← Quay lại trang sách

Chương 9 CON CỌP KHỔNG LỒ

Người phụ trách chuyển chúng tôi qua nhà giam này là một viên chức đã từng cai quản trại Maha Chai trong một thời gian ngắn nên ông ta biết tôi và Paul. Không rõ vì lý do gì ông ta có cảm tình với chúng tôi nên đã mở cho chúng tôi một tài khoản bằng số tiền của ông ở một cửa tiệm thực phẩm.

Sau khi lệnh án đưa xuống chúng tôi được để qua một bên chờ khiếu nại. Ông này bảo ông có ý định đưa chúng tôi qua nhà lao Lard Yao, nơi đó ít khắc nghiệt hơn Bang Kwang. Bang Kwang là nhà tù man rợ nhất mà chưa một người ngoại quốc nào bị giam ở đó cho dù tội có nặng đến thế nào đi nữa.

Tại Lard Yao, chúng tôi bị nhốt chung với 20 người khác trong một xà lim của khu V và phải đợi ở đó một tháng để các viên chức xếp loại tù nhân theo phẩm chất từ hạng xuất sắc đến hạng kém. Cái điểm khó để giữ cho mình có phẩm chất tốt là phải luôn luôn làm đúng theo nội quy. Nhưng muốn tồn tại thì chỉ còn cách phá luật thôi. Trong xà lim này tôi không thấy ai thi hành nội quy nghiêm chỉnh cả. Hầu hết họ đều sử dụng ma túy, thứ này thì đầy rẫy, vì đó là giải pháp tốt nhất giúp cho bạn bình tĩnh trong mọi cách ứng xử để tránh sự chú ý của người xung quanh, miễn sao bạn không để bị bắt gặp là được. Đêm đầu tiên của tôi thật khốn khổ, vì cách chỗ tôi nằm không xa, có một người vừa bị giết. Chúng tôi nằm đây nghe hết…, và tình huống đó như đem lại một ý nghĩa mới vào thời điểm này. Trước đây tôi có cảm giác rằng mọi thứ xung quanh tôi đều tạm bợ, và việc bị tống giam ở Thái một ngày nào đó cũng đến hồi kết thúc.

Trong lúc xét xử, tôi vẫn còn chút hy vọng, một thứ hy vọng thật mong manh và dù mong manh thế nào đi nữa trong lúc này cũng đủ rọi sáng lối cho tôi đi. Nhưng bây giờ tôi biết mọi thứ đã hoàn toàn chấm dứt và không cách chi đảo ngược lại được! Những đêm dài nằm nghe tiếng nức nở, tiếng rên rỉ của những người đồng cảnh ngộ chèn nhét trong căn phòng chật cứng này, cuộc đời tôi từ đây trở đi là thế đấy.

Làm sao bạn có thể quên được cái thực tại kéo dài suốt cả ngày, đó mới là điều đáng ngạc nhiên. Nhiều lúc nó xảy ra và phô diễn rành rành trước mắt, né tránh thế nào được? Lờ đi thế nào được trong những ngày dài như thế? Đêm nay, tôi không thể nào tin rằng mình còn tồn tại trong suốt thời gian ở đây. Sao tôi không chết vì buồn phiền, vì sợ hãi - trong lúc những cảm giác đó cứ triền miên không dứt - cho xong? Một sự thật ghê rợn rõ như ban ngày đi vào tâm trí tôi và sau đó tan biến một cách nhanh chóng như thể có một người, mà tôi đã từng là người đó, nhập vào thân xác tôi, nhìn thấy cảnh tượng quá ghê tởm rồi rời bỏ tôi ngay khi chưa đầy một giây để cảm nhận sự đau khổ này. Tôi nhắm mắt lại và cố dỗ giấc ngủ.

Chỉ sau năm ngày nằm ở Lard Yao, Paul, Lão Già và tôi bị đánh thức sớm để đến gặp giám đốc trại. Một tin xấu đây.

Suốt thời gian nằm đây vì không chịu làm quen với hệ thống nhà tù, Lão Già đã tìm cách hối lộ cho một lính gác nhưng thật tội nghiệp cho lão. Lão đã chọn nhầm người, đem tiền hối lộ cho tên trưởng trại. Cả ba chúng tôi đều xem như có dính líu đến việc này, giống như một con thú có nhiều bộ óc. Vì vậy ông giám đốc bảo rằng nếu để chúng tôi ở lại Lard Yao sẽ không bảo đảm an toàn và vì không có phương án nào khác nên buộc phải đưa cả ba sang Bang Kwang.

