Chương 7 MA TÚY
Ở Maha Chai thứ mà thiên hạ gặp nhiều nhất là tượng Phật, người Mỹ đen gọi là ‘cheeba’, và heroin. Hầu như anh chàng ngoại quốc nào bước vào đây cũng đều hít heroin. Trước khi bị tống giam vào trại này họ chưa hề chạm đến ma tuý. Nhưng vì ở đây họ phải chạm mặt với hoàn cảnh quá sức kinh hoàng hằng ngày nên phải làm quen với nó.
Hiện nay tôi nằm trong tay bọn Thái đáng ghét đã gần 300 ngày rồi và mỗi khi giật mình tỉnh giấc đều thấy hoảng sợ. Nỗi kinh hãi làm giật thót người như khi ta xem phim kinh dị và cứ như thế nó kéo dài không biết chừng nào mới dứt. Thỉnh thoảng một hình ảnh hoặc một lời nói nào đó từ quá khứ hiện về trong trí giúp tôi quên đi trong thoáng chốc, nhưng rồi như một cú điện giật, lại đưa tôi trở về thực tại với một nỗi ê chề. Do đó, tôi bắt đầu làm quen với ma túy.
Đối với ai chưa hề sử dụng heroin, tôi sẽ cố gắng mô tả cái cảm giác mà nó mang đến cho chúng ta. Không ngoài mục đích nào khác, tôi chỉ muốn giải thích tại sao tôi nghiện ma túy mà thôi.
Khi yêu một người, ta biết người đó sẽ cùng có cảm nhận giống hệt như mình. Ma túy mang lại một sự phấn chấn, một cảm giác khuây khỏa và thỏa mãn tuyệt vời. Nó cho ta cảm giác như thế đấy. Đối với thể xác thì cảm giác này dễ nhận thấy hơn rất rất nhiều. Dù ở vào hoàn cảnh tồi tệ nào đi nữa, nó đều giúp ta chịu đựng được hết. Tóm lại, ma túy đem lại cho ta một thế giới thật tuyệt vời, giúp ta tỉnh táo trong mọi tình huống dù đau khổ nhất. Sự thay đổi này thuần túy thuộc về cảm xúc - một vài cảm giác hạnh phúc hòa lẫn cảm nghĩ rằng cái gánh nặng trong ta được cất lên bay bổng một cách phi thường. Và gánh nặng càng nặng thì cảm giác bay bổng càng cao. Ở nơi này - như Maha Chai hay ở bất cứ trại tù nào, heroin là một giải pháp thật hoàn hảo.
Đương nhiên khi tác dụng của heroin hết rồi thì ý thức vấn đề thực tế càng khó chịu hơn, thế nên ta cứ tìm mọi cách để trở lại cảm giác lâng lâng trên. Như thế là không ai thoát được nó rồi! Trong khi ta vẫn còn vương vấn với sự vui sướng đã trải qua, đồng thời trạng thái bồn chồn cứ lẩn quẩn trong đầu thì ta sẽ lao sâu thêm vào cái vực đó.
Tôi nghĩ rằng các nhà chức trách cố gắng giải thích cho trẻ em lý do không được dùng ma túy mà cố tình tránh đề cập ma túy sẽ mang lại sự vui sướng như thế nào là đi sai đường. Tất cả những điều họ nói với trẻ em là: Nếu hút heroin vào thì sẽ bị ói mửa, đau đớn khắp người đến độ có cảm giác thân thể sắp bị nứt ra. Thế nên khi những trẻ vị thành niên thử hút lần đầu - điều này không thể nào tránh khỏi xảy ra và khả dĩ còn hơn bây giờ nhiều - chúng thấy tuyệt vời không tả xiết. Chẳng có ói mửa, chẳng thấy đau đớn và cảm giác vô vọng mà họ đề cập cũng chẳng thấy xuất hiện. Chúng kết luận rằng các ông bà có chức quyền kia chỉ cảnh báo những điều trên mà lờ đi trạng thái phơi phới thật sự do heroin mang lại. Họ đã nói dối hoặc quá ngu dốt. Tôi tin rằng nếu cái yếu tố bất ngờ này được đưa ra đồng thời với hậu quả của nó thì sẽ có ít người tình cờ rơi vào hoàn cảnh nghiện ngập hơn. Tôi thì hoàn toàn khác. Không có sự ngẫu nhiên nào, tôi nghiện chỉ vì quá tuyệt vọng và điên cuồng trong lúc đi tìm giải pháp thoát khỏi trại Maha Chai.
Mặc dù ngày xét xử gần đến nhưng tôi biết đấy chỉ là hình thức, chẳng có sự xét xử nào cả. Tôi hoàn toàn tin như thế vì nhìn vào những gì đã thấy ở đây - những bức tường, những gương mặt vô hồn, những kẻ giết người, những cảnh tra tấn, chuột cống và phân người… Đấy, cuộc sống của tôi sẽ vẫn tiếp tục. Tôi chỉ ước ao mình có thể sống rồi chết một cách yên bình tại nơi này. Vì vậy, tôi bắt đầu hít heroin. Và ngay tức khắc tình huống xung quanh trở nên dễ chịu hơn. Nhưng hút hay hít heroin ở đây rất nguy hiểm vì bọn lính có thể nhìn thấy khói, ngửi thấy mùi, hoặc nghe tiếng hít. Thế nên, tôi đành phải chích thôi.
