Chương 2 THÁI LAN
Thái Lan là một xứ sở có địa hình rất hấp dẫn và chưa từng bị đô hộ; điều này luôn luôn khiến tôi ngạc nhiên. Nhưng có lẽ dân Thái có sức chịu đựng đáng kính nể. Chính nhờ lòng kiên trì đã giúp họ chiến thắng các cuộc xâm lược, và một khi lòng kiên trì không còn nữa thì họ sẽ trở thành những con người độc ác nhất; dù đó không phải kẻ thù mà bất cứ người nào cũng muốn gây hấn.
Thái Lan, một đất nước mất trật tự về mọi mặt, chỉ có những tên ngốc hoặc nghiện ma túy mới thích thừa kế cái xứ sở này. Tôi nghĩ rằng nó không bị xâm lược chỉ trong một thời gian nào đó thôi. Ma túy vào Thái Lan khá dễ dàng như một trò đùa. Lần đầu tiên khi đến Bangkok, gã tài xế taxi ở phi trường đã hỏi ngay tôi hai câu: “Ông muốn đi đâu? Ông thích loại ma túy nào?”.
Dân Thái ở các vùng quê đã trồng và hút thuốc phiện từ hàng ngàn năm nay và không hề biết thế giới bên ngoài đang xôn xao về vụ việc này. Người phương Tây lên án họ đã làm những việc bất hợp pháp khiến người dân nghèo ở Thái Lan vô cùng lúng túng. Vì đối với họ, từ xưa đến nay, hút thuốc phiện được xem rất bình thường như chúng ta uống rượu vậy.
Chắc có lẽ vì áp lực của quốc tế mà chính phủ Thái đã áp đặt những hình phạt tàn bạo lên những người cố tình xuất khẩu ma túy. Nếu ma túy được hợp thức hóa thì Thái Lan đã đứng hàng đầu trong lĩnh vực tài chánh vùng Châu Á Thái Bình Dương lâu rồi.
Tuy nhiên, trong khi khoan hồng cho dân quê trồng cây thuốc phiện thì chính phủ Thái lại đòi tiền thật nặng trên việc buôn bán bất hợp pháp này. Chẳng khác gì đi siêu thị mua cà phê, trong khi trên kệ chất hàng đống, bạn lấy một ít đem ra quầy tính tiền thì bị bắt giữ. Bạn thử nghĩ có vô lý không?
Có một điều khó hiểu là làm thế nào chính phủ khuyến khích cảnh sát thực thi việc này. Họ khích lệ bằng cách thưởng tiền cho mỗi cuộc bắt giữ có liên quan đến ma túy. Bây giờ thì tôi không chắc lắm, nhưng điều đó, theo nguồn tin đáng tin cậy, đã xảy ra trong năm 1978. Điều thú vị là để khích lệ các nhân viên cảnh sát tích cực ráo riết trong công việc này, chính phủ rao tiền thưởng tính theo phần trăm giá thị trường của ma túy lúc bị bắt. Vì lương hàng tháng của cảnh sát Thái không cao nên đã khiến cho khách du lịch thuần túy cảm thấy không yên lòng. Còn tôi, rất rõ ràng, tôi không phải là một trong những người du lịch trong sạch đó. Mặc dù tôi có nghe vài câu chuyện rất khủng khiếp về ngục tù, song nếu tất cả những nhà tù trên thế gian này không có những kẻ tuyên bố là mình bị oan thì chỉ còn lại vài tên cai ngục ra vào buồn chán! Cho dù bạn không biết nhiều về họ bằng tôi, chắc chắn bạn sẽ cho như thế là khôi hài để tin rằng lực lượng cảnh sát của một quốc gia vô tổ chức như cảnh sát Thái không nhúng tay vào chuyện tham nhũng. Nếu xui xẻo, bạn sẽ chứng kiến được cảnh đó diễn ra trước mắt. Tôi sẽ không bao giờ trở lại Thái Lan vì bất cứ một lý do nào nữa.
