Chương 6 NHÀ MÁY ‘VUI NHỘN’
Nói đến trại Maha Chai là nhắc lại những ác mộng đối với người ngoại quốc nào đã từng bị nhốt tại đó. Người ta bảo rằng trại Maha Chai rất tàn bạo và độc ác. Nơi đó có nhiều phòng tối, những căn phòng nhỏ xíu không một chút ánh sáng. Ít ai bị nhốt tại đó chừng vài tháng khi ra khỏi mà còn sống sót.
Trại Maha Chai, do người Pháp dựng lên cách đây khoảng 100 năm, có rất nhiều cổng. Tường bao xung quanh được xây bằng đá tảng nên việc đào tẩu hoàn toàn bất khả thi. Về đến đây chúng tôi bị cùm và xích suốt ngày như những con thú. Những sợi dây xích nặng nề, sét rỉ, và bẩn thỉu đã dần dần làm lở hai mắt cá chân chúng tôi. Có lẽ đến lúc nó được tháo ra chắc tôi cũng chẳng tài nào bước đi được nữa. Paul và tôi hầu như không thể nhúc nhích dù đang ở trong tư thế đứng. Nhưng không lâu, tôi được biết nếu hối lộ ít tiền hoặc thuốc lá cho tên thợ rèn thì hắn sẽ nới cùm rộng ra cho thêm một chút, vì ngày nào hắn cũng vác búa đi kiểm tra và chỉnh lại những chiếc gông của chúng tôi. Còn vấn đề bọn quản giáo có bảo hắn đập thêm hoặc giả vờ vô tình hụt tay khi hạ búa xuống những bàn chân của tù nhân hay không thì còn tuỳ. Tôi biết được điều này là vì có lần tôi chứng kiến tận mắt nạn nhân hét thê thảm khi chiếc búa độc ác của hắn hạ xuống nghiền nát xương mắt cá của vài người, những chiếc xương vốn giòn vì suy dinh dưỡng. Đấy mới chỉ là sự tra tấn khởi đầu về mặt tinh thần nhưng Maha Chai vốn đã nổi tiếng rồi.
Chúng tôi bị dẫn đến một căn phòng nhỏ chật chội, nồng nặc mùi tanh tưởi do những vết thương đã tấy lên. Ở đây tù nhân bị đối xử rất tồi tệ. Sau khi đánh đập, họ thả mặc cho thân thể người tù thối rữa ra. Mỗi ngày chúng tôi nằm trong căn phòng này 18 tiếng. Thỉnh thoảng họ lại nhét thêm người mới vào. Con số tổng cộng lên đến 30.
Ở trong phòng có một cái hố đào sẵn dưới nền đất dùng làm chỗ vệ sinh, cứ 3 ngày nó mới được mang ra đổ và chùi rửa. Kế bên hố là một chậu nước để sử dụng thay giấy vệ sinh, vì vật liệu này ở đây làm gì được phép. Chừng sau vài hôm, cả căn phòng ngộp thở vì mùi phân người; do vậy mà chúng tôi không thể nào tránh khỏi bệnh kiết lỵ. Bạn thử hình dung xem tình trạng bẩn thỉu này sẽ như thế nào nếu sau vài ngày không được cọ rửa? Nhưng hầu như nó không được cọ rửa!
Nếu ai bị giam trong phòng này mà không tự kiểm soát được giấc ngủ của mình thì hầu như chắc chắn sẽ gây ra ẩu đả. Mấy anh Thái tìm đâu ra những con dao giấu theo mình, hễ mỗi lần xung đột xảy ra là có đổ máu và có người chết. Maha Chai là một nơi tổng hợp của mọi thứ: ô uế, máu, phân người, chết chóc và man rợ.
Trại số II là chỗ đáng sợ nhất, nơi để phạt phạm nhân.