Khi ở Bangkok, tôi đã nghe người ta đồn đãi về Bang Kwang rất nhiều. Đó là một nhà tù đáng sợ nhất thế giới. Nếu có khả năng bị bắt, họ có thể giam tôi ở Con Cọp Khổng Lồ. Nhưng không hiểu sao, lúc đó tôi cứ cho là chuyện xa vời - rằng mình không thuộc loại phải vào Bang Kwang. Vì Bang Kwang là nơi dành cho những hình thức nhân tính thấp nhất, vô vọng nhất nên không ai nghĩ mình sẽ vào đấy, ngay cả những kẻ giết người.

Chân đã bị cùm bằng những sợi dây xích rất nặng, chúng tôi bị đẩy lên chiếc xe tải để đưa đến Bang Kwang, lao xá cuối cùng. Không nhà tù nào nặng nề hơn nơi chúng tôi đang đến và chính nó cũng là chỗ tận cùng của con đường tù tội.

Lúc sắp đến gần cổng, tôi không thể tin rằng Bang Kwang đồ sộ đến thế; nó hiện ra lù lù trước mắt chúng tôi như một con quái vật. Tôi cảm thấy kinh hãi. Mấy năm nay tôi nghe nhiều truyền thuyết về nơi này và bây giờ thì tôi đã diện kiến nó, và đang đến gần nó. Hình như nó đang lôi tôi vào, rì rầm bên tai tôi sự căm ghét, giống như một cái máy kếch sù chứa chất những điều bất hạnh đang hoạt động.

Nói quá lên một tí, như thể chúng tôi đang bước vào một thế giới bị ruồng bỏ trong khi ngược lại bên ngoài nhà lao là các khu vườn được trang trí thật lộng lẫy và xa hoa. Những bức tường và hàng rào trồng đủ các loại dây leo, tôi tưởng chừng như đó là một phần của Thiên đường mà chúng tôi phải bỏ lại sau lưng. Không chỉ thế, nhưng cũng chẳng phải nói ngoa, các hình thức trừng phạt ở Bang Kwang rất dồi dào và hậu hĩ. Sự tàn bạo và sự chịu đựng như sôi lên trong lòng con dã thú làm nó thỏa mãn một cách điên cuồng.

Cái bất công ở chỗ, những người có tội đều vô giá trị và đáng bị hủy diệt trong khi những người có quyền đứng ra hủy diệt lại là những kẻ hành động đúng và được coi như Thánh sống. Đó là triết lý của người Thái.

Tôi nhìn những cánh cửa đóng sập sau lưng, có quá nhiều cửa, khó có thể tin rằng chúng đã từng được sử dụng để phục vụ cho một mục đích nào khác hơn là để cướp đi niềm hy vọng của những người đang bước vào đây.

Chúng tôi đi xuống một con dốc dài dẫn đến khu vực chính của trại. Ở đây, trong khu thăm viếng có nhiều lồng sắt và chấn song. Những chú ruồi bu vào mặt tôi như thể đón mừng kẻ về nhà mới. Mùi hôi thối của cống rãnh không có nắp đậy và các bãi rác gần đó xông lên. Tòa nhà thẳng phía trước mặt có bảng đề, khu I: khu Truyền giáo.

Đầu óc tôi quay cuồng và hai chân hầu như không còn đứng vững nữa.

Sau khi bị truy tố, Lão Già thuyết phục các bác sỹ cho tháo xiềng ra. Họ chấp thuận chỉ vì lý do tuổi tác. Còn tôi và Paul thì phải mang cùm ít nhất trong một tháng. Điều này chẳng lấy gì làm ngạc nhiên bởi vì tới ngày hôm nay sợi dây xích được coi như một phần thân thể tôi rồi.

Trước khi chuyển về nhà mới ở trại II, Paul và tôi được nghe thuyết giảng về nội quy ở đây. Cũng chẳng khác gì những trại tù khác: 6 giờ thức dậy làm vệ sinh, ăn sáng và ngồi ngoài sân cho tới xế chiều khi đó mới trở lại xà lim. Chúng tôi được cho biết có ba loại hình phạt: Trại VI, nơi nhốt vĩnh viễn những người đặc biệt gây khó khăn; biệt giam, hoặc cho vào khun deo, những xà lim nhỏ xíu giống như ở Maha Chai hay vào phòng đỏ, chỉ chừng hai mét vuông, nhưng còn hơn là bị cô lập trong nhà đá lạnh lẽo của khun deo. Còn vài hình thức trừng phạt khác nữa mà người ta không nói đến khi chúng tôi ‘bị’ thuyết giảng. Những cái đó sẽ biết sau.