Tôi không nhớ đã đến Bangkok bao nhiêu lần rồi, nhưng duy có hai lần tôi gặp rắc rối. Lần đầu, tôi gặp Lão Già trong một khách sạn ở đường Patpong có tên là quầy rượu Texan. Hắn đang say mê một phụ nữ Thái và muốn cưới bà ta để về chung sống với nhau tại Bangkok. Đi cùng hắn lúc bấy giờ là một người Úc tên Neddy Smith, người này đang hỗ trợ tài chánh cho Lão Già.
Phải nói là vừa gặp Neddy tôi mến ngay. Neddy là một người có vẻ rất chân thật. Anh ta có thể giúp bạn bất cứ điều gì. Việc Neddy trở thành một trong những tội phạm người Úc khét tiếng nhất không rõ ràng tí nào. Trong buổi tối đó, mấy lần Lão Già gạt tôi qua một bên và cảnh báo tôi không được tiếp xúc thân mật với Neddy. Hắn nói với tôi Neddy là một người xấu cần phải lánh xa. Cũng nhờ vậy mà tôi quen được Neddy và chúng tôi trở thành hai người bạn tâm đầu ý hợp. Khi trở về Úc chúng tôi thường xuyên giữ liên lạc với nhau.
Cũng trên cuộc hành trình này, tôi quen thêm một người nữa, người đó bảo rằng hắn có một số lượng lớn heroin chất lượng tuyệt hảo bán với giá rất rẻ và hắn còn cho biết những tay buôn ở Úc nhờ đó đã kiếm được một số tiền lãi kếch sù. Nghe nói đến heroin, tôi do dự một lúc rồi nghĩ đây là nơi dừng chân cuối cùng, nên tôi tiến hành quyết định vét một cú chót. Vấn đề còn lại là ‘Tiền’ thôi.
Chắc chắn đã có nhiều người, viết thư cho báo chí hoặc đài phát thanh lên án tử hình tất cả những ai buôn lậu ma túy, sẽ cho rằng tôi không còn là con ‘NGƯỜI’ nữa mà chỉ là một con thú nên mới có sự lựa chọn nhanh chóng và dễ dàng như thế. Nhưng tôi, ngay cả bây giờ, thì nghĩ khác. Tổng thống Harry Truman đã trăn trở suốt ba tuần lễ về việc có nên ném bom xuống Nhật Bản hay không. Ông ta còn biết trước đàn bà và trẻ em vô tội sẽ bị biến thành tro bụi, nhưng rồi cũng đã cho thực hiện hành động khủng khiếp này, có phải vậy không? Như thế thì gia đình của những nạn nhân đó xem thời gian suy nghĩ của ông mới là một ‘sỉ nhục’ lớn. Còn với tôi, tôi làm điều này nhưng không nghĩ đến điều gì cả ngoại trừ nghĩ đến TIỀN. Tôi hành động quá nhanh. Tôi tham lam và ngu ngốc. Nhưng tôi cho đó không phải hành động giết người bởi vì tôi không chứng kiến người nào là nạn nhân của tôi và tôi cũng chẳng hề nghĩ đến họ. Tôi thiếu suy nghĩ và vô tâm. Thật sự, lúc bấy giờ, tôi cho mình cũng giống như một người làm việc ở quán nhậu phục vụ bia rượu cho những gã nghiện mà thôi.
Trên đường trở về Úc, có một chút rắc rối xảy ra trên máy bay. Ngồi ngay cạnh tôi là bốn người đàn ông mặc com-lê say tuý luý. Tôi chẳng muốn để ý làm gì, nhưng qua những mẩu chuyện của họ, bản năng tôi báo cho biết họ là thám tử.
Lúc tôi nhận ra điều này thì có tiếng thông báo trên loa của viên phi công trưởng. Máy bay đang gặp vấn đề; do đó, thay vì đến Sydney máy bay sẽ đáp xuống phi trường Melbourne. Tôi bắt đầu bồn chồn và tự hỏi: “Sao họ biết được? Những tên thám tử này giả vờ say cốt để tôi không để phòng phải không?”