Ống tiêm ở Maha Chai đâu có được dồi dào. Cũng như những thứ khác, muốn có nó trước hết bạn phải có tiền, sau đó tìm cho ra tên lính nào thích hợp. Nhưng đối với nhiều tù nhân việc này không thể thực hiện được. Trong đây, tuy nhiên, người ta phải học cách xoay xở. Đặc biệt, người Thái là một nhóm người xoay xở rất tài tình. Họ nghĩ ra phương pháp để chích mà người Mỹ đen gọi là ‘New York Gutter Rig’. Khi không có ống tiêm, họ dùng bút bi. Rút hết mực trong đó ra rồi làm cho sạch chừng nào tốt chừng đó, một đầu gắn kim tiêm vào - kim kiếm được từ bệnh xá của nhà giam, thường không bén lắm - được gắn vào một đầu ống rồi đốt xung quanh cho nhựa dính chặt vào kim. Sau đó họ cho bột heroin vào với số lượng cần thiết rồi đâm kim vào tĩnh mạch, nhưng cần phải có một người kê miệng vào đầu kia để thổi cho thuốc đi ra.
Mua heroin lậu trong này không khó khăn lắm, chỉ cần hối lộ mấy tên lính thì chúng sẽ lờ đi hoặc chính chúng nó mang vào bán cho bạn. Sự trớ trêu không bao giờ chấm dứt đối với tôi ở chỗ: chính loại thuốc này đã đưa tôi vào đây và cũng chính nó là thứ duy nhất giúp tôi tỉnh táo trong nhà lao này. Tôi nghĩ tôi sẽ không tranh cãi với bất cứ ai khi họ bảo rằng đến một lúc nào đó heroin sẽ sai khiến đời tôi.
Một hôm tôi đang kể chuyện vui cho vài người Thái nghe - lúc bấy giờ tôi đã học ngôn ngữ của họ tạm đủ để hiểu nhau. Tôi giả như mình đang điều khiển một cuộc đua ngựa. Tôi đặt tên ngựa bằng tên của vài người bạn và của mấy lính canh. Họ vui lắm. Bất chợt Prisit đi ngang qua, hắn nghĩ đó không phải là chuyện đùa bởi vì hắn không có óc khôi hài, hay cũng có thể óc khôi hài của hắn đã để chỗ nào khác. Hắn không thích thấy tù nhân vui hay nghe tù nhân cười, đặc biệt khi người kể chuyện lại là tôi. Tôi không hiểu sao hắn ghét tôi hơn những người khác. Tôi nhận thấy đúng là như thế!
May mắn cho tôi, chính các nhân viên của trại cũng nhận ra điều này nên họ cho chuyển tôi vào trại khác, nơi không thuộc quyền cai quản của Prisit. Tuy nhiên, hắn còn quyền hạn để khiến cuộc đời tôi điêu đứng, nhiều chừng nào tốt chừng đó. “Mày là tên làm trò hề hả, Warren?” Lúc đó cả phòng im bặt. “Nào, thử ra đây làm cho tao cười xem.” Tôi không nói gì cả. Thấy tôi im lặng, hắn đập tôi một cú như trời giáng và ra lệnh lục soát đồ đạc của tôi. Hắn đã tìm được cái hắn muốn, heroin. Thế là tức khắc hắn tường trình lên cấp trên để tống tôi vào phòng 39, phòng tối của trại I. Tôi nằm ở đây ba tháng! Theo tôi được biết thì chỉ có ba người ngoại quốc sống sót sau khi ra khỏi phòng tối này. Và tôi là người duy nhất biết họ, những người hiện còn sống sót.
Có một người Đức mắc bệnh lao khi còn ở phòng tối này, sau khi được thả, trông anh ta vẫn còn khỏe mạnh. Nhưng trước khi mọi người nhận ra điều gì đang xảy đến thì anh ta đã tắt thở. Tôi cho rằng có lẽ khi thoát ra được cái hộp tối tăm nhỏ xíu đó anh ta thấy nhẹ nhõm nên che giấu bệnh tình của mình. Một người Mỹ đã bị bọn lính gác giết vì lý do gì không ai biết. Chúng mở cửa xà lim, chụp lấy sợi dây xích và bắt đầu lôi đi. Chúng liên tục kéo anh ta lên xuống cầu thang nhiều lần, mỗi lần như thế đầu anh va mạnh vào các bậc thang dưới mỗi bước chân của chúng. Hành động này kéo dài 20 phút cho đến khi tiếng hét tắt hẳn cũng là lúc hộp sọ anh ta đã dúm dó hoàn toàn. Khi đưa anh vào bệnh xá, chúng tôi thấy hai cánh tay của anh bị đâm thủng nhiều nơi. Bọn lính gác báo cáo láo rằng anh đã sử dụng thuốc quá liều nên lúc leo cầu thang bị trượt ngã và đầu lao thẳng xuống đất.
Vừa nghe tin con mình chết, mẹ anh ta khăng khăng đòi mổ tử thi để khám nghiệm và đương nhiên người không tìm thấy một chút dấu vết heroin nào! Từ đó tôi không còn nghe về bà ta nữa, nhưng nếu bà còn sống thì có lẽ bà vẫn còn vận động để san bằng cái nhà tù Maha Chai.
Thời gian nằm ở phòng tối 39, tôi gặp một người Hoa tên là Sati. Anh ta là người có tâm hồn và rất hòa nhã. Không những thân thể anh tráng kiện mà tinh thần cũng mạnh mẽ nên anh được mọi người, từ tù nhân đến lính canh, kính nể. Và ai cũng biết Sati có mối liên hệ với bên ngoài rất chặt chẽ.
Đương nhiên Prisit chẳng ưa gì Sati, khi có dịp là hắn ra tay trừng phạt ngay. Dù ra oai đến đâu Prisit cũng không thể làm Sati nể sợ dù chỉ một chút. Ai cũng biết rõ Prisit muốn hành hạ Sati hơn hành hạ bất kỳ người nào khác ở Maha Chai. Nhưng chẳng muộn, hắn có dịp rồi đây. Trong khi Sati bị biệt giam, vào giờ đưa thức ăn vào xà lim, anh ta nhờ một anh tù Thái chuyển bức thư ngắn cho tên lính gác đặc biệt. Anh này nhận lời, nhưng trên đường đi đã mở thư ra đọc. Trong thư Sati nhắn mấy người bạn bên ngoài gửi tiền vào cho anh tiêu, nhưng khi đưa lá thư cho tên lính, anh Thái nói với tên lính rằng Sati muốn số tiền gửi vào đó được an toàn nên phải giao cho anh ta giữ đến khi Sati ra khỏi phòng biệt giam. Vài ngày sau, Sati hỏi tiền của anh đâu thì mới biết tên Thái kia đã lấy tiền của anh tiêu mất rồi. Khi ra khỏi phòng biệt giam, Sati không hề đi tìm anh Thái để lấy tiền lại, hình như anh đã quên bẵng sự việc này rồi.