Trong trại có vài phòng kín, kín đến nỗi không một tia sáng mặt trời nào lọt vào được. Mỗi phòng thường chứa khoảng 10 người đã thấy ngột ngạt rồi, nhưng họ nhét vào đó 20 tên cùng một lúc. Mỗi ngày tù nhân chỉ được thả ra để ăn những thức ăn rất khó nuốt và tắm bằng nước tắm ít ỏi trong cái thùng chẳng bao giờ thấy đầy. Dù phạm tội gì, bạn cũng có thể lãnh ít nhất một tháng nằm tại đây. Mỗi ngày hưởng 23 giờ 55 phút trong bóng tối, và 5 phút còn lại để ăn và tắm. Đó là thời điểm nổi bật nhất trong ngày. Thỉnh thoảng cũng có vài người bị nhốt vào đây 3 tháng liền. Ba tháng không ánh sáng, không được chăm sóc thuốc men, không một buổi ăn tươm tất và ngay cả không một tí gì gọi là vệ sinh. Nhưng các nhà chức trách Thái Lan phủ nhận điều này. Chỉ khi nào có đại diện của Lãnh sự quán hoặc các quan chức cao cấp đến thăm trại thì tình trạng tồi tệ kể trên mới được giảm thiểu. Không những viên Trưởng trại mà tất cả các quan chức trên đều biết ở đây là vô nhân đạo nhưng họ cứ lờ đi. Không tù nhân nào có thể tồn tại ra khỏi chốn này chính là điều họ muốn.
Một khía cạnh khác thêm vào sự đau khổ tận cùng này là đời sống hoang dã. Ở đây có rất nhiều gián. Gián bò khắp nơi và quấy nhiễu giấc ngủ của mọi người. Ban ngày sức nóng làm những đàn kiến rời tổ, nếu bạn nằm yên một lúc là bị tấn công ngay. Ban đêm thì muỗi bay ra hàng đàn như không lực Thái Lan. Chẳng thứ gì có thể đứng vững khi bị tấn công như thế. Nhưng điều làm tôi hãi hùng nhất là chuột cống. Chuột Thái Lan có nanh, mắt lồi và long lên sòng sọc trong bóng đêm, mõm thật dài như loài thú ăn kiến. Nhìn chúng, ta thấy hiện lên vẻ độc ác vô song, chúng cũng giống như loài gặm nhấm ở Úc, không nhút nhát, không lánh xa con người, xấu xí và không biết sợ hãi. Bạn mà nhìn chúng, chúng sẽ xuỵt lại ngay. Nếu ai đã từng xem phim hoạt hình Tom and Jerry thì sẽ nhớ hình ảnh người đàn bà nhảy ào lên ghế khi bà ta vừa trông thấy một chú chuột. Như thế bạn có thể hình dung ra cảnh trong đó 30 tội phạm gan dạ như thế nào khi thấy một anh chuột mò vào phòng. Ban đêm chúng xuất hiện từng bầy, gặm tất cả những thức ăn rơi rớt và tấn công dữ dội khi bạn ngủ. Nếu bạn kháng cự, lập tức chúng đớp ngay vào chân. Có con khôn hơn còn nhảy chồm lên cắn cổ họng bạn. Những phản ứng của bạn không những không làm cụt hứng mà còn kích động thêm tính hoang dã của chúng.
Có một lần khi Paul đang ngồi chồm hổm trên lỗ xí, bỗng từ miệng cống một con chuột phóng ra, như trong phim kinh dị, đớp ngay vào chân anh ta. Tội nghiệp anh chàng bị đau suốt cả tiếng đồng hồ mà không cách gì làm giảm được. Nhưng cái đáng tởm là anh ta bị cắn bởi một con vật xấu xí và rất gớm ghiếc thò ra từ một cái hố tối tăm, bẩn thỉu nơi anh ta đang làm vệ sinh. Chẳng khác gì một cơn ác mộng. Nghĩ cho cùng, tại sao ngay một sinh vật đơn giản như thế mà cũng ghét cay, ghét đắng chúng tôi.