Lúc máy bay sắp hạ cánh tôi cảm thấy hơi yên lòng vì bọn họ đang bận rộn tìm lối ra, như vậy không phải họ cố tình theo dõi tôi. Do đó, tôi quyết định bám sát theo họ vì tôi cũng mặc com-lê, hi vọng người ta nghĩ tôi là thành viên trong nhóm vui nhộn này. Trong lúc đợi lấy hành lý, tôi quay lại nói đùa với viên thám tử, anh ta cười và trả lời một cách thật ngẫu nhiên. Nhưng khi hành lý nằm gọn trong tay rồi thì bỗng dưng tôi cảm thấy nhói ở ruột - một đoàn nhân viên hải quan xuất hiện nối đuôi nhau lục soát hành lý của từng hành khách. Tôi cho là mình chết đến nơi rồi, nhưng vẫn cố bám sát theo mấy tay thám tử. Biết đâu chừng đây là cơ hội duy nhất đem đến may mắn cho tôi.
Lúc tiến gần đến phòng thuế quan, tôi quay lại gã thám tử khi nãy nói đùa thêm vài câu và tôi chắc chắn một trong đám hải quan có người nhìn thấy. Một lần nữa, anh ta rú lên cười và líu lưỡi nói đùa lại. Vào lúc ấy, người đầu đàn nói chuyện với nhân viên hải quan và hình như hắn có trình huy hiệu của đoàn - tôi không chắc lắm - xong hắn quay lại với cử chỉ say xỉn chỉ vào đám chúng tôi như giới thiệu những người này đi cùng với nhau. Tên hải quan phất tay cho qua và thế là tôi đi theo nhóm của họ. Nhưng một tên hải quan nhìn tôi làm tôi cảm thấy bước chân của mình chậm lại. Lỡ tên thám tử đi đầu quay lại để xác định ai ở trong đoàn? Lỡ một trong bọn họ nhận ra tôi không thuộc vào nhóm của họ? Tôi cố gắng chống chọi từng cơn sợ hãi bằng cách nhìn thẳng vào người này, giả vờ say như các ông bạn thám tử kia, mỉm cười và gật đầu chào một cách lịch sự. Hắn cười lại rồi cho tôi đi qua. Thật nhẹ cả người. Mấy tên thám tử này say đến nỗi không hề biết là họ vừa hộ tống một gã buôn ma túy qua cổng hải quan an toàn!
Tôi lập tức gọi điện cho người tôi tiếp xúc ở Sydney. Hắn đang lên cơn đau tim khi nghe máy bay đổi hướng về Melbourne và không thể tin nổi tôi đã ‘hạ cánh’ an toàn. “Anh là một thiên tài” hắn cứ lặp đi lặp lại trên điện thoại: “Anh là một thiên tài khát máu”.
Mấy tuần lễ sau, Neddy gọi điện mời tôi đi nhậu ở quán rượu trên đường Kingsford. Rõ ràng thành phố Melbourne nhỏ bé thật, người ta đã loan truyền về tài vận chuyển lậu heroin của tôi cùng khắp. Neddy rất thích cái tính bình tĩnh của tôi trước những việc dầu sôi lửa bỏng. Anh ta bảo xung quanh mình có rất nhiều người dễ mất bình tĩnh trước tình huống sắp xảy ra, vì vậy anh ta cần một người cộng tác như tôi. Tôi nhớ rất rõ anh ta đã nói với tôi như thế này: “Warren, tôi có thể hạ gục một người to gấp đôi tôi rồi ngồi xuống một nơi nào đó để ăn trưa chứ đi qua cửa thuế quan với một vali đầy ắp ma túy thì tôi không thể nào làm được. Về việc này tôi xin đầu hàng.”
Sau đó Neddy chở tôi đi lấy cớ là đến một quán khác, nhưng nửa đường anh ta dừng xe trước một căn nhà, bảo tôi ngồi đợi rồi chạy vội để vào thăm một người bạn. Chốc sau anh ta đi ra, chui vào xe. Tôi để ý thấy anh ta giấu một gói gì đó dưới chiếc áo jacket. Bất thình lình anh ta rút khẩu súng ra, chĩa ngay vào đầu tôi với một giọng cười giết người, tôi không thể nào quên được, và nói: “Rất tiếc, anh bạn, kết cuộc là đây.” Tôi kinh hoàng nhưng có lẽ trên gương mặt tôi lúc bấy giờ không biểu lộ nét sợ hãi nào cả. Hàng triệu câu hỏi thoáng qua trong đầu: “Tôi đã nhận xét lầm người? Tôi đâu cố tình xâm nhập vào lĩnh vực của anh ta? Hay là Lão Già phản đối việc tôi quan hệ với anh ta?”.
