← Quay lại trang sách

Chương 8 NGÀY XÉT XỬ

Đại tá Vyraj Jutimitta,

Đơn vị Phòng chống Ma túy Narc,

Bangkok

Ngày 4 tháng 10, 1978.

Kính thưa ông Vyraj,

Ngày hôm qua, chúng tôi nhận được điện tín từ Canberra, nói rằng một anh Warren Fellows nào đó đã sử dụng hộ chiếu giả dưới tên Gregory Hastings Barker; cùng với Paul Cecil Hayward, đã đáp máy bay đến Thái Lan, có lẽ là đến Bangkok cách đây hai ngày. Fellows, tức Barker, được phép rời Úc, mặc dù đã bị phát hiện, hy vọng anh ta đã đến Bangkok và như vậy ông có thể bắt giữ anh ta vì tội vận chuyển ma túy sang Úc vào tháng hai năm nay.

Thêm một nguồn tin nữa là Fellows, và Hayward dự tính chuyển heroin trong những chiếc vali được thiết kế rất đặc biệt, khó có thể khám phá, bằng cách nhét những chất có thể thủ tiêu heroin qua mấy con vít để khi mở vít ra thì một loại nhựa thông khô nhanh sẽ thay chỗ cho heroin.

Tối hôm qua nhân viên tình báo cho tôi hay là đã thấy hai người này đi cùng với mấy tên tình nghi mà tôi biết. Anh ta bảo trước đây có gặp Barker một lần nhưng bây giờ không nhớ tên. Theo lời mô tả, tôi đưa hình của Barker cho anh ta xem, anh ta xác nhận đúng hai người này là Barker và Hayward. Tôi yêu cầu tìm cách tiếp xúc với họ và một lần nữa, anh ta xác định đúng Barker và Hayward đang ở Bangkok. Anh ta còn cho tôi biết họ sẽ gặp nhau vào giờ ăn trưa tại khách sạn Montein, rồi sau đó anh ta thu xếp cho hai tên này gặp ‘một nhân vật’ nữa khoảng từ 3 đến 5 giờ chiều trong ngày hôm nay tại câu lạc bộ thể thao để đánh bi da.

Đồng thời tôi liên lạc với một người bạn làm ở hãng hàng không Qantas thì được biết thêm hai nhân vật tình nghi này đã đăng ký vé trở về Sydney trên chuyến bay Q16 vào thứ Tư ngày 11 tháng 10. Tôi cũng dặn bạn tôi cho biết ngay nếu có sự thay đổi. Sau đó, tôi tiếp xúc với một người làm ở khách sạn Montein, anh cũng biết người này, thì biết thêm Barker và Hayward đã đăng ký hai phòng 413 và 415. Tôi dự tính chiều nay sẽ ghé qua Montein để lấy bản photo thẻ đăng ký phòng và những chi tiết các cuộc điện đàm của họ. Tôi tin chắc buổi hẹn hôm nay là để giao heroin hay cocain đây.

Từ khi đến Bangkok, hai người này thường xuyên liên lạc với nhóm người bị tình nghi buôn bán và chở ma túy, chuyên cờ bạc, đánh cược cá ngựa và tổ chức tội phạm ở Úc. Họ gồm có những người đang bị truy nã và những người ngoại quốc mà khi bắt được sẽ bị trục xuất ra khỏi Thái Lan ngay. Cho đến nay, nhờ Đại tá Bamroong, Tướng Saneh, và Tướng Anant của Sở Di Trú, tôi đã có giấy bắt giữ hai tên này. Được biết gần đây chúng còn làm ăn ở Patpong và Pattaya và có tổ chức xuất khẩu sang Úc 600 kg ma túy giấu trong các hộp sắt. Đây là vấn đề hiện nay BMNU và tôi đang tiến hành điều tra. Rõ ràng là hai người này biết sẽ bị bắt nên định rời Thái Lan, trở về qua ngả Singapore và Malaysia để tránh bị phát hiện. Nếu ông cần, tôi có thể cung cấp lý lịch của bọn chúng và cả những tên khác, những người tôi đã từng lưu ý.

Kín đáo theo dõi Barker và Hayward, chúng ta sẽ lần ra người cung cấp, và nếu hắn bị nhận diện thì ta sẽ bắt ngay sau khi Barker và Hayward ra phi trường. Chúng tôi không tìm đường để heroin chạy vào Úc mà chỉ muốn hỗ trợ ông bắt giữ chúng ở Don Muang, và rồi sẽ làm sáng tỏ những vụ chuyển hàng tiếp theo vào đầu năm nay…

Mấy năm nay trong đầu tôi cứ loanh quanh về việc mình bị giam cầm và những sự kiện diễn ra trước đó. Tôi đã bị cầm tù được bao lâu rồi? Chúng tôi có phản kháng gì không? Hay đến một lúc nào đó chúng tôi có nghĩ sẽ thay đổi ý định tìm cách chuồn ra khỏi cái mạng lưới khốn kiếp này hay phải kết thúc cuộc đời mình trong vòng lao lý? Hết ba năm rồi mà việc xét xử không thấy nhắc đến. Tôi ngồi đây nhìn những bí mật của cuộc đời mình hiện dần ra trước mắt.