Trong phim From Here To Eternity, nhân vật Ernest Borgnine nện Frank Sinatra như thế nào thì ở đây có một quản giáo tên là Prisit cũng giống hệt như nhân vật đó, chỉ khác có một điều da hắn sậm hơn thôi. Prisit thường mang đôi ủng đen nặng nề kiểu Đức quốc xã và bất cứ lúc nào, dù ngày hay đêm, cặp kính mát kiểu phi công không rời khỏi gương mặt hắn. Cổ tay hắn mang một băng da có gắn đinh tán nhằm mục đích làm rách thịt người khác. Tay lúc nào cũng cầm một cây gậy bằng tre rất cứng, đầu dưới có gắn cục bê tông. Hắn đúng là một tên sát thủ. Tôi chưa từng gặp người nào thích thú trong việc tra tấn con người như hắn. Nét mặt hắn luôn luôn hiện lên cái vui của sự độc ác cực kỳ.
Một hôm, lần đầu tiên tôi chứng kiến cách hành động của tên này. Hắn cầm gậy đi ngang qua cửa xà lim hò hét hết tù nhân Thái ra khỏi phòng và bắt nằm úp mặt xuống đất, rồi thật chậm rãi và có chủ tâm, hắn bước qua mình của từng người một, nện nhẹ cục bê tông lên đầu phạm nhân. Cuối cùng hắn dừng lại trước một người và hỏi: “Hôm nay có ai đến thăm mày không?” Người kia sợ hãi, run rẩy trả lời: “Dạ, tôi không biết.” Hắn hỏi tiếp: “Mày có gia đình không?”. Anh kia trả lời có. Hắn nói tiếp: “Nếu lần sau gia đình có đến thăm mày thì bảo họ mang cho tao 500 Baht.” Người kia trả lời sẽ cố gắng nhưng anh ta phân trần thêm rằng gia đình anh rất nghèo, nghèo đến nỗi không đủ tiền mua gạo để tự nuôi sống thì làm gì có đủ số tiền 500 Baht. Prisit nói tiếp: “Nếu không có thì từ nay đừng hòng được gặp gia đình mày.” Thế là Prisit đổi tư thế đứng và bắt đầu hành hung. Hắn dạng hai chân qua người anh ta, nện chiếc gậy lên lưng anh Thái một cách hằn học. Khắp khu nhà giam lúc bấy giờ người ta có thể nghe vang vọng tiếng rít của nạn nhân và tiếng thịt bị xé nát.
Không lâu sau đó tôi được diện kiến Prisit. Vào một buổi chiều tôi bị áp tải đến trại II nhưng không được cho biết lý do. Lúc đến nơi tôi đã thấy Prisit đi đi lại lại trước mặt các tù nhân khác một cách hung hăng và nét mặt đầy vẻ đe dọa. Khi tiến đến gần tôi hắn bước chậm lại. Tôi cố nhìn vào cặp mắt sau đôi kính đen vô hồn kia và thắc mắc không biết màu của chúng có đen bằng màu mắt của Chó Điên hay không. Bỗng dưng hắn quay phắt lại và đi thẳng về phía tôi. Tôi nhìn xuống vì không muốn mắt tôi đối diện với mặt hắn nữa. Prisit đứng cách tôi không xa, hắn vươn cánh tay phải ra và vuốt nhẹ trên ngực tôi khiến tôi hãi hùng và tim như muốn nhảy khỏi lồng ngực. Người ta đồn rằng ngoài cây gậy, đôi ủng, và báng súng, cánh tay phải của hắn là vũ khí rất lợi hại. Hắn thì thầm bên tai tôi: “Chi Yeng Yeng”. Câu này, tôi thường nghe người Thái nói với nhau, có nghĩa là: “Đừng xúc động.” Tôi chưa từng thấy hắn đối xử với ai theo kiểu này; do đó tôi nghĩ đây có thể là cử chỉ biểu lộ tình cảm của hắn nên tôi bớt lo. Hắn vuốt lên ngực tôi một lần nữa, lần này nhẹ nhàng hơn và cũng lập lại câu nói trên. Rồi thình lình hắn xoay cùi chỏ thúc mạnh vào bụng tôi. Đau điếng, tôi gục ngay xuống chân hắn gần tắt thở. Phải mấy phút sau tôi mới lấy lại hơi. Vừa thấy tôi chuẩn bị nhổm dậy, hắn giậm đôi ủng trên mặt đất ra ý muốn tôi phải ngồi ngay tại chỗ thêm một lúc nữa. Hắn muốn tôi hiểu đây là cách tỏ tình thân thiện và theo tôi, kiểu chơi này chắc còn được đem ra áp dụng dài dài.