Rồi bất thần Neddy bỗng phá ra cười, giọng cười thật thân mật, và hạ súng xuống. Anh ta bảo: “Đùa thôi, để thử xem anh bạn phản ứng thế nào.” Nhưng tôi biết ngay đây không phải chuyện đùa. Mấy giây kinh hoàng đó cũng đủ thử sự trầm tĩnh của tôi có đúng như lời đồn đại hay không. Neddy tung ngược khẩu súng rồi trao báng súng bảo tôi để vào hộp xe giùm anh ta. Tôi cảm thấy mình như đang bị thử thách một lần nữa nên từ chối. Nài nỉ không được cuối cùng anh ta mỉm cười rồi tự làm lấy. Sau đó hai đứa tiếp tục đến quán rượu khác để nhậu thêm một chầu nữa.
Neddy cứ muốn tôi làm việc với anh. Khi nghe tôi kể về Lão Già, anh ta bảo tôi đừng lo vì gã này sắp về sống ở Bangkok nên không còn nhiều việc để cho tôi làm nữa. Với Neddy, tôi không phải làm gì nhiều, chỉ cần mang tiền đi đây đi đó giùm thôi. Cuối cùng tôi nhận lời.
Anh ta đứng lên và hỏi bây giờ tôi có muốn đi với anh ấy không, đến gặp một người về công việc gì đó. Nghĩ đến cú chĩa súng vừa rồi, tôi bảo: “Thôi, tôi muốn ở lại uống thêm vài lon bia nữa.” Thấy nài nỉ không được Neddy bèn đi một mình.
Tôi cứ nghĩ mãi về hành động này của Ned. Điều gì sẽ xảy ra nếu anh ta đã gặp được người mà anh ta cố tìm kiếm? Cái gì sẽ xảy đến với tôi nếu tôi chịu cầm khẩu súng và để vân tay lại trên báng của nó? Tôi sẽ bị đổ tội giết người, Ned có thể hành động như thế đối với tôi không?
Từ ngày quen Ned, tôi chưa hề thấy anh ta tỏ vẻ gì là bạo lực cả. Chúng tôi đi chơi với nhau thường hơn và càng lúc tôi càng mến anh ta hơn. Ned có dáng người trung bình, đẹp trai song chẳng bao giờ dính líu gì với ai, ngay cả đàn ông cũng như đàn bà. Rồi dần dần tôi biết Ned là người sống ngoài vòng pháp luật vì tôi để ý thấy nhiều cảnh sát hay tiếp xúc với anh để báo trước những cuộc bố ráp sắp xảy đến cho vài người bạn của anh. Hình như cảnh sát, tội phạm, thương gia giàu có, ai ai cũng kinh sợ Neddy Smith hết. Mặc dù có tham gia vào những việc làm ăn phi pháp nhưng tôi ít được báo động khi có mạng lưới như thế này tung ra.
Tôi chắc là các bạn sẽ thắc mắc tại sao tôi lại thích giao du với loại người như thế; chính tôi, ngày hôm nay, cũng tự hỏi mình điều đó. Lý do duy nhất tôi có thể giải thích cho các bạn: lúc bấy giờ tôi còn quá trẻ nên dễ bị ảnh hưởng; hơn nữa, vào cái tuổi này mà quen được một người hầu như ai cũng nể sợ, tôi cho đó là điều đáng hãnh diện.
