← Quay lại trang sách

Chương 3 NHỮNG DẤU HIỆU

Khoảng một tuần trước khi sang Thái Lan, tôi đang có mặt tại trường đua ngựa thì một anh bạn đến báo với tôi rằng: “Có một cảnh sát ở Manly gọi điện cho cha dượng của tôi hỏi rằng con ông có làm ăn chung với Warren Fellows không. Cha tôi trả lời chúng nó chỉ là bạn học cũ”. Tên cảnh sát nói: “Tốt, vậy ông nên bảo con ông tránh xa hẳn ra vì Fellows có dính đến việc chuyên chở lậu ma túy với số lượng khá lớn và đang bị chúng tôi theo dõi.” Và còn vài cảnh báo xác thực hơn nữa: Cảnh sát đang luôn để mắt tới từng hành động của tôi.

Hôm sau, tôi và Paul đến báo cho Ned biết điều này. Theo tôi nghĩ, Ned phải tỏ ra choáng váng, nhưng không thể tin được, anh ta không hề nao núng mà còn xem như đó là chuyện khôi hài. Toàn thể sự việc xảy ra quá lạ lùng đối với tôi, nên tôi tuyên bố rút lui khỏi công việc nguy hiểm này. Neddy không muốn tôi bỏ cuộc, anh ta cứ khăng khăng cho rằng nếu thật sự bọn cảnh sát có động tĩnh gì thì mình đã biết rồi. Câu nói này làm tôi hơi yên lòng. Tôi không biết mối quan hệ giữa Ned với cảnh sát mật thiết đến mức độ nào, nhưng tôi biết bất cứ hành động nào của họ anh cũng đều được thông báo trước. Dù vậy, tôi và Paul đều kinh hãi. Nỗi kinh hoàng này cứ ăn sâu vào cả hai chúng tôi. Cảm thấy nỗi lo này, Ned bằng giọng cương quyết sai Paul phải mang tiền đến Lão Già giùm anh ta. Paul trả lời sẽ không đi nếu tôi không đi. Riêng tôi, tôi chẳng muốn tí nào. Thái độ của chúng tôi làm anh ta mất kiên nhẫn. Thật sự, Ned không có vẻ gì đe dọa nhưng bằng một giọng khá thân mật, anh ta nói rằng chúng tôi đã làm anh thất vọng. Paul biết chắc chắn nếu để Ned thất vọng có nghĩa chúng tôi tự đặt mình vào cái ‘rủi’ lớn hơn là chọn đi Bangkok. Như vậy chúng tôi đã bị dồn vào đường cùng.

Khi các bạn ở vào tình huống tiến thoái lưỡng nan như thế, muốn thoát ra thật cực kỳ khó khăn. Trong bất cứ một xã hội nào, khi ta xa rời người thân để bước vào cái thế giới bí mật vì tình bằng hữu đều bị phản đối; bởi lý do đó mà bạn phải mạo hiểm. Dù sao đi nữa, ở bên trong hình như vẫn an toàn hơn. Tôi đang nghĩ đến một hình khối. Khi bạn ở ngoài cái hình khối này, bạn sẽ thấy góc cạnh của nó thật sắc bén. Nếu bạn tiến lại quá gần hoặc cố bước vào bên trong có thể bạn sẽ bị thương tích. Nhưng khi đã ở bên trong rồi, bạn sẽ thấy nó là chỗ ẩn náu an toàn vì các bức tường phẳng phiu và góc cạnh không còn sắc nhọn nữa. Từ bên trong, ta có cảm tưởng nó là một vòng tròn. Khi nó lăn, nó sẽ gây thương tổn cho những người bên ngoài chứ không phải làm thương tổn bạn.

Và vì vậy chúng tôi miễn cưỡng nhận lời. Cuối cùng Ned đã thuyết phục được chúng tôi. Trong lúc đặt vé máy bay và khách sạn - vào thứ Ba cho ba ngày lưu lại - tôi đã sử dụng điện thoại nhà Ned. Thành thật mà nói tôi chẳng nhớ mình có làm như thế hay không. Có lẽ có. Và tôi nghĩ hành động này đâu có gì quan trọng. Khi vé vừa đặt xong trước hai ngày chúng tôi lên đường thì tôi khám phá ra lúc bấy giờ cảnh sát đã ở ngay sau lưng chúng tôi rồi. Nhưng tôi hoàn toàn không hề hay biết cảnh sát Thái Lan đang đợi tôi trở lại đó từ tháng Hai.