Mấy tháng sau, khi Sati lãnh thêm một hạn tù khác ở phòng tối thì anh chàng Thái này xuất hiện. Để cố gắng moi thêm ít tiền nữa, anh Thái tình nguyện đi đổ phân cho các phòng tối ở đây. Khi anh ta vừa mở cửa, Sati phóng đến chụp lấy cái thùng phân trên tay, đập mạnh lên đầu anh ta làm chiếc thùng vỡ ra hàng trăm mảnh. Người ướt sũng vì nước phân và trong lúc anh ta chưa kịp phản ứng thì Sati nhanh như cắt nhặt một mảnh gỗ nhọn thọc ngay vào tai anh Thái. Thanh gỗ đi thẳng vào óc nạn nhân.
Chẳng để mất tí thời gian, Prisit có mặt ngay ở hiện trường - đây là cơ hội hắn đợi chờ từ lâu. Chẳng một lính gác nào chứng kiến sự việc xảy ra và không một ai trong đám tù dám hoặc muốn lôi tên Sati ra cả. Lại một lần nữa Prisit bị tước đi quyền kết tội Sati. Tuy nhiên, hắn lôi Sati lên phòng tra tấn và giữ anh ta ở đó trong mấy ngày. Không một ai biết chính xác việc gì xảy ra trong những ngày Sati bị giam giữ ở đó. Nhưng chắc chắn Prisit đã hành hạ Sati đến tận cùng như hắn từng mơ ước. Khi Sati trở lại phòng giam, thân xác anh trông tả tơi một cách thê thảm. Và lúc nào cũng vậy người ta chỉ thấy Sati ngồi trầm ngâm trong một góc phòng.
Qua mấy tuần lễ sau chúng tôi nhận xét thấy anh ta có hơi thay đổi, nhất là khi Prisit xuất hiện. Vừa thấy tên cai ngục, Sati cúi gầm mặt xuống như không muốn đối diện cái nhìn chằm chằm của hắn, song thái độ của anh chẳng hề tỏ ra khúm núm chút nào và hình như có vẻ trầm tư hơn, như thể anh không muốn bị lôi kéo vào một trận chiến kém quan trọng hơn cơn bão tố sắp xảy ra.
Tất cả tù nhân ở Maha Chai chán ngấy hành động độc ác của Prisit. Nhiều người cho rằng hắn được nuôi dưỡng bằng quá nhiều thù hận nên thế nào cũng chết sớm. Nhưng không, bao quanh Prisit là một nhóm bộ hạ toàn cấp trung úy nên mọi cố gắng mưu sát nào, có thành công hay không thì kẻ chủ mưu cũng bị chính tay hắn kết thúc cuộc đời.
Một hôm, tin dữ lan ra toàn ngục thất. Ai cũng biết công việc ngoài giờ của Prisit là lái taxi vào ban đêm. Theo tin đồn, Prisit như thường lệ lái lòng vòng ở khu phố Tàu để kiếm khách. Hôm đó, hắn chở một cô Thái còn trẻ đi chơi với bạn về. Cô này đã ngà ngà say nên nàng nói chuyện huyên thuyên với hắn. Nàng đã phạm một việc hết sức sai lầm là kể cho hắn nghe về chuyện anh nàng, người mà nàng vô cùng yêu quý, đã chết trong thời gian thụ án ở Maha Chai.
Bản chất đen tối nổi dậy, Prisit không thể nào cưỡng lại món quà ngon lành tự dưng đem dâng đến tận miệng. Thay vì chở cô gái về, hắn đưa cô ta đến một con đường vắng vẻ, cưỡng hiếp dã man và bỏ cô ta nằm lại đó. Rồi tình cờ có người đi qua thấy nàng suýt chết. Câu chuyện này là một cảnh giác cho tất cả những anh tù có gia đình đang sống ở Bangkok. Đối với họ, hàm ý này kinh tởm quá sức chịu đựng.
Cách một hôm sau ngày sự việc trên xảy ra, tù nhân ở Maha Chai choàng tỉnh giấc trong trạng thái kinh hoàng do tiếng xì xầm của bọn lính gác từ phía cổng. Trước cổng trại là một cảnh vô cùng rối loạn. Gần đến trưa thì tin tức lan ra khắp trại như một tia lửa điện: Tối hôm trước, Prisit cũng lái taxi chở khách, hắn gặp một người Hoa ăn mặc rất sang trọng. Người này bảo hắn chở đến một nơi ở ngoại ô thành phố với giá thuê rất hậu hĩ. Prisit hẳn đang hồ hởi với món tiền rất hời này. Tuy nhiên, khi xe đến chỗ hẹn, anh Tàu rút súng ra lệnh cho Prisit bước ra khỏi xe. Tại đây đã có vài thanh niên đứng đợi sẵn. Thế là Prisit bị rơi vào ổ phục kích.
Sáng sớm hôm đó, mấy lính gác nhìn thấy trên con đường ngay trước cổng trại một người nằm bất tỉnh. Đó là Prisit. Hắn bị đánh đập và bị cắt xẻo nhiều chỗ: bàn tay phải quý báu của hắn đã từng thực hiện biết bao cú đấm, nay bị bẻ quặp đến tận nách và đặt chéo lên ngực như vũ khí của một người lính tử trận. Đương nhiên tin này làm cho tù nhân hân hoan và vui sướng ra mặt, ngoại trừ Sati.