Ned rất yêu gia đình mình. Nhân ngày sinh nhật Jamie, đứa con gái cưng của anh ta, Ned có mời tôi đến dự. Ngay trong buổi tiệc nghe có tiếng gọi cửa, Ned bước ra thì gặp hai tên cớm, trẻ măng và đầy nhiệt huyết. Họ đến mời anh tới đồn cảnh sát để thẩm vấn. Ned có vẻ chế giễu, cười nửa miệng và nói: “Chúa ơi, hôm nay sinh nhật con gái tôi. Hẹn ngày mai được không?”. Nhưng cả hai đều yêu cầu anh ta đi ngay lập tức. Ned nghe thấy thế liền đổi ngay thái độ, anh ta rít lên bằng một giọng không còn bình thường nữa mà đầy vẻ hung ác: “Nếu bắt tôi phải đi ngay thì sau này hai người đừng hòng sống sót”. Một trong hai tên tỏ ra dạn dĩ; tuy nhiên, không thể giấu được vẻ sợ hãi. Hắn giục Ned đi và bảo đừng nói điều ngu ngốc như thế. Ned bây giờ trổ uy thế của mình bằng giọng đe dọa: “Tôi không ngu ngốc và cũng chẳng xấc láo. Tôi cho các anh hai giải pháp: rời nơi đây ngay hay muốn chết. Đơn giản chỉ có vậy thôi”. Không những tôi sững sờ mà hai tên cảnh sát còn sững sờ hơn. Trước kia chưa bao giờ nghe Ned dùng giọng đó nói với bất cứ người nào, huống hồ đây là cảnh sát. Tôi không chắc rằng anh ta có cố ý không, và hai tên cảnh sát lại càng không tin song cả hai đều rút lui sau khi đưa ra một lần nữa lời yêu cầu thật yếu ớt.
Trên tất cả mọi thứ khác, Ned là một kẻ giết người nhưng lại tận tụy với gia đình. Lúc nào anh ta cũng muốn điều tốt nhất cho gia đình mình và cho bản thân. Bất cứ kẻ nào cản trở điều anh mơ ước đều gặp rắc rối khó lường.
Lão Già đang trở thành cái gai bên hông Ned. Người ta đồn rằng vào một buổi chiều tại quầy rượu Texan, hắn nốc nguyên một chai rượu và say túy luý rồi gọi điện thoại về nhà Ned nói lung tung về công việc làm ăn. Ned nổi nóng bảo hắn phải chấm dứt những câu chuyện như thế trên điện thoại, rồi cúp máy. Tối hôm sau, lão lại gọi một lần nữa, cũng lè nhè như đêm hôm qua, khiến Ned không còn kiên nhẫn nữa. Anh ta đã đầu tư rất nhiều tiền bạc vào công việc làm ăn với lão nhưng chẳng được gì ngoài chuyện bực mình.
Một tối, Ned điên tiết đến gặp tôi ở quán rượu. Anh ta vừa từ Bangkok về, ở đó Ned gặp Lão Già để bàn lại công chuyện làm ăn. Họ gặp nhau tại quầy rượu Texan, cũng trong tình trạng say xỉn, lão giới thiệu Ned với một người hoàn toàn xa lạ và oang oang nói công khai là Ned rất thích buôn bán heroin. Ned nổi quạu bảo lão hãy tỉnh lại và đừng nói đến chuyện như thế giữa những người lạ. Mặc dù lão cứ khăng khăng bảo rằng người bạn mới rất đáng tin cậy, Ned kết thúc ngay câu chuyện rồi bỏ ra về. Ned vừa về lại Úc để lo công việc nhà thì khám phá ra một điều, người mà lão giới thiệu ở Bangkok là một nhân viên của Welsh SAS và được đặt ở Thái Lan như một mật vụ của Khối Thịnh vượng chung. Chỉ có Thượng đế mới biết Lão Già đã đào loại mồ nào để tự chôn hắn. Ned không muốn mình dự phần trong đó. Lão Già phải ra đi thôi.
Một thời gian sau tôi gặp Paul Hayward, người sau này trở thành bạn thân thiết nhất của tôi suốt 13 năm. Paul là một quán quân về thể thao, một người tốt hơn những người tôi đã từng gặp. Là một võ sĩ quyền Anh, năm 1976 anh được Úc chọn làm đại diện trong kỳ thi Olympic ở Montréal, nhưng chỉ thời gian ngắn sau đó Paul ký hợp đồng với một công ty xuất bản, từ đó trong những cuộc thi thể thao anh ta chỉ tham gia chơi vậy thôi. Paul rất mạnh mẽ về cả thể xác lẫn tinh thần và là người sống rất có tình. Những gì anh làm đều xuất phát từ tâm chứ không phải vì muốn gây ấn tượng với người khác. Đó là con người của Paul.