Suốt tháng đầu ở Maha Chai, tôi luôn được sự khích lệ bởi tính lạc quan của Paul. Ý chí mạnh mẽ và lòng tin của Paul khó ai hình dung ra được. Anh ta là tù nhân duy nhất lúc nào cũng rèn luyện thể lực của mình. Mỗi thành công của anh đều được đúc kết bằng lòng tin vào sự may mắn và những thử thách đầy cam go. Mặc dù chúng tôi đang ở vào tình thế thật bi đát, cũng bị áp đảo tinh thần như nhau, nhưng Paul luôn luôn lộ vẻ kiên quyết chống lại nghịch cảnh. Trong lúc tôi thoái chí và tuyệt vọng, ngược lại Paul chẳng hề nói về tương lai bằng những lời lẽ đen tối nào cả. Lúc nào anh cũng nói với tôi: “Khi mình ra khỏi đây…” hay “Lần sau tôi gặp lại Gail…” hoặc “Khi mọi chuyện kết thúc…” Chẳng bao giờ Paul nghĩ cuộc đời của hai đứa sẽ chấm dứt ở chốn này. Đó là điểm nổi bật khiến tôi quý mến anh. Anh rất yêu gia đình. Chỉ có một lần, sau mấy tuần khi chúng tôi chuyển đến Maha Chai tôi mới thấy Paul đau khổ vô cùng khi nghe tin vợ anh, Gail, sinh một bé gái.
Ở đây, tôi được nhận thư của gia đình và của vài người bạn thân. Những lá thư này mang lại cho tôi sự nhẹ nhõm và ấm áp vì những người tôi thương yêu vẫn còn nghĩ đến tôi. Đồng thời, tôi cũng cảm thấy đau nhói trong lòng vì chúng nhắc nhở tôi rằng ở bên ngoài cuộc đời thật vẫn đang tiếp diễn. Tôi hình dung ra mọi người đang đi đây đi đó trong thế giới này. Tôi thấy họ đang ung dung ngồi xem tivi tại nhà, hoặc ở quán rượu nào đó. Tôi không bao giờ được chung vui với họ nữa, không bao giờ được nhìn cảnh họ sinh hoạt nữa. Không bao giờ, không bao giờ… nữa rồi! Tôi cảm thấy người ta không chỉ giam tôi trong ngục thất mà còn nhốt tôi vào trong một chiếc bong bóng bồng bềnh trên các đợt sóng, rồi lãng quên.
Tôi buồn bã vô cùng khi đọc lá thư của mẹ gửi từ quê nhà. Mẹ tôi kể trong thư, các phóng viên báo chí liên tục đến quấy rầy bà, tìm đủ mọi cách để vào phỏng vấn bà. Một mình mẹ phải đương đầu với họ. Tôi không thể nào tin được tại sao họ không chịu hiểu rằng mẹ tôi quẫn trí như thế nào khi con bà đang ở trong tình cảnh khốn đốn. Tại sao họ không có lòng trắc ẩn và để cho mẹ tôi yên? Ngay những lúc đi mua sắm bà cũng bị thiên hạ bu quanh chất vấn, bà không trả lời chỉ có lắc đầu: “Tôi không biết.” Càng nghĩ tôi càng cảm thấy lòng nặng nề hơn: tôi đã khiến người mẹ khốn khổ của mình trở thành tù nhân. Một lá thư khác cũng tác động vào tâm trí tôi, lá thư do một cô bạn gửi đến từ Úc. Nàng viết rằng nàng đã xem phim Midnight Express, nội dung câu chuyện có thật về Billy Hayes, người bị bắt ở Thổ Nhĩ Kỳ do tội chuyên chở thuốc phiện và bị đối xử rất tàn bạo khi ở trong tù. Nàng bảo rằng bây giờ nàng hoàn toàn cảm thông với những gì tôi hiện đang trải qua ở đây.