Rõ ràng, khi nghe tin, anh ta gật gù và mỉm cười như thể nghe một câu chuyện mà ai đó đã kể từ lâu.
Chỉ có năm phút cho những buổi ăn sáng, thường thì chúng tôi như kẻ đi bới rác. Nếu tên lính gác nào tử tế, chúng tôi còn có thể thoả thuận để có một bữa ăn tương đối đạm bạc. Thỉnh thoảng, một anh chàng Thái xoay xở được ít bắp cải, anh ta mang bán cho tù nhân với món tiền khá hời. Hôm nào có cá thì người mua thường phải mang lén về phòng tối để ăn. Bởi vì khi tất cả mọi người kiệt sức vì đói mà thấy một anh có cải bắp hoặc cá ăn thì thế nào cũng đủ sinh ra chuyện đánh nhau đến chết.
Ăn thường là một việc rất khó khăn. Hầu như sáng nào chúng tôi cũng chẳng có gì để ăn ngoại trừ cơm thiu. Có lần, họ cho chúng tôi chút gì đó để thay đổi. Khi tiếng còi vang lên, chúng tôi tiến lại gần cái bát của mình: lại là cơm, nhưng bên cạnh đó có thêm một bát nước trông rất bẩn. Tiến lại gần hơn để quan sát thì trong đó lềnh bềnh xương cá còn dính mỗi cái đầu, giống như túi trà trong tô nước bẩn thỉu. Trong cơm còn thêm một thành phần nữa là giòi. Tất cả chuyện này không có gì bất thường, vì cơm lẫn giòi chết, sạn và mấy cục đất là chuyện thường ngày ở huyện. Nhưng lần này thì giòi vẫn còn sống và đang nhúc nhích. Nhiều anh đói quá nên chẳng ngần ngại gì, đặc biệt là người Thái, vì bao tử họ biết thứ gì thì tiêu hoá được. Có lần một anh Thái nói với tôi “Ở Maha Chai, bất cứ con gì nhúc nhích đều ăn tốt hết”.
Riêng tôi, dù cố gắng thử một ngụm nước cá nhưng không làm sao nốt trôi. Tôi ráng tách từng cục cơm nhỏ xíu ra khỏi đống giòi nhưng quả thật là rất khó.
Trong lúc tôi đang cố tập trung để nuốt cơm thì một tên lính vừa đi vừa nhai bí, nhổ phẹt một hạt bí vào bát của tôi. Anh Thái ngồi cạnh tôi giục: “Chi yeng yeng”. Tôi biết rõ tên lính này muốn xem phản ứng của tôi ra sao, nhưng tôi giả vờ lờ đi và tiếp tục ăn. Nhưng sau khi đi hết một vòng, hắn ta quay trở lại và phun thêm một lần nữa. Lần này hạt bí bay thẳng vào mặt tôi. Trong tình huống không đặng đừng này tôi đã đánh mất lý trí, tức khắc nhảy chồm lên ném bát cơm vào mặt hắn. May mắn, tôi đã ném hụt. Tuy nhiên, tôi biết rồi mình sẽ gặp rắc rối to. Không suy nghĩ, tôi bật lên chạy nhưng sợi dây xích móc hai mắt cá chân khiến tôi không thể nào chạy nhanh được, chỉ vài feet trong một giây là cùng. Tôi hướng về phía cầu thang trước khi bị tên lính chộp cổ và mắng xối xả vào mặt. Rồi hắn đưa tôi lên cầu thang, ấn tôi vào trong một căn phòng và bắt ngồi đợi ở đó.
Một lúc sau, hắn trở lại cùng với vài tên khác. Trong tay hắn là một cái hộp trông giống như hộp đựng đồ tiếp tế. Toét miệng cười, hắn mở chiếc hộp và đưa cho tôi xem các thứ đựng trong đó: nào thơm đóng hộp, một hộp cá mòi, một hộp đậu hầm và một lọ chất dẻo làm từ men bia. Tên lính bảo rằng cái gói này là của Paul gửi, vì anh ta thường nhận quà ở nhà và đã yêu cầu để dành cho tôi. Trong khi tôi ngồi nhìn thì mấy tên lính kia thi nhau mở hộp thức ăn. Không thể nào tin nỗi những thứ thức ăn rất thông thường này lại có thể được sử dụng như dụng cụ tra tấn, nhưng, vào ngày đặc biệt này, bị ép phải ngồi nhìn những tên lính ăn rồi cười trong khi tôi đói rã ruột thì nó thật hiệu quả như bất kỳ sự sỉ nhục nào mà họ có thể đối xử với tôi.
Duy có một điều làm tôi không đau lòng trước cảnh này: Sau khi ăn hết hộp thơm, tên lính, người đã phun hạt bí vào người tôi, mở tiếp lọ mứt. Miệng cười toe toét, hắn nhúng một ngón tay vào lọ và móc ra một cục nhựa đặc quánh đưa lên quệt vào môi. Khi nhìn thấy hắn ói mửa dữ dội, tôi quay lại phòng giam tức khắc.
Vào một đêm khá khuya giữa mùa hè, trước khi mùa mưa đến, tôi và khoảng hai mươi tù nhân khác bị nhét chung trong một phòng giam, tất cả đều bị xích. Phòng giam trở thành một cái hộp chứa đầy mồ hôi. Suốt mấy tiếng đồng hồ, không một ai cựa quậy - ngay cả mở miệng cũng không - vì mỗi cử động nhỏ nhặt nào cũng làm cho cơ thể tăng nhiệt độ. Ngoài ra, chuyển động chẳng có ích gì vì chẳng có nơi nào để đi tới đi lui và cũng chẳng có gì để nói.