Chiều ngày 2 tháng 10 năm 1978, chúng tôi đón taxi để đến nhà một người thường hay chở Ned; hẹn với anh ta mai đưa chúng tôi ra phi trường như đã sắp xếp trước. Nhưng khi đến nơi chúng tôi thấy nhà cửa trống trơn và cũng chẳng thấy bóng dáng anh ta đâu. Hiện tượng này rất lạ, nhưng vì quá vội và không còn thời gian để tìm hiểu, chúng tôi bèn gọi taxi khác để kịp chuyến bay số 5 của hãng hàng không Qantas. Lúc máy bay băng qua Đại Tây Dương được nửa đường, Paul mới mở miệng nói câu đầu tiên trong ngày: “Tôi nghĩ, chúng ta đã thoát.”

Bên ngoài phi trường Don Muang ở Bangkok, Noi, người thường xuyên liên lạc, đang chờ chúng tôi trong chiếc taxi màu đen. Lúc chở chúng tôi vào thành phố, hắn có vẻ bồn chồn. Tôi hỏi nguyên nhân thì hắn trả lời có vẻ hơi cáu kỉnh. Hắn cho biết vừa có hai người Trung Quốc mới bị hành quyết vì liên quan đến ma túy, thế thôi. Khi anh ta thả chúng tôi xuống khách sạn Montien, nơi chúng tôi đã đặt vé trước, tôi có dặn anh ba ngày sau trở lại để thu xếp việc làm ăn.

Ngày hôm sau, Paul đề nghị đến quầy Texan trên đường Patpong để uống rượu, nhưng tự nhiên tôi cảm thấy không muốn đi tí nào. Trước ngày rời Úc, Ned căn dặn chúng tôi từ đây trở đi phải tránh xa Lão Già vì anh ta không còn làm ăn chung với lão ấy nữa. Thay vì đến quán, chúng tôi đi mua sắm. Cửa hiệu đầu tiên chúng tôi vào là Natty Gems, một tiệm nữ trang mà có lần tôi đã đến mua ngọc. Vừa bước qua cửa tôi suýt va vào Lão Già. Vừa thấy tôi và Paul, mặt lão rạng rỡ hẳn lên. Không để mất thời gian, lão nài nỉ chúng tôi đi uống chung vì nóng lòng muốn biết tại sao chúng tôi có mặt ở đây. Không làm sao từ chối được, chúng tôi đành nhận lời. Suốt buổi nói chuyện lão thất vọng hoàn toàn vì không khui được thông tin nào từ chúng tôi cả. Paul cũng hiểu rằng tôi và Ned đã nhất trí loại lão ra khỏi công việc làm ăn chung. Do đó, Lão Già trở nên giận dữ và lộ vẻ thất vọng ra mặt.

Cái trớ trêu là buổi họp mặt ba người hôm đó đã bị theo dõi mà tôi hoàn toàn không biết và vẻ tuyệt vọng của lão lại được coi như một bằng chứng cho sự dính líu trong công việc của chúng tôi sau này.

Vào ngày thứ Năm, Noi đến gặp tôi bảo là hắn đang gặp rắc rối trong việc mua ‘hàng’ vì người ta đòi lấy tiền trước. Tôi hẹn hắn đến khách sạn để đưa và hứa trả công cho hắn khi nào hắn trở lại. Đến thứ Bảy vẫn chưa thấy tin tức gì của Noi, tôi bắt đầu lo lắng. Nhưng tôi nhớ rất chính xác những cảm giác vừa sợ hãi, vừa nhẹ nhõm lúc bấy giờ đang nháo nhào trong đầu tôi. Xét ra Ned không thể tin chuyện Noi bỏ đi với số tiền mặt đó được, nhưng ông ta sẽ cho rằng tôi và Paul sợ quá đến mất trí nên đã để điều này xảy ra. Tuy nhiên, tận cùng trong thâm tâm, tôi cho rằng khi trở về với hai bàn tay trắng vậy mà dễ chịu hơn.

Từ khi chuyến đi đặc biệt này bắt đầu, tôi cảm thấy vận may của tôi - bùa hộ mệnh đã theo tôi trong những chuyến làm ăn như thế này trong nhiều năm qua - đã chấm dứt tại Manly. Tôi vừa mới thấy thoải mái với viễn cảnh tương lai của mình thì Noi gọi. Hắn bảo mọi chuyện đã ổn hết rồi, đừng lo.

Hôm sau, hắn đến khách sạn Montien với hai túi xách đằng sau cốp xe. Tôi đưa tiền công cho hắn và nói còn 4.000USD nữa, thứ Tư đến chở chúng tôi ra phi trường tôi sẽ trả nốt. Mang hai túi xách lên phòng, tôi mở ra kiểm lại hàng rồi dồn tất cả vào một chiếc vali tôi mua để mang về. Paul đề nghị nếu tôi khôn ngoan thì cứ để chiếc vali đó ở phòng anh, vì anh ít có lý do để bị nghi ngờ.