Cái sân ở Bang Kwang hình như nhỏ hơn sân của các nhà tù khác, nhưng có lẽ đây là ảo giác do số lượng tù nhân quá nhiều. Không thể tin được nó đông đến mức nếu bạn không ra sân sớm thì sẽ chẳng có chỗ ngồi, mặc dù không hề có mục đích gì trong việc ngồi này cả, chỉ ngồi khơi khơi vậy thôi.

Phòng giam không có giường chỉ lấy rơm lót để nằm, còn gối dưới hình thức nào cũng không được phép. Nhà tù nóng hầm hập và đầy bọ chét. Trong vòng có mấy ngày mà đầu tôi đã sinh chí, buộc lòng tôi phải cạo trọc.

Tất cả các loại nước mà chúng tôi tùy nghi sử dụng ở đây được cung cấp bởi con sông của địa phương. Con sông này còn nhỏ hơn một dòng suối; nước đỏ quạch, đục ngầu và đầy rác rưởi. Nó được bơm lên qua một ống dẫn theo hướng chảy của ống cống nhà tù; chúng tôi uống và tắm giặt bằng nước thải của chính mình. Có một lần tôi thấy họ thay nước ở các bể chứa bằng một thứ nước khác, cứ gọi là nước sạch đi, vì dưới đáy các bể chứa này đóng một lớp rong rêu màu nâu đặc quánh. Có nghĩa là lâu lắm rồi họ mới làm điều này. Lần khác, khi tôi vừa mở vòi nước ra thì một con cá nhỏ rơi tọt vào hai lòng bàn tay tôi. Trong đời tôi chưa hề bắt con cá nào cho đến khi đến đây.

Nhà vệ sinh công cộng thì ở đâu cũng giống nhau: những cái hố được đào dưới lòng đất, xung quanh không tường mà cũng chẳng có rào. Thức ăn ở nhà tù Thái thông thường là gạo đỏ, có thể có một cái xương cá, hay một tô nước canh heo lõng bõng. Thịt thì hoàn toàn bị cấm. Chúng tôi đói muốn lả người.

Chuột chạy tứ tung trong nhà lao nên không cách gì ngăn cản tù nhân không ăn thịt chuột. Một anh tù đã nghĩ cách nuôi một trại chuột ngay bên vách tường của xà lim. Mỗi sáng thứ bảy anh đem những chiếc lồng nhốt các con chuột mập ú, bày ra như cửa hàng thịt để bán cho các tù nhân khác. Ngoài ra, còn có vài gói thuốc lá xem ra người mua cũng cần. Người bán thịt chặt chuột thành từng phần nhỏ lớn tùy theo nhu cầu đòi hỏi của người mua, hoặc khá thêm một tí nữa, anh ta có thể đem hầm hay làm kiểu gì tùy bạn muốn. Chuột này không phải chuột cống nên chất lượng của nó khá hơn, tiêu chuẩn của người sành ăn cao hơn, anh ta nói thế. Anh ta còn nói với tôi rằng ăn thịt chuột không phải là chuyện lạ đối với dân quê. Nông dân Thái hễ thấy chuột trong các ruộng lúa là họ bắt ngay. Họ dùng những cây có đầu vuốt nhọn, đâm chúng rồi đem về quay trên lửa. Món này được xem là khoái khẩu ở nhiều nơi. Tôi tin anh ta. Bị đói từ nhiều năm rồi nên tôi chấp nhận câu chuyện này để ăn cái món mà bình thường tôi không thể nào nuốt nổi.