Đột nhiên, như thể vừa mới xuất hiện, một anh Thái nằm trong góc phòng khiến tôi chú ý. Anh ta mặc một lượt hai chiếc áo đan chui đầu dài tay và trên người có đắp một cái chăn, rõ ràng anh ta đang run. Nhìn một hồi lâu cho đến khi biết chắc là anh ta đang bị bệnh, tôi có lý do chính đáng để xin đổi chỗ. Lúc đến gần, tôi thấy mồ hôi trong người anh ta đổ ra xối xả. Tôi cũng ngửi thấy có một mùi rất lạ. Lật chăn anh lên và cái tôi thấy khiến tôi muốn nôn ngay tại chỗ. Trông như thể ai đó đã lấy dụng cụ mở hộp mà cào chung quanh bàn chân và moi hẳn gót chân anh ta ra. Trong hốc thịt đó, đám giòi đang moi rúc. Quanh vết thương hiện ra một màu rất kỳ lạ, nó chẳng giống màu nào trong quang phổ cả.
Tôi nhờ tên lính gác đi mời bác sỹ, nhưng hắn từ chối. Hắn bảo với tôi sáng mai mới có. Tôi cố nài nỉ song hắn bảo tôi im miệng rồi bỏ đi. Suốt mấy tiếng đồng hồ liền tôi không thể nào chợp mắt vì mùi vết thương của người này đã chi phối các giác quan khiến tôi không thể lờ đi được. Đến gần sáng thì mọi người mới hay biết và họ dịch ra xa để anh ta nằm một mình trong góc vừa run vừa thổn thức khóc.
Cuối cùng, tên lính cũng đến mở cửa và hỏi tôi có còn cần bác sỹ không. Khi tôi trả lời thì hắn ta cũng nhận thấy mùi hôi và bắt đầu lùi xa. Tôi bảo hắn là tôi sẽ đưa người này đi nếu hắn chịu hộ tống chúng tôi đến bệnh xá. Hắn đồng ý.
Lúc tôi mang anh ta đi, đôi mắt của anh đã đứng tròng. Rõ ràng anh ta đã hôn mê, còn mùi hôi thì thật không chịu đựng nổi. Khi chúng tôi đến bệnh xá, vị bác sỹ thở một hơi dài và biết ngay người này đã bị hoại tử. Sau khi khám xong, bác sỹ bảo chân anh ta cần phải cắt bỏ. Nghe nói thế, anh ta chợt tỉnh hẳn và tuyên bố thà bác sỹ lấy đi mạng sống của anh ta hơn là cắt mất chân. Là một tín đồ Hồi giáo, anh ta bảo việc huỷ đi một phần cơ thể mình là điều bị nghiêm cấm. Vừa nghe anh ta nói thế, vị bác sỹ xẵng giọng trả lời: “Băng bó một người rồi cho phép anh ta nằm chết trên giường của bệnh xá đối với tôi không thành vấn đề”.
Tôi đang đeo chuỗi tràng hạt trên cổ, tràng hạt này do một người bạn gửi cho. Tôi biết người Hồi giáo không hiểu được biểu tượng quan trọng của đạo Công giáo. Tuy nhiên, tôi cứ cởi ra trao nó cho anh và giải thích rằng vật này tượng trưng cho thiện ý của tôi và nó không vi phạm gì đến tôn giáo của anh cả. Tôi bảo anh ta cứ giữ nó đi và đồng thời, tôi cũng luôn nghĩ đến anh. Anh ta chấp nhận với một cử chỉ biết ơn rồi rơi vào trạng thái hôn mê trở lại.
Vị bác sỹ sử dụng thuốc kháng sinh tetracycline trong trại Maha Chai. Theo tôi hiểu tetracycline còn lại sau Đệ Nhị Thế Chiến, đó là một loại thuốc độc, rẻ tiền mà ngày nay trong xã hội tiến bộ không còn ai dùng nữa. Và giờ đây nó được dùng chữa trị cho chúng tôi với bất cứ bệnh gì. Sau khi mổ hoặc băng bó một vết thương, bác sỹ chỉ cần bẻ cái cổ của ống thuốc tetracycline làm đôi và rắc chất bột lên vết thương, sau đó hình như nó lành lại rất nhanh. Mặc dù vậy, đây vẫn là một loại thuốc quá cũ không đáng tin cậy.
Anh Hồi giáo sau đó được chuyển về bệnh xá Lard Yao, kề bên trại tù khét tiếng Bang Kwang. Theo tôi thì chắc chắn anh ta đến đấy để nằm chờ chết.
Nhưng… khoảng chín tháng sau, tôi được gặp lại anh chàng này. Anh vừa chạy xuống hành lang vừa reo gọi tôi. Khi đến gần, anh ta ôm chầm lấy cổ tôi và hôn tíu tít lên hai má. Tôi quá đỗi ngạc nhiên thấy anh ta vẫn còn sống và lại còn có khả năng chạy nữa. Anh ta đưa chân lên cho tôi xem, không thấy gì cả ngoại trừ một vết thẹo nhỏ xíu. Anh ta liên hồi nói cám ơn tôi vì những điều tốt đẹp nhất mà tôi đã dành cho anh. Anh ta trả lại xâu tràng hạt và nói rằng nếu không có nó và sự quan tâm lo lắng của tôi thì anh ta đã chết chắc rồi.
Đây là lần đầu tiên trong đời, tôi bắt đầu suy nghĩ nghiêm túc về Thượng đế. Cuộc đời tôi hiện nay đã đủ tồi tệ rồi, nhưng nó vẫn khiến tôi làm được một điều có ý nghĩa.
Cuối cùng, sau ba tháng tôi cũng được thả ra khỏi phòng tối. Chắc tôi thích nghi với môi trường quá dễ dàng nên họ lại đem tôi nhốt vào một trong những căn phòng nóng của toà nhà số 9. Họ nghĩ tốt nhất là không nên ném tôi trở lại mảnh đất sống quá sớm.
