiện hữu trên thế gian này, song không thể được. Tôi không thể loại bỏ hắn ra khỏi tiềm thức của tôi, vì hắn, chính hắn đã đóng vai trò chủ chốt làm thay đổi cuộc đời tôi khiến tôi không còn là người trong sạch nữa.
Tên hắn là William Sinclair. Mỗi khi đề cập đến hai từ này tôi cảm thấy hết sức khó chịu, như thể nhắc đến một con quỷ đội lốt người. Ước gì tôi có thể nói tại sao mình có cảm giác về hắn như vậy, nhưng tôi không dám. Tôi không muốn nhắc tên hắn một lần nữa trong câu chuyện này, vậy từ đây tôi gọi hắn là ‘Lão Già’ cho tiện.
Tôi biết Lão Già trong một quán rượu ở Wynyard, nơi toàn thể câu chuyện này đã xảy ra. Lão thường cá độ ngựa đua cùng với một gã được xem như trùm đánh cá cược thuê chuyên nghiệp ở đó. Lão Già tự coi mình là một thương gia, nhưng chưa bao giờ đả động đến công việc làm ăn thật sự của hắn: lúc thì ‘cố vấn về du lịch’, khi thì ‘môi giới về tài chính’. Và rõ ràng hắn rất giàu. Với cái mã bề ngoài õng ẹo làm như mình là trưởng giả, hắn bắt chước giọng quý tộc và đi khắp nơi để giới thiệu mình. Sự thật, hắn không biết gì về tội ác do chính hắn gây ra mà sau này vì nó hắn cũng bị tống giam vào tù. Nhưng chắc chắn hắn không phải là một tên ngu dại. Hắn rất xảo quyệt, độc ác và không hề quan tâm đến người khác, lúc nào cũng chỉ nghĩ đến bản thân thôi.
Lúc đầu tôi chẳng biết gì về hắn cả nhưng sau này tôi mới nhận ra.
Lão Già nghe những thành tích vận chuyển ‘hàng’ của tôi - có lẽ thông qua Richard, người bạn đã bất hòa với tôi vì một chuyện không đâu - và bắt đầu đánh hơi xung quanh. Rõ ràng là hắn muốn nhảy vào vụ làm ăn này. Tuy nhiên, để đạt được điều mình muốn, hắn phải loại trừ gã đánh cược ra để chộp lấy cơ hội.
Mấy tháng kế tiếp tôi bắt đầu đi đi về về ở các nước nhiều hơn - đi bằng vé của gã đánh cược. Tôi sang Hawaii, Los Angeles và vài vùng ở Nam Mỹ để thu mua cocain. Có lần trong một chuyến đi, người tôi phải tiếp xúc không chịu giao ‘hàng’ mà ôm tiền cọc trốn mất. Mặc dù ai cũng biết đây là chuyện thường tình xảy ra trong giới buôn bán ma túy, nhưng tôi bối rối và lo lắng gọi điện về báo cáo sự tình cho gã ‘đánh cược’. Thật là nhẹ nhõm khi nghe hắn bảo rằng chuyện đó không quan trọng, khi nào tôi trở về thì tôi và hắn sẽ chọn lọc lại.
Trong thời gian tôi vắng mặt, Lão Già nghe được việc này bèn nắm lấy cơ hội bôi nhọ tôi bằng cách nói với gã ‘cá cược’ rằng tôi đã lấy tiền đó bỏ túi riêng và khuyên đừng nên tin cậy tôi nữa. Thủ đoạn này khá thành công, bởi khi tôi trở về thì gã ‘cá cược’ liên tục quấy rầy, tuyên bố là tôi nợ hắn món tiền đó.
Một buổi tối tại quán rượu ở Wynyard, có hai tên lạ mặt tôi chưa từng gặp bao giờ tiến về phía tôi và thoi vào người tôi. Bọn chúng bảo: “Ê, mày thiếu nợ thì phải trả, nếu không sẽ gặp rắc rối to.” Nói xong chúng xúm nhau đập tôi tơi bời. Chịu không nổi, cuối cùng tôi phải cam kết sẽ giải quyết món tiền trên vào cuối tuần. Lúc bấy giờ chúng mới chịu ngưng tay. Ngày hôm sau tôi đến gặp tên ‘cá cược’. Thấy mặt mày tôi tím bầm, hắn làm ra vẻ sửng sốt và bối rối. Tôi bảo tôi dự định trả lại tiền cho hắn nhưng vào thời gian quy định đó tôi không thể có đủ số tiền như thế. Hắn im lặng một lúc - rồi để rơi cái bộ mặt thật - hắn nói tiếp: “Tao rất tiếc việc đã xảy ra, nhưng nếu mày trả cho tao, tao sẽ rất cảm kích.” Bây giờ nhớ lại tôi thật sự thấy hắn có vẻ buồn buồn và lúng túng vì sự việc đã xảy ra cho tôi.
Tôi phải vắt óc tìm cách làm sao để có tiền trả nợ. Lúc đó Lão Già xuất hiện, coi như đang đi thì tình cờ gặp nhau, hắn liền tuyên bố sẽ giúp tôi.