Từ tháng Hai năm 1978, Chó Điên cứ bám sát lấy tôi. Hắn phịa ra nhiều bằng chứng để kết tội tôi như: hắn có nhận một cú điện thoại gọi từ công ty vận chuyển Thống Nhất, hãng này nằm ngay bến tàu Bangkok. Cú điện đó báo rằng có một người tên Warren Fellows, quốc tịch Úc, có đến gửi một kiện hàng, nhưng khi nhân viên hỏi giấy thông hành để làm biên nhận thì Warren tỏ vẻ kinh hoảng rồi tìm lý do ra ngoài và sau đó không thấy trở lại nữa. Qua một tháng không thấy người gửi trở lại, công ty Vận chuyển bắt đầu nghi ngờ và báo cho Cảnh sát. Chó Điên đến nơi và khám phá ra đó là một bọc ma túy. Hắn lập tức vận động Đơn vị Phòng Chống Ma Túy Bangkok lùng kiếm Warren Fellows. Vào lúc đó tôi đang có mặt tại Úc. Quả thật, tôi đã rời Thái Lan vào thời gian nói trên. Chó Điên liên lạc với Cảnh sát Liên bang Úc tại Bangkok, sau đó họ báo về Sydney. Thế là tôi liên tục bị theo dõi. Giá tôi không trở lại Bangkok lần nữa thì các bạn đâu có đọc được câu chuyện này.

Sau khi nhận được điện cho hay tôi và Paul sẽ trở lại Thái Lan, ngay lập tức Cảnh sát Úc ở Bangkok đưa tin này cho Chó Điên lúc chúng tôi còn chưa hạ cánh.

Trong bản báo cáo, hắn nói hắn biết chúng tôi sẽ rời Bangkok trên chuyến bay Qantas ngày 11 tháng 10, lúc 3 giờ chiều nên đã cử người theo dõi chúng tôi. Trường hợp mất dấu vết thì hắn sắp xếp tóm chúng tôi trước khi ra sân bay. Trong suốt thời gian này hắn và tay chân bộ hạ luôn rình rập xem tôi có gặp Lão Già ở Natty Gems hay không và mong thấy chúng tôi ẩu đả nhau tại quầy rượu Texan lắm.

Lời khai của Chó Điên hoàn toàn bịa đặt. Hắn tuyên bố đã thấy chúng tôi tiếp xúc với Lão Già nhiều lần tại các quán rượu và các nhà hàng rải rác trong Bangkok. Điều này chứng tỏ hắn muốn ném Lão Già vào tù hơn cả đối với Paul và tôi, nhưng hắn hơi tuyệt vọng vì chưa tìm ra chứng cớ.

Hắn còn nói rằng: “Fellows công nhận ngay là heroin không để trong phòng anh ta mà đưa sang phòng Paul cất giấu.” Tôi chịu không hiểu được tại sao hắn lại thêu dệt đến như thế. Chưa hết, hắn còn bảo trong khi cảnh sát đang tìm kiếm thì có một cú điện thoại bí mật gọi cho tôi, hắn bắt máy và nghe một giọng nói khàn khàn. Người gọi, nói tiếng Anh với giọng Úc, xin cho gặp ông Barker. Hắn trả lời Barker đã đi khỏi. Người gọi hỏi tiếp: “Vậy ai đang ở đầu dây?” Hắn tự xưng hắn là nhân viên làm vệ sinh của khách sạn, xong hắn cúp máy.

Hắn hỏi tôi: “Ai thế?”. Tôi trả lời: “Lão Già. À, chúng tôi có một cuộc hẹn tại Natty Gems vào 9 giờ 30.” “Tại sao anh phải đến gặp ông Sinclair?” “Gặp để lấy cái vali đựng heroin đem ra phi trường”.

Sau đó hắn còn bịa thêm: có một cuộc gọi khác cho tôi, và như lần trước, hắn cũng bắt máy và cũng trả lời tương tự. Tôi thắc mắc không biết cái óc thám tử của hắn để ở đâu mà lại hành động ngu ngốc đến thế. Không chỉ một lần mà đến hai lần? Một nhân viên Cảnh sát được huấn luyện kỹ càng sẽ không bao giờ ra lệnh cho tôi nhấc máy lên trả lời vài chữ rồi giựt phắt lại cả. Thật ngu xuẩn! Lại một lần nữa hắn mưu đồ để đưa Lão Già vào tù.

Tôi không cố biện minh mình bị kết án sai bởi những quan chức tham nhũng, nhưng chỉ muốn nói rằng tôi bị kết án hợp lý bởi các quan chức thoái hóa thôi.