Trước kia tôi đã từng ở đây nên biết rõ cái gì đang chờ mình: các bức tường đẫm mồ hôi, kiến lửa, muỗi mòng, không nhà xí… Nói chung thì phòng nóng tệ hơn phòng tối nhiều, nhưng điều khác nhau duy nhất là tôi có vẻ cách biệt hơn và không bao giờ ở đó lâu hơn một tuần. Tuy nhiên, có một cái gì đó về căn phòng này khiến tôi sợ chết khiếp.
Sau hai ngày nằm ở đây, vào một đêm tôi chợt tỉnh giấc và nghe rõ ràng âm thanh giọng nói của một người đàn bà. Tôi không biết nó từ đâu đến - không gần mà cũng chẳng xa, chỉ ở đó - hình như nó vang vọng dọc toà nhà một cách quái đản. Tôi cho rằng mình sắp điên rồi nên thoải mái với ý nghĩ đó, tôi trở lại ngủ tiếp.
Ngày hôm sau tôi kể cho anh Thái nằm kế xà lim nghe, nghĩ rằng anh ta sẽ cười và cho là tôi dở hơi, lẩn thẩn. Không ngờ anh ta cũng đã từng nghe giọng nói đó, và cũng biết nó là của ai. Theo anh kể toà nhà này trước đây là trại giam nữ, một nơi khét tiếng về chuyện cưỡng hiếp và chém giết hàng ngày. Anh ta tin đó là linh hồn của một phụ nữ đã chết trong ngục. Không những nhiều tù nhân mà cả lính gác cũng tin chuyện này. Anh ta còn kể chính mắt anh đã trông thấy người đàn bà đó.
Một đêm trong phòng nóng này, anh tỉnh ngủ vì cảm giác có người nào đó đang ở trong phòng. Còn ngái ngủ, anh bèn lật chiếc chiếu lên thì thấy một người đang nằm bên cạnh. Nhưng khi mở choàng mắt ra thì không còn thấy gì ở đó nữa nên anh quay lại ngủ tiếp. Anh chỉ mới thiu thiu ngủ lại thì cảm nhận một sức đẩy rất mạnh từ sau lưng làm anh lăn ra khỏi chiếu và nằm ngay trên thềm. Anh quay lại nhìn và thấy nó. Mặc dù trong phòng rất tối nhưng anh cũng nhận ra cái dáng trên chiếu là một người đàn bà. Bà ta có một thân hình đẹp và mớ tóc dài dợn sóng. Anh không thấy được gương mặt vì bà ta nằm quay hướng khác, nhưng dù sao anh cũng biết rằng bà ta đẹp… Tuy nhiên, lúc đến gần thì bà ấy biến mất làm anh phân vân chẳng biết toàn thể sự việc vừa xảy ra có phải là giấc mơ không.
Không lâu sau đó anh đã có câu trả lời. Vào một buổi sáng rất sớm, lúc trời vẫn còn tối, anh tỉnh ngủ bởi sự rung chuyển khủng khiếp ở khu vực chung quanh toà nhà. Người ta tìm thấy một tù nhân treo cổ trên ống dẫn nước, chưa chết và vẫn còn tỉnh. Tự vẫn rất thường xảy ra ở Maha Chai nhưng lần này người làm cản trở sự việc lại là anh chàng sắp được phóng thích trong vài ngày nữa. Khi được hỏi tại sao hành động như thế thì anh ta có vẻ lơ đãng, cứ lặp đi lặp lại cái gì đó về người đàn bà có giọng nói rất hay.
Mãi về sau, khi đã hoàn toàn tỉnh táo, anh ta kể lại rằng anh đã thức dậy vào nửa đêm thế nào và thấy cánh cửa xà lim mở ra sao. Khi ló đầu ra cửa, anh thấy dáng một người đàn bà từ đằng xa, quay mặt về phía anh, vừa lướt chầm chậm xuống hành lang vừa thì thầm bảo anh đi theo. Khi đến gần khu nhà xí công cộng, bà ta không chạy nữa và bắt đầu quay lại. Đó là lần đầu tiên bà ta cho anh thấy mặt. Anh tù này chẳng nhớ chính xác mình đã thấy gì, nhưng anh ta bảo nó khủng khiếp khiến anh gần như muốn xỉu. Gương mặt đó bảo anh hãy đi theo. Đó là tất cả những gì anh còn nhớ rõ.
Khi được thả ra khỏi phòng nóng, tôi mất nước khá nhiều, lưỡi sưng vù trong miệng gần như không nói được. Sau khi được đưa vào bệnh xá, tôi xin bác sỹ cho uống nước nhưng bác sỹ bảo trong lúc này uống nước sẽ rất nguy hiểm. Tôi chỉ được nhỏ cho một giọt glucose thôi. Mấy ngày sau, bác sỹ mới bắt đầu thấm nước vào lưỡi tôi cách vài tiếng đồng hồ một lần.
Khi còn nằm ở bệnh xá, lúc tỉnh lúc mê, tôi tự hứa với lòng từ giờ trở đi tôi sẽ là một tù nhân tốt. Tôi đã đến Bangkok như một người hồ nghi về bất cứ chuyện mê tín nào, nhưng giờ đây tôi thật sự sợ hãi toà nhà số 9 và không bao giờ muốn ở đó lần nữa.