Nhớ lần đầu khi tôi và Paul chưa quen nhau, trong một quán rượu, tự dưng có một tên đến quấy rầy tôi. Tôi chẳng thèm quan tâm. Đối với tôi, ai muốn tấn công về bất cứ chuyện gì tôi đều xem như chuyện vặt. Nhưng Paul thấy bực mình giùm bèn bảo gã, tuy bằng một cử chỉ rất hoà nhã nhưng không kém phần nghiêm nghị, hãy tránh xa và để yên cho mọi người ở đây vui vẻ. Rõ ràng tôi và Paul là hai kẻ xa lạ, vậy mà Paul đã đưa cổ ra bênh vực tôi. Dĩ nhiên anh ta chẳng sợ những tên thô lỗ ở các quán nhậu vì anh có võ, nhưng anh cũng chẳng cần chuốc sự bực mình vào thân như thế. Nếu bạn gặp những chuyện tương tự như vậy trước mặt Paul, anh ta cũng sẽ đứng ra bênh vực bạn ngay. Đó là điểm khá đặc biệt của Paul.
Paul còn là một cầu thủ chuyên nghiệp của liên đoàn bóng bầu dục Newton. Anh ta chiếm vị trí dẫn đầu khi tôi gặp anh năm 1978, như thế tuyệt đối anh chẳng có lý do gì để dính vào những sự kiện sau đây. Nhưng tại sao anh ta lại có một chỗ đứng trong câu chuyện đáng buồn này? Nguyên nhân là vì anh ta lấy Gail, em vợ hiện nay của Neddy Smith. Và đó là căn nguyên anh ta gặp tôi, Warren Fellows.
Paul đã làm rất nhiều việc có lợi cho Ned nhưng chưa bao giờ tham gia vào chuyện buôn bán ma túy xuyên quốc gia. Thật vậy, ở Bangkok, Paul chỉ mang tiền đến giao cho một người bạn của Ned thôi. Ned biết tôi sắp sang Bangkok nên đề nghị Paul đi cùng. Vào thời điểm này, tôi không chắc Paul có biết việc làm của tôi hay không nhưng Paul biết tôi sắp đi Bangkok. Như đã nói với các bạn, tôi rất mến Paul; do đó, không thể nào tôi lôi anh ta vào chuyện này. Tôi kể cho Paul nghe mục đích chuyến đi của mình. Ban đầu anh ta hơi có vẻ sợ sệt, nhưng cuối cùng anh đồng ý đi với tôi. Chính bản thân tôi cũng thấy nhút nhát. Vào dịp đi Bangkok vừa rồi, tôi phải bỏ lại một lượng ma túy rất lớn. Lý do là nơi tôi đến lấy hàng chính quyền rất dễ phát hiện. Nếu cảnh sát Thái Lan quyết tâm thêm một tí nữa thì tôi nghĩ mình đã bị ‘dính’ rồi.
Để lọt vào Bangkok lần này, tôi quyết định mang passport giả. Nhờ một người bạn chuyên làm những loại giấy tờ này, không lâu sau đó tôi hành trang lên đường với cái tên: Gregory Hastings Barker sinh ngày 25 tháng 3 năm 1952. Bạn tôi đã lang thang trong nghĩa trang để tìm cho được một người có cùng thời gian sinh với tôi. Gregory Barker chết khi mới 14 tháng tuổi, chưa kịp có tên trong hồ sơ xã hội. Và tôi đã bước vào vị trí của người này.
Tôi cảm thấy cần phải xin lỗi cha mẹ của Gregory Hastings vì đã lôi con trai mình vào công việc phi pháp. Nhưng nếu ông bà ấy còn sống, tôi tin chắc rằng điều tốt nhất họ muốn là tôi không nên nói với họ về chuyện này.