Chỉ mới có mấy ngày đến ‘Con Cọp Khổng Lồ’, Paul đã gặp rắc rối với một tên Mỹ đen. Thấy anh chàng này to lớn, kềnh càng - lúc đó chúng tôi đang ngồi trong khu thăm nuôi - Paul ngạc nhiên trố mắt nhìn, vì lúc này Paul chỉ còn có 70 kg. Hắn quay lại nói: “Cút đi, hãy lo chuyện của mày đi”, rồi hắn hét vào mặt Paul: “Mày muốn đập bê tông hay muốn gì đây?” Những anh tù khác quay lại nhìn Paul xem phản ứng của anh như thế nào. Paul biết ngay cho dù bất cứ điều gì xảy ra đi nữa thì nó cũng sẽ ảnh hưởng đến thời gian anh ở trại này, nhưng nếu anh chùn bước, anh cảm thấy mình bị sỉ nhục và sau này mọi người sẽ tiếp tục lấn lướt anh. Paul phản ứng: “Không, tao không muốn đập bê tông mà chỉ muốn đưa cái đầu mày vào cái lồng ở đằng kia thôi”. Tên Mỹ không ngạc nhiên về lời trả treo đó vì hình như hắn đã từng biết lịch sử của Paul. Hắn nhìn Paul một cách đểu cáng: “Được, tao biết mày là một võ sĩ quyền Anh mà. Thử xem mày làm gì được tao”. Nói xong, hắn chồm về phía Paul trong một tư thế có vẻ rất vững vàng, trong lúc Paul hình như còn đang tập trung sự khôn ngoan của mình thì tên Mỹ chộp ngay cơ hội thoi một quả đấm vào quai hàm anh, cú đấm nghe ghê hồn. Paul phản công bằng cách lôi hắn về phía anh, nhấc bổng hắn lên trong khi hai đầu gối Paul khóa chặt cái vóc dáng nặng nề của hắn, ta có cảm tưởng Paul sẽ không thể nào đi được nữa. Nhưng chỉ là thoáng chốc thôi. Bị một cú đấm như điện giật, Paul phải ném hắn trở lại rồi đứng thẳng lên và đấm lia lịa vào cái thân thể khổng lồ trước khi cho hắn đo ván rồi nện vào đầu hắn bằng cánh tay trái của anh. Tên Mỹ ngạc nhiên ngã xuống đất, nhưng lập tức hắn đứng phắt dậy. Như điên cuồng, hắn lao vào Paul, lần này Paul giáng vào đầu và thân thể hắn những cú đấm làm hắn tả tơi. Lại một lần nữa, cả cái thân thể đồ sộ này ngã nhoài ra sàn nhà dưới cơn điên tiết của Paul. Hắn gục một lúc, sau cùng đứng lên và bỏ đi nhưng vừa đi vừa lầm bầm hứa sẽ trả thù. Về phần tên Mỹ, xem như trận đánh nhau kết thúc. Nhưng với Paul, nó chỉ đạt được phân nửa vì anh muốn cho tất cả tù nhân ở Bang Kwang một bài học là không một ai được láo xược với anh xong rồi lại quay đi nguyền rủa như thế. Paul lập tức phóng theo tên da đen và đấm vào mặt hắn, máu từ mắt anh tù này phụt ra. Hắn lại ngã xuống lần thứ ba. Lúc này những người bạn của hắn chạy đến đứng giữa hai người để can và tuyên bố Paul đã giải thích đầy đủ điều anh cần nói rồi. Tên da đen tiếp tục nguyền rủa bằng những lời xuyên tạc, nhưng bạn hắn kéo hắn đi. Paul chỉ bị thương duy nhất ở ngón tay giữa thôi.

Từ đó về sau, Paul rất được mọi người nể trọng. Ngay tên Mỹ ngày hôm sau cũng đến xin lỗi, và sau này họ lại làm bạn với nhau. Sự kính trọng miễn cưỡng này xem ra rất thông thường ở Bang Kwang.

Sau sự việc xảy ra ít lâu, Paul tâm sự với tôi rằng anh đánh nhau ngày hôm đó là vì quá khiếp sợ thôi. Tôi còn nhớ rõ lời nói này của anh. “Tôi đã từng chơi bóng đá và đấu với những người gan dạ nhất, to con nhất. Thân thể tôi bị đập nhừ tử. Khi chơi quyền Anh tôi cũng bị đánh tơi bời, nhưng chưa bao giờ bị như ngày hôm đó. Khi mà tên da đen giáng cho tôi một cú đấm kinh hồn, cái duy nhất là phải giữ cho hai chân đứng vững và tim hoạt động. Hai chân tôi hầu như rụng rời, và không biết làm sao tôi lại giữ thẳng được. Thành thật mà nói tôi không biết làm sao tôi còn đứng vững trên đôi chân của mình nữa”. Tôi còn nhớ cái cảm giác may mắn là có Paul để làm bạn ở đây, người đó không hề chùn bước trước bất cứ điều gì.