Một buổi sáng, tôi được gọi ra để dẫn qua trại số I. Tôi cảm thấy khiếp hãi vì đã ở đây gần mấy tuần nên biết rõ trại I khủng khiếp đến độ nào. Tôi nài nỉ tên lính cho biết nguyên nhân nhưng hắn chỉ trả lời vắn tắt là tôi sẽ bị đưa vào phòng tối. Vậy thôi. Nghe thế tôi rụng rời! Suốt thời gian qua, tôi cố tránh mọi sai phạm, vậy mà hôm nay lại bị đưa qua trại I, một nơi nổi tiếng nhất về những hình phạt cực kỳ tàn bạo. Không lời chống chế nào thay đổi được tình huống nữa, chỉ vài phút sau là tôi đã bị khóa chặt trong một căn phòng nhỏ tí sặc mùi hôi hám cùng với ít nhất là hai mươi người khác. Tất cả chúng tôi đều bị cột chặt vào những sợi dây xích to tướng và vì không đủ chỗ để duỗi chân ra phía trước nên chúng tôi ai cũng phải nép sát vào tường. Không khí trong phòng trộn lẫn mùi hôi từ thân thể của trên 20 nhân mạng ngộp tới mức một số người đã ngã bệnh và nhiều người khóc sướt mướt vì không chịu đựng được. Tất cả chúng tôi chen chúc nhau tìm một tí khoảng trống để duỗi chân, nhưng vô ích. Thường thì người nào đã vào đây ít nhất cũng nằm lại cả tháng. Tôi phân vân chẳng biết mình có sống sót nổi một ngày tại đây không.
Sau mấy tiếng đồng hồ bị hành hạ cả về thể xác lẫn tinh thần, tôi nhận ra một cảm giác kỳ lạ về sự hiện hữu của những con người đang bị giam cầm trong cái ngục tù bé xíu xiu này. Đó là cảm giác đấu tranh để tồn tại. Mặc dù không nói cùng ngôn ngữ và cũng chẳng thấy rõ mặt nhau, chúng tôi hình như muốn truyền cho nhau một thông điệp thật rõ ràng: không đấu tranh lẫn nhau mà chỉ đấu tranh với những tên quản giáo và chế độ tù đày. Chúng tôi phải cố gắng tồn tại vì nếu một người không chịu đối phó thì số còn lại cũng chẳng làm được gì. Chẳng ai muốn bị thương tổn cả. Phần lớn những người Thái trong đây chắc chắn sẽ bị hành hình, thế nên đời sống của họ bấy giờ thật đáng quý, cho dù cuộc sống đó có hèn hạ đến đâu.
Mọi người trong căn phòng này đều biết rõ nếu xảy ra bất cứ sự tranh chấp nào với nhau thì tất cả sẽ bị hủy diệt. Thế nên mỗi người là một thành viên trong cái khối kinh hoàng này đều phải cùng nhau âm thầm chạy việt dã để tồn tại. Chúng tôi bắt đầu thay phiên nhau san sẻ chỗ để chân: khi một người duỗi ra thì người đối diện phải co chân mình lại sát ngực. Mọi người đều cố gắng như thế và không ai nói với ai tiếng nào. Thật ra không có gì để mà nói. Điều này khiến căn phòng dễ chịu hơn, tuy nhiên nó cũng chẳng xua đi được cái kinh hãi của sự chịu đựng. Không có cách gì dù chỉ nhắm mắt lại để mường tượng nghĩ đến một nơi nào cách xa chỗ đó chừng vài dặm. Thân xác đang chịu đựng nỗi khốn khổ sờ sờ thì làm sao đầu óc thoát ra được. Nếu có một sự huyền diệu nào khiến tôi quen dần với cái thế ngồi co quắp và ép sát vách tường như thế này trong thoáng chốc thì mấy con gián quỷ quái lại lôi tôi trở lại tình trạng cũ ngay. Thật gớm ghiếc! Chúng tôi bị buộc phải nghĩ đến sự hành hạ này từng phút từng giờ. Đây là điều mà họ muốn ở chúng tôi.