Ở tòa án, Chó Điên cố tình quấy rối viên chánh án. Hắn lôi chiếc ghế dành cho nhân chứng đến gần chỗ hắn ngồi. Viên chánh án phải cảnh báo Chó Điên rằng nếu hắn còn tiếp tục hành động như thế sẽ bị đuổi ra khỏi tòa. Ngay khi lời cảnh báo đưa ra, một quan tòa khác được đưa ngay vào thay thế: Quan tòa Travorn.

Trong vòng hai năm, cứ vài tuần chúng tôi phải ra hầu tòa một lần. Sắp đến ngày tuyên án tôi cảm thấy rất căng thẳng. Tuy nhiên cũng thấy nhẹ nhõm phần nào bởi vì tôi không còn muốn thấy cái kiểu nghi thức lúc hỏi cung. Tôi ghét ngồi trên chiếc xe buýt cũ kỹ chạy xuyên qua các đường phố được hộ tống bằng cả đống lính trang bị những khẩu M16; và ghét ngay cả việc chặn sự lưu thông công cộng để lùa chúng tôi ra khỏi xe… Như tôi đã nói, tòa án ở đây chỉ là một trò hề. Mọi thứ đều được quan tòa Travorn quyết định sẵn trước khi ông ta nhìn thấy mặt chúng tôi.

Mấy ngày liền không có heroin chích nên tôi như bị bệnh nặng, dáng đi đứng kỳ quặc không sao chịu được.

Tôi mừng vì nó sắp chấm dứt.

Không có gì nghi ngờ về việc Paul và tôi bị bắt vì ma túy cả. Điều này thật rõ ràng. Điều tôi hy vọng là quan tòa Travorn có đủ bằng chứng để tin rằng Paul chỉ là một người không chủ tâm đồng lõa trong vụ này thôi. Tôi cũng tin Lão Già sẽ thoát án một cách nhẹ nhàng. Đây có thể là mong muốn của tôi vì tôi chắc chắn ông ta vô tội trong chuyện làm ăn này. Riêng tôi, tôi đang chờ đợi những điều tồi tệ nhất xảy đến.

Lúc bấy giờ tôi chưa biết tiếng Thái nhiều nên chỉ hiểu được những điều căn bản, còn thì được luật sư của tôi thông dịch. Sau khi xem xét tất cả hồ sơ của chúng tôi, viên thẩm phán ra quyết định cuối cùng: tôi, Paul Hayward, Lão Già và Noi cố ý tàng trữ và phân phối heroin. Tất cả đều bị tuyên án có tội. Riêng Paul thì mức độ nhẹ hơn vì không trực tiếp trong việc này. Nhưng trong lúc đọc bản phán quyết ông ta có một thái độ rõ ràng đối với nguồn cung cấp, đó là Lão Già. Vừa nghe đến tên mình, dù chẳng hiểu gì cả nhưng lão ta bắt đầu nổi cáu và quay ra nói lia lịa với luật sư của lão. Vị luật sư phải ra hiệu cho lão ta im lặng. Vào lúc này trước mắt chúng tôi diễn ra một màn xử oan thật thú vị. Rõ ràng hệ thống pháp lý Thái đã thừa nhận bằng chứng nói rằng tôi đã làm việc do chỉ thị của Lão Già, người mà họ tin là đầu não của toàn bộ hoạt động. Sự phán quyết này gây sốc cho ông ta, nhưng cũng là một may mắn cho Paul vì không có bằng chứng nào tỏ ra Paul quen biết với lão. Tôi tin tưởng Paul được thoát tội một cách nhẹ nhàng. Nhưng không… Travorn tuyên bố Paul Hayward bị 30 năm tù giam. Ba THẬP NIÊN ở chốn này. Chúa ơi! Còn tôi, Lão Già và Noi, cả ba đều bị tù chung thân. Mặc dù khi bước chân vào đây tôi đã mong những điều tồi tệ nhất rồi, nhưng khi nghe âm vang của chữ “cả đời” thì đầu gối tôi muốn sụm xuống, cổ họng tôi như bị thắt lại trong sự nổi loạn. Cuộc đời tôi và mọi thứ bây giờ tan biến hết, thay vào đó là ‘cái đời’ đầy ghê tởm, đầy ghét bỏ, không tình thương và vô vọng này. Lão Già cáu tiết vì thất vọng, cố gắng gây sự chú ý với luật sư ông ta, nhưng ông này vẫn đưa tay lên ra hiệu cho lão im lặng. Kẻ đáng ghét già nua tội nghiệp này chưa hay rằng cuộc đời còn lại của mình đã bị hủy diệt. Lão nghiêng về phía tôi để nhờ tôi giải thích, tôi không còn tự chủ được nữa nên buột miệng một cách tỉnh bơ: “Chúng ta, tất cả đều có Số.” Vẻ mặt lão lúc bấy giờ không thể nào diễn tả được.

Như thế tôi thoát khỏi trại Maha Chai và nghĩ rằng mình may mắn nhưng không, tôi lại bị đưa đến một chỗ đáng sợ hơn nhiều: Bang Kwang, nơi người Thái gọi là Con Cọp Khổng Lồ. Họ còn bảo nó hay rình mò để kiếm mồi ăn thịt.