Một buổi sáng, Paul nhận được tin đau lòng là anh của anh đã chết trong một tai nạn xe hơi. Tôi cố hết sức an ủi Paul, nhưng biết rằng điều tôi có thể làm hoặc nói ra cũng không đủ để làm vơi bớt nỗi đau của anh. Giữa tôi và Paul đều cảm thấy có một sợi dây ràng buộc, ngoại trừ những chuyện khác, là cả hai đều có anh tên Gary. Và tôi hiểu nếu người chết là anh tôi chứ không phải anh của Paul thì tôi cũng tự nhốt mình trong chốn này, có thể điên lên vì quá đau khổ. Hai ngày sau đó, tôi không thể nào không nghĩ đến anh trai. Tôi biết rất ít về anh tôi. Chúng tôi cách nhau 9 tuổi, nên mỗi người có một đời sống khác biệt. Anh tôi đã giúp đỡ và bảo vệ tôi như phần đông những người anh lớn khác, nhưng điều đáng buồn là chúng tôi chưa bao giờ chịu tìm hiểu nhau nhiều hơn.
Tôi nhớ có một lần anh đã để lộ cảm xúc sâu kín của mình. Lần đó, chúng tôi đi xem phim Spartacus, lúc bấy giờ cả hai đều đủ trưởng thành để biết đó chỉ là bản thiên anh hùng ca của những chàng giác đấu được thổi phồng lên, nhưng có một điều gì đó về câu chuyện này đã chạm trúng tâm lý của anh. Kết thúc phim, Spartacus bị đóng đinh trên thập tự giá bên lề đường. Trong lúc này ông nghĩ rằng vợ và đứa con mới sinh của ông chắc đã bị bắt làm nô lệ. Bất ngờ gia đình ông xuất hiện trên con đường trước mắt ông, bằng cách lẻn ra khỏi vùng quê bằng một chiếc xe ngựa. Người vợ nhảy ra khỏi xe và đứng ngay dưới chân người chồng sắp lìa đời, hai tay nâng đứa con lên cho chồng thấy mặt.
“Nhìn đây Spartacus,” người vợ kêu lên. “Con mình được tự do rồi”.
Khi phim chấm dứt tôi quay nhìn anh và thấy anh khóc.
Bây giờ, tôi vẫn phân vân về điều đó. ‘Tự do’ đã là một đề tài trong cuộc sống của chúng tôi lúc bấy giờ sao. Tôi không biết anh tôi cảm thấy thế nào về đứa em trai của mình đang bị bắt nhốt ở một nơi nào đó. Tôi muốn thoát khỏi những bức tường của Maha Chai này để bù đắp lại khoảng thời gian mà chúng tôi đã đánh mất.
Chỉ sau cái tin của Paul có vài ngày, Lão Già đến gần tôi với bộ mặt u sầu. Trên tay ông ta là một bức điện tín. Của tôi. Điện tín nói rằng đã có sự lầm lẫn, không phải anh Gary của Paul chết trong tai nạn xe hơi mà là anh của tôi. Tôi vụt chạy. Tôi chạy dọc tất cả các hành lang rồi băng qua sân. Tôi chạy hết tốc lực. Cứ như thế tôi chạy mãi, chạy mãi đến khi gặp bức tường, tôi quành trở lại băng qua ngả khác. Một cái gì đó vừa mới móc lấy quả tim ra khỏi lồng ngực tôi và tôi hoàn toàn điên loạn. Tôi không thể ở yên và đứng yên trong cuộc đời khủng khiếp này. Tôi muốn chạy thật nhanh để thế giới tôi đang sống đây chấm dứt ngay sự hiện hữu, để mọi thứ xung quanh tôi không còn là thật, không còn gì hết, mà chỉ là cái bóng lờ mờ và không có tôi trong đó. Tôi đến bức tường của bệnh xá rồi quay lại và chạy tiếp, càng lúc càng nhanh. Những tên lính đuổi theo nhưng tôi không thấy chúng vì mắt đang nhoà lệ, cũng chẳng quan tâm mình đang đi đâu. Mỗi lần chạy chậm lại, tôi cảm nhận cái tin đó gần hơn và tôi lại chạy nhanh hơn. Tôi chỉ muốn đập phá các bức tường và cứ chạy để mọi đau khổ bị bỏ lại thật xa phía sau, không còn chạm vào trí nhớ của tôi nữa. Tôi chỉ muốn chết.
Chạy đến toà nhà số 1, tôi dừng lại và quỵ xuống khóc nức nở. Mấy tên lính xóc tôi lên chuẩn bị cho ăn đòn. Lúc bấy giờ có một người xuất hiện và kể cho chúng sơ sơ về tin không vui.
Sau đó, vẫn còn bị sốc, tôi lại nhận được lá thư của anh trai bảo rằng sẽ sớm đi thăm tôi. Theo ngày trên lá thư thì chỉ sau đó có vài hôm là anh tôi mất. Ngày 11 tháng 10 năm 1980, tôi nhớ rất rõ. Đó là hai năm tính đến ngày tôi bị bắt ở Bangkok.
Trong hai năm đó tôi trải qua biết bao đau đớn và sợ hãi, nhưng không có cái nào nghiền nát tôi như ngày nghe tin anh Gary chết cả. Tôi cảm thấy vô phương hoàn toàn - không được, dù chỉ một hành động nhỏ nhặt nhất để tỏ lòng yêu thương bằng sự có mặt để dự đám tang anh trai cùng với gia đình.
Tôi nhớ anh vô cùng, ngay cả bây giờ. Tôi hầu không thể nói về điều này thêm nữa.
Vào những tối thứ Bảy ở toà nhà số 3, các tù nhân có hạnh kiểm tốt được phép lên lầu và vào phòng của lính gác xem tivi. Truyền hình Thái không phải là thú tiêu khiển sáng chói nhất thế giới, nhưng còn hơn ngồi xem mấy con rệp. Chúng tôi ngồi tụ tập xung quanh, im lặng lúc chương trình truyền hình phát ra ánh sáng lập loè giống như trò ma thuật của tương lai, nhiều người trong chúng tôi chẳng hiểu gì cả.