Một buổi sáng, sau những đêm đen dài dằng dặc, chợt trong căn phòng tối tăm này xuất hiện một vệt sáng. Tôi nhận ra vài vết nứt trên trần, đủ rộng để không khí bên ngoài lọt vào làm xoay chuyển mùi hôi hám phía trên. Từ chỗ nứt đó, ánh sáng ùa vào như một tấm màn linh thiêng. Bức màn ánh sáng quét qua căn phòng tối tăm chỉ trong thoáng chốc nhưng rực rỡ vô cùng, rồi nhạt dần như thể nó muốn đi tìm cái gì đó cần thiết từ lâu mà không thấy được ở đây…
Phòng giam số I tối đen như mực, không có lấy một chút ánh sáng. Nhưng ánh sáng nào đã làm nhức mắt tôi? Bất chợt cửa phòng giam mở toang, tiếng còi thét lên ra lệnh tất cả mọi người bước ra ngoài. Đến giờ đi tắm giặt.
Mọi chuyển động của chúng tôi ở đây đều phải theo nhịp còi. Tiếng còi vang lên, chúng tôi lê sợi dây xích trên nền nhà, lảo đảo tiến về phía trước. Tiếng kế tiếp, mọi người nhặt xà bông thoa lên người. Vài phút sau nó lại vang lên bảo chúng tôi dừng lại. Nếu ai còn chậm chạp thì chiếc gậy sẽ đập ngay vào lưng. Tiếng thứ tư chúng tôi bước tiếp để lấy mấy cái ca nhỏ xíu đặt trên nền nhà ra hứng nước dội xà bông. Mỗi người chỉ được không hơn 3 ca vì nước phải tiết kiệm để người khác uống, đó là quy định của trại. Còi thổi lên một lần nữa, chúng tôi bắt đầu nhỏ từng giọt nước lên người để xà bông và cáu ghét trôi đi. Lần đầu tôi không biết điều này nên đã dội hết nước của mình và còn đem tẩm lên lớp bọt dày của cục xà bông đã khô quánh vì sức nóng. Tôi vừa với để múc thêm một ca nữa theo bản năng tự nhiên mà tôi đã làm trong suốt 25 năm thì lập tức tiếng hét vang lên. Tiếng hét này lôi tôi về thực tại: tôi hiện ở xà lim Maha Chai chứ không phải ở nhà. Tiếp theo là chiếc gậy giáng vào lưng tới tấp. Chịu không nỗi tôi đã để rơi chiếc ca và ít nước còn lại văng tung tóe. Chiếc gậy vẫn không chịu buông tha và tên cai ngục lôi tôi xềnh xệch ra khỏi phòng tắm.
Sau đó họ lùa chúng tôi qua bàn ăn. Thức ăn gồm có cơm và các thứ, dĩ nhiên, không thể nào nuốt nổi cho dù có đói rã ruột. Ăn xong chúng tôi theo tiếng còi lệnh lảo đảo trở về chỗ cũ. Cánh cửa xà lim khóa lại và tôi ngồi ở đó, trong cái lò nóng như thiêu với một lớp xà bông còn bám trên người chờ cho tiếng còi báo một ngày mới.
Cái thùng gỗ dùng để đựng phân của 20 người chúng tôi đã hai đêm một ngày rồi vẫn còn đó chưa được đem đi đổ. Hơi nóng hừng hực khiến mùi của nó xâm nhập thẳng vào cơ thể chúng tôi thay vì lởn vởn xung quanh. Vì thế có bịt mũi, bịt miệng cũng chỉ vô ích. Không khí trong phổi và không khí bên ngoài cũng đều hôi thối như nhau. Nhiều người trong chúng tôi đã mắc bệnh kiết lỵ.
Mấy ngày rồi tôi đói và khát không tả được. Tôi không thể nào tin được mình đang nằm trong góc xó xỉnh của quả địa cầu này. Tôi không thể nào tin được mình còn sống sót. Nhất là tôi vẫn còn không biết tại sao tôi lại ở đây. Những yêu cầu giải thích đã được đáp lại bằng thái độ nạt nộ, quát tháo và tiếp theo đó là tiếng còi bắt tôi câm lặng.