Ban quản lý Bang Kwang có vẻ không hề khoan dung với những gì có liên quan đến ‘thuốc’. Tất cả khách đến thăm đều bị lục soát rất kỹ và những gì bị nghi ngờ họ đều lật tung lên và lộn trái ra ngoài, thế nên mang thuốc vào nhà tù là một công việc hết sức khó khăn. Nhưng người Thái tìm ra muôn ngàn phương kế xung quanh vấn đề này.

Cách thứ nhất là heroin được bọc kỹ rồi nhét vào hộp thiếc đựng dầu cù là, xong họ nuốt cả hộp này nhưng tránh không để rơi vào bao tử. Tôi không biết làm thế nào mà chiếc hộp bị chặn ngay ở cổ họng. Tới khi lọt vào bên trong họ lại ụa chiếc hộp ra. Vài người lính phát hiện phương pháp chuyển heroin theo lối này nên bằng mọi cách moi ra cho được. Có hôm họ dùng đèn pin soi vào miệng một anh tù, hôm khác nghi ngờ người đi thăm nuôi có mang theo heroin trong cổ họng nên một tên lính bắt người này ngồi xuống và mang cơm ra buộc anh ta phải ăn. Anh này bảo rằng anh không đói nhưng tên lính cứ ép. Hắn đứng canh và quan sát trong lúc anh ta nhai trệu trạo chén cơm một cách miễn cưỡng. Khi anh Thái cố nuốt thì thình lình hắn lao tới bóp ngay cổ anh ta làm cho những hộp heroin phụt ra khỏi miệng. Hắn mỉm cười và nói “Giỏi lắm con. Mày giỏi lắm”. Nói xong nện cho anh ta một trận tàn bạo.

Cùng ngày hôm đó trưởng ban an ninh, Sucha, gọi tôi lên để giúp ông ta thông dịch. Một anh tù ngoại quốc đã đệ đơn khiếu nại các nhân viên của trại trong khi có đại diện Lãnh sự của anh ta đến thăm. Hôm nay, ông ấy nhờ tôi dịch lại tờ thông điệp cho anh tù nghe. Rõ ràng lời khiếu nại rất cay đắng cho nên tòa Lãnh sự phải gửi giấy đến trại với lời lẽ đầy đe dọa và thề nhất quyết sẽ là sáng tỏ sự việc này. Tôi vừa dịch vừa nhìn thấy ông ta liếc anh tù bằng nửa con mắt. Ông ta nói một cách chát chúa: “Lãnh sự của mày một tháng chỉ đến với mày có một lần và mỗi lần chỉ trong vòng 30 phút. Còn 30 ngày còn lại mày nằm trong tay tao. Mày hiểu gì không?”

Những người nằm trong trại Bang Kwang phải chịu những cuộc tra khảo vô cùng ác liệt, cả về thể xác lẫn tinh thần. Những tên lính ở đây dùng những biện pháp dã man nhất để làm suy sụp tinh thần của tù nhân.

Một anh Thái bị dẫn ra, mình trần trùng trục, hai mắt bị bịt cứng, hai tay bị trói quặt ra đằng sau. Chúng bắt anh quỳ ngay giữa sân, đầu cúi gục xuống như trong tư thế đang cầu nguyện. Ba tên lính tay cầm gậy từ từ bước thật chậm rãi xung quanh anh ta, gót giày nện trên nền đất như muốn nghiền nát những hạt bụi dưới chân. Thái độ từ tốn này cố tình làm cho nạn nhân phải tập trung tinh thần vào hình phạt sắp diễn ra. Chúng đi vòng quanh vài phút rồi dừng lại, một trong ba tên đưa gậy quất nhẹ vào mặt nạn nhân. Mặt anh tù tái xanh vì anh đang chờ đợi một cú đấm thật kinh hoàng. Nhưng vài phút nữa trôi qua chẳng có gì, rồi bất chợt chúng quất vào lưng anh tới tấp đến nỗi không chịu được anh ta hét lên vì sửng sốt và đau đớn. Rồi chúng lại tiếp tục từng bước một chậm rãi đi xung quanh anh,… dừng lại ít phút và lấy gậy quất vào mặt nạn nhân. Động tác trên được lặp đi lặp lại, sau cùng chúng quất thật dã man vào lưng anh ta. Chúng tôi thấy hai xương bả vai của nạn nhân xoắn lại và có cảm tưởng ba cây gậy kia cũng sắp gãy làm đôi. Một vài phút trôi qua, bọn chúng lại quất vào mặt cho đến khi nạn nhân bất tỉnh. Chờ cho nạn nhân tỉnh lại, chúng lại tiếp tục cuộc diễu hành… Sau gần một tiếng đồng hồ, tinh thần người tù rã rời như thể trí não của anh bị tấn công bằng hàng trăm câu hỏi. Khi nào thì cuộc diễu hành của chúng dừng lại? Sau đó bao lâu nữa thì những chiếc gậy kia mới không còn quật vào thân thể của nạn nhân đây? Phần nào của cơ thể anh chịu sự hành hung nữa đây? Và điều đó có nghĩa là gì? Cứ sau mỗi lần đánh đập, cuộc diễu hành lại tiếp tục tiếp diễn. Bọn lính này còn chơi trò nào khác nữa không?