Vào một buổi tối đặc biệt như thế, trong toà nhà này có thêm một lính gác mới vì tên lính thường trực uể oải đã đi ngủ rồi. Thừa cơ hội tên lính mới không biết gì, vài anh tù ở toà nhà khác lẻn vào phòng xem TV. Gian phòng trở nên đông nghẹt và mọi người đang hào hứng xem các anh lính Mỹ trong phim chiến tranh thì bất ngờ tên lính thường trực xuất hiện. Hắn chưa thay đồng phục, trên người không mặc gì cả trừ mỗi chiếc xà rông.
Thấy có các vị khách không mời, hắn tức khắc ra lệnh đóng hết cổng ra vào để không ai có thể thoát được. Tiếp theo, hắn ra lệnh cho tất cả chúng tôi xuống lầu và ngồi chồm hổm trên thềm rồi sai tên lính mới đi lấy một cây tre.
Hắn chầm chậm đi xung quanh, khi nhận diện những người thuộc toà nhà số 3, hắn gõ cây tre trên vai và bảo đi ra. Sau đó hắn bắt đầu hỏi những người khác tại sao có mặt ở đây, ai cho phép vào nhà này. Có rất ít câu trả lời thoả đáng.
Cuối cùng hắn bước tới trước mặt một tù nhân Thái chừng 18 tuổi, chỉ vừa mới đến đây thôi. Cậu này trả lời tất cả câu hỏi rồi tên lính bảo cậu bước ra ngoài. Cậu ta đứng lên cúi đầu chào hắn với một thái độ thật kính cẩn và biết ơn.
Không nói tiếng nào, hắn cầm cây gậy tre quất túi bụi vào mặt cậu bé. Hoàn toàn bất ngờ, cậu bé phản ứng dữ dội. Đầu tiên cậu thoi lại hắn, thêm một cú đấm khá mạnh làm tên lính ngã xuống thềm. Chỉ trong chốc lát Maha Chai trở thành một đám hỗn loạn. Căn phòng đầy lính gác và những lính áo xanh, chúng cố kiềm cậu bé lại cho đến lúc cậu chịu đứng yên.
Tên lính bị đánh đứng lên và bảo những tên khác mang cậu bé vào căn phòng ở cuối tòa nhà. Suốt một tiếng đồng hồ sau đó, chúng tôi đều nghe tiếng hét của cậu bé đang bị đánh một cách không thương tiếc kia. Sau đó cậu bị đưa sang toà nhà số 2.
Suốt ba tháng chúng tôi không gặp cậu ta và tưởng chừng không bao giờ gặp lại nữa, nhưng có đấy. Cậu bé bây giờ như một bộ xương biết đi. Da nó xám xịt như da voi, tróc từng mảng như thể bị ngâm mấy ngày liền trong nước nóng trước khi đem ra chà xát bằng giấy nhám. Lúc đi, người nó gập cong lại như đang trong tư thế ngồi chồm hổm. Hai con mắt thì phù đến độ trông chúng như hai vết rạch trong lớp thịt mỡ. Rõ ràng nó đã bị nhốt vào một cái lồng bằng gỗ nhỏ xíu chỉ đủ cho một người nằm cuộn mình như trái banh. Họ đã treo cái lồng lên trần nhà bằng móc xích, rồi dùng chiếc xà rông phủ lên đến nỗi ánh sáng giả tạo từ những nơi tối tăm của căn phòng cũng không thể nào xuyên qua được thế giới của nó. Nó ở trong đấy suốt ba tháng trường để suy gẫm về tính khí của mình.
Tên lính, người bị đánh cũng có thời gian để suy gẫm về tính khí của hắn, nhưng hắn chẳng có một kết luận nào mới mẻ sau ba tháng. Vừa thả thằng bé ra, hắn đã bảo mấy tên lính khác lôi thằng bé ra sân và giữ mặt nó hướng thẳng về mặt trời chiều gay gắt.
Có lẽ chúng cũng đã bỏ thằng bé vào trong chiếc lồng vĩnh viễn. Thời gian nó trở lại với chúng tôi quá ngắn ngủi. Tôi không biết điều gì đã xảy đến cho cậu bé sau này. Nó được đưa đi rất xa vài ngày sau đó, chúng tôi không bao giờ gặp lại. Không ai hỏi thăm về nó và thật ra cũng chẳng có gì để hỏi thăm.
Hai tên Thái bị ném vào chung xà lim với bảy tên Thái khác. Tất cả họ đều phạm tội giết người. Trong cuộc truy hoan vào một đêm tối, mấy tên này đã cưỡng bức những người mới đến, dữ dội và tàn bạo, cho tới lúc thân thể nạn nhân rũ rượi vì đau đớn và xấu hổ. Mấy tên lính gác đã phải chau mày trước cảnh tượng này và sáng hôm sau cả bọn bị lôi ra trừng phạt.
Họ bị dẫn ngang qua trung tâm của toà nhà, nơi đó tất cả chúng tôi đã được lính gác cho tụ tập lại và khuyến khích nguyền rủa, sỉ vả hoặc ném vào họ bất cứ thứ gì chúng tôi có. Rồi chúng đưa họ ra sân để hành hình.
Nhưng vấn đề đó là gì? Thiệt hại cũng đã rồi. Người ta đã cho phép nó làm như thế. Chẳng ai thèm quan tâm đến chuyện xử tử mấy tên này. Vấn đề mà chúng tôi quan tâm là những tù nhân khác đã bị đối xử tàn bạo và tinh thần của họ suy sụp đến rã rời. Vậy mà chúng tôi được mời - không, bị ép buộc một cách thật sự - tham gia vào cái trò trừng phạt giả dối này. Chúng tôi chỉ tham gia một phần trong hành động dã man của Maha Chai thôi. Chúng tôi đã ở đây gần ba năm. Thời gian chờ đợi đến ngày xét xử dài khủng khiếp!
Ôi, tôi thù ghét nơi này. Ghét đến nỗi tôi mong muốn toàn thể nhân loại bị tận diệt hết đi cho xong.