Nhưng mấy ngày sau đó, tôi thấy Paul ngày càng trở nên bấn loạn. Vào cái đêm chúng tôi chuẩn bị trở về Úc, hai đứa rủ nhau đi uống rượu trên đường Patpong. Paul nói về ma túy và mỗi cử chỉ của anh đều lộ vẻ sợ sệt. Để trấn an Paul, tôi tình nguyện giữ chiếc vali đó trong thời gian còn ở lại Bangkok. Nghe thế, Paul có vẻ bình tĩnh hơn. Đêm cũng khá khuya và chúng tôi cũng đã say rồi. Hai đứa bàn tính sẽ làm gì khi về lại Úc. Paul bảo với tôi chuyện này khiến anh chẳng yên lòng chút nào và tuyên bố nhất định sẽ không dính đến việc làm ăn này nữa. Hai đứa thấm mệt nên quyết định về khách sạn ngủ.

Lúc bước vào trong sảnh, người giữ cửa gọi chúng tôi lại và lấy một mẩu giấy từ trong hộp thư đưa cho tôi. Trong thư viết: ‘Xin lỗi, ngày mai tôi không thể chở hai ông ra phi trường được, vì bận. Ký tên, Noi.’

Tiếng chuông báo động dồn dập vang trong đầu tôi. Noi quá bận đến nỗi không đến lấy 4.000USD, một món tiền quá lớn chưa chắc gì cả cuộc đời anh ấy kiếm được một cách dễ dàng như thế là điều vô lý hết sức. Người tài xế ở Sydney biến mất, rồi bây giờ người tài xế ở đây cũng bỏ rơi chúng tôi.

Tôi biết tin này sẽ đưa Paul vào tình trạng điên loạn hơn, nên quyết định lặng thinh, chúng tôi về phòng Paul nói chuyện một lúc. Do say quá nên tôi cũng chẳng nhớ mình đã nói những gì vào đêm hôm đó. Bây giờ nghĩ lại tôi vẫn còn cảm thấy ngượng. Tôi thức dậy không biết lúc đó đã mấy giờ rồi, và vì chưa tỉnh rượu nên khi trở về phòng tôi quên xách theo chiếc vali.

Nằm trên giường mình, tôi cảm thấy một mối lo kỳ lạ. Vấn đề đưa heroin vào Úc là một chuyện hết sức xa vời. Đó là cảm giác bất chợt xảy đến với tôi. Nhớ lại tất cả những dấu hiệu đã xảy ra trên đường đi, trong một thoáng tỉnh táo, tôi nghĩ tốt hơn là đem trút tất cả heroin vào bồn tắm rồi giật nước cho nó trôi phứt là xong. Tôi choàng dậy để thực hiện nhưng rồi nhớ ra chiếc vali vẫn còn nằm trong phòng Paul. Và cái giây phút định mệnh trong đời tôi đã điểm, tôi lại nằm xuống và suy nghĩ thêm. Nhìn đồng hồ, lúc đó đã 8.30 sáng.

Trong mấy phút ngủ lại chập chờn, tôi mơ thấy một cái gì đó rất nguy hiểm đang đuổi theo mình. Tôi chạy băng qua một khu rừng, giẫm nát thảm lá mùa thu bên dưới chân. Tôi không thấy người đuổi theo nhưng chỉ nghe được và cảm nhận được, thế thôi: một cái gì rất hung tợn đang săn đuổi mình. Tôi hét lên trong lúc chạy, nhưng tiếng hét vẫn nằm trong cổ họng không thoát ra được. Rồi tự dưng tôi bước ra một chỗ quang đãng. Chính giữa nơi này có một pho tượng bằng đá đẽo hình một người đàn ông có râu quai nón đang ngồi trên ngai, mắt nhìn thẳng về phía trước, tay phải ông ta cầm một cái đinh ba, nhưng đã gãy mất một cái chĩa chính giữa. Tôi đứng bất động trước pho tượng trong nỗi kính sợ. Rồi tôi nghe tiếng chân người đó đuổi theo tôi tới đây, đúng lúc tôi tưởng nó sẽ chụp lấy tôi thì nó cũng dừng lại. Chầm chậm tôi ngoái cổ nhìn, cái bóng của người thợ săn bắt đầu hiện rõ. Tôi choàng tỉnh dậy.

Có ai đó đang gõ cửa phòng tôi.