Một lần, sau khi tắm rửa và ăn sáng xong tôi để ý thấy vài anh Thái lén xới thêm ít cơm, thay vì lấy để ăn nhưng không, họ mang cơm đó về phòng. Tôi không biết họ sẽ làm gì nhưng chắc chắn là phải có kế hoạch thú vị lắm, khác với những diễn biến thường ngày ở bếp ăn của Maha Chai. Tôi cố lách mình đến góc phòng nơi mấy anh chàng Thái đang chuẩn bị… Lúc đến gần, tôi thấy một anh nhấc tấm ván dưới sàn nhà lên, cúi đầu nhìn vào cái khoảng tối đen rồi trút hết cơm xuống đấy. Bên dưới là những con gián khổng lồ, tôi chưa từng thấy bao giờ, đang bò lúc nhúc. Hóa ra họ lấy cơm để nuôi đàn gián và vỗ béo chúng để làm thức ăn.
Một anh cầm cái túi nylon vục xuống rồi vớt lên một đống gián mập ú. Chúng nó lúng túng trong cái bao, hối hả tìm đường tẩu thoát, con này ngã chồng lên con kia. Mấy anh còn lại lôi những lon sữa và lon đựng thức ăn bỏ trống đã được giấu bên dưới hầm gián. Họ bỏ những con côn trùng này vào lon, rồi nghiền nát ra. Anh cung cấp dầu, anh khác đem ra ít muối, tất cả trộn vào xác gián. Thấy tôi nhìn, một anh chia cho tôi một ít; nhưng chịu, tôi không thể nào thưởng thức được món ăn đó cho dù có đói đến thế nào đi nữa. Bằng tiếng Anh, anh ta diễn đạt cho tôi biết đây là món ăn duy nhất ở trong tù có chứa protein, nếu không ăn thì sẽ khô quắt từ từ cho đến chết. Tôi cố gắng giải thích với anh ta rằng ở xứ tôi gián được xem là loài bẩn thỉu nhất. Nhưng anh ta nói thêm chính nhờ nó mà một số người ngoại quốc đã sống sót khi ra khỏi phòng tối của trại này. Ngập ngừng, tôi bỏ vào miệng cố nuốt.
Mấy ngày sau tôi đã quen dần và học được cách ngủ. Tôi bắt đầu mơ mình đang ở nhà, sinh hoạt bình thường, làm những công việc của đời thường. Cho dù có bình thường đến đâu thì nó cũng hiện ra mọi chi tiết đáng yêu nhất trong giấc mơ. Tôi thường thấy và cảm nhận mọi thứ đúng như chúng đã xảy ra: hơi nóng bốc lên từ tách cà phê sáng sớm, tiếng rì rào của làn gió thoảng bên tai vào những buổi chiều ấm áp, mùi thơm của cỏ vừa cắt xong hay là mùi sách mới trong các hiệu sách. Thỉnh thoảng trong giấc mơ tôi thấy mình là người tự do và sống lại với những sự kiện có thật trong đời: thấy một băng đảng trang bị bằng súng trường, thắt lưng làm bằng các thứ vỏ sò ra chặn xe chúng tôi ở Bogota, Colombia. Họ giống như các băng đảng người Mexico trong những phim cao bồi miền Tây nước Mỹ. Thấy một người chột mắt đang ngồi đánh bài trên cảng Bombay trong khi đó bạn của hắn dẫn tôi vào những căn phòng chứa đầy ma túy và tôi thấy cả Avril nữa.
Sau khi tỉnh dậy tôi thường phân vân không biết mình đang ở đâu, tôi cứ nghĩ rằng tôi vừa mới rời khỏi cái thế giới đó.
Trong một giấc mơ khác tôi lại thấy mình đang ở Ấn Độ. Trong lúc đi dọc theo con sông, tôi gặp một thiếu nữ gương mặt đầy tuyệt vọng, ăn mặc không giống loại gái làm tiền, nhưng trông có vẻ bệnh hoạn đang run rẩy cố gắng đứng lên. Tôi hỏi Richard cô ta làm sao vậy, Richard trả lời cô ấy nghiện ma túy. Ngày hôm đó sau khi tỉnh dậy tôi nguyện với Chúa rằng nếu tôi có dính đến ma túy thì xin hãy cho tôi chết ngay.