Cái đau đớn về thể xác đã khắc nghiệt rồi, nhưng nó trở nên khắc nghiệt gấp bội bằng thứ tra tấn kiểu này. Gương mặt của nạn nhân lúc bấy giờ bị biến dạng vì lối tra khảo tinh thần tuyệt chiêu đó.

Ở Bang Kwang, mấy tên lính được khuyến khích tẩy não tù nhân, biến họ thành những con vật không còn bộ óc. Hành hạ, đánh đập không mang lại hiệu quả thích thú nữa, chúng xoay ra hành hạ tinh thần. Và chúng là những chuyên gia tiêu diệt ý chí con người.

Lần đầu tiên chứng kiến cảnh trên, nhưng không lâu sau đó, tôi lại thấy một anh Thái khác bị hành hạ theo kiểu tương tự. Tôi không chắc anh này đã làm điều gì đáng hay không đáng kể cho lắm - để bị đem ra xử như thế. Chúng nó đứa nào cũng cầm gậy, cột anh Thái vào một cái trụ, rồi bắt đầu như kiểu thường lệ, nhưng thay vì hành động từ tốn chúng nó đập anh này một cách điên cuồng. Chúng đánh anh ta, tôi không hiểu làm sao anh sống nổi, đến độ da thịt bị tét ra, máu đổ thành dòng. Một xương cánh tay xuyên qua thịt lòi ra ngoài và hai chân anh khập khiễng vì biến dạng. Tôi cho rằng bọn này chỉ muốn đánh nạn nhân cho đến chết. Khi thấy đời sống của nạn nhân chỉ còn lại trong gang tấc, chúng mới dừng tay. Chúng nó không muốn lôi anh ta trở lại xà lim hoặc vào bệnh xá, nơi anh ta phải được cứu chữa. Tên đầu đảng rút ra một cây nhang, thắp lên rồi đem cắm vào bàn tay gãy, đẫm máu của nạn nhân.

Ở tận đằng xa, nơi cuối cái sân này có một pho tượng Phật, nơi mà người Thái và người Hoa hay đến cúng vái, tên lính ra lệnh cho anh lết đến đấy mà cầu nguyện và xin sự khoan dung. Nạn nhân hầu như không mở được mắt để xem pho tượng đặt ở hướng nào, nói chi lết đến đấy. Nhưng tên lính bằng giọng đanh thép nói: “Người tù phải thực hiện điều này để vứt bỏ những điều xấu xa và sự nhục nhã mà mình đã làm. Nếu không có sự tha thứ và lòng thương xót của Đức Phật thì chỉ đáng chết thôi”.

Với cái thân tả tơi và cây nhang vẫn còn cháy trên tay, anh ta cố gắng nhấc mình lên và bắt đầu lê trên nền đất. Mỗi lần như thế chỉ được vài phân. Để qua hết mấy mét chiều dài của sân này anh phải lết đến bao giờ? Tuy nhiên anh vẫn cố gắng trườn tới để lại trên sân những vết máu chạy dài từ thân thể tuôn ra. Khi anh đến gần tượng Phật, cây nhang hầu như gần tàn. Gần ngất xỉu, anh cúi đầu ngay dưới chân tượng và hai tay ôm chầm lấy nó như thể anh đang ôm mẹ. Anh cúi đầu xuống đất và cầu nguyện trước những cặp mắt hài lòng lẫn khinh bỉ của bọn lính gác.

Tôi phân vân không biết anh ta đã cầu xin những gì, và Đức Phật, nếu quả thật là thần thánh của loài người thì làm sao có thể an vị trên tòa sen chứng kiến cái cảnh như thế.