← Quay lại trang sách

Chương 10 CÁI CHẾT

Ở trại Bang Kwang người ta cho biết duy nhất chỉ có một người vượt ngục được, đó là một anh Thái. Anh này bị kết án 7 lần, trong đó 3 lần lãnh tử hình nhưng khi đến ngày thì trước đêm hôm đó anh lại trốn thoát. Tôi nghĩ là anh ta đã hối lộ bọn lính canh để chúng lờ đi.

Trước ngày thụ án, họ giam anh ta trong một xà lim biệt lập ở tầng 4 của trại VI. Anh bị xiềng bằng một sợi dây xích khá to nhưng không hiểu làm thế nào mà anh ta tuột nó ra khỏi chân. Chẳng ai biết đích xác. Tuy nhiên, có vài người nói họ đã thấy trước đây anh ta biểu diễn trò này nhiều lần một cách rất điêu luyện. Sáng hôm sau bọn lính phát hiện ra trên bãi cỏ giữa lao xá chạy thẳng đến bờ tường bao xung quanh trại một sợi dây vải nối bằng ba chiếc xà rông với một chiếc móc sắt ở đầu mà anh ta đã bỏ lại; và hàng rào trên bờ tường có vết cắt. Như vậy anh ta đã dùng một dụng cụ rất bén để cắt kẽm gai rồi trèo qua bức tường này mà bọn lính cũng như các tù nhân chẳng ai hay biết. Khi lính gác phỏng vấn người nằm ở xà lim kế bên, anh này ra vẻ nhớn nhác vừa thối lui vừa lẩm bẩm: ‘chima, chima.’ Chima có nghĩa là quỷ xuất hiện. Bọn lính rất mê tín nên khi nghe thấy thế chúng nó quay đi và rồi để sự việc này rơi vào quên lãng. Những người Thái tin rằng bất cứ anh tù nào chết đi thì hồn anh ta thường hay về xà lim, thế cho nên sau đêm nào có người bị hành quyết, những anh còn lại thường mang thức ăn và thuốc lá ra cúng cho người quá cố. Họ kể với nhau rằng họ thấy những điếu thuốc đem ra cúng cháy âm ỉ suốt đêm và sáng hôm sau tất cả đồ cúng cũng biến mất. Dĩ nhiên, sự kiện này có thể giải thích dễ dàng khi mà trong tù thuốc lá và thực phẩm quá sức khan hiếm. Nhưng thỉnh thoảng có những mẩu chuyện nghe hết sức thuyết phục. Và vì lẽ đó, người ta thường lợi dụng lòng tin của bọn lính để tránh được vài sự va chạm.

Ngoại trừ anh Thái này thôi, còn tất cả thì chết trước khi thoát ra khỏi trại ‘Con Cọp Khổng Lồ’. Cái CHẾT là cách duy nhất để tìm lại được sự TỰ DO.

Cứ cách vài tháng lại có một người bị đem ra xử tử. Thường những tin này được loan đi bằng loa phóng thanh trước đó vài giờ và lúc đó tất cả tù nhân khác bị buộc phải trở về lại xà lim của mình. Những giờ phút như thế này thê lương vô cùng, người ta có cảm tưởng như bóng tối đổ xuống bao trùm cả trại, khó thở đến nỗi không ai nói với ai lời nào. Cái chết và nỗi buồn vây bọc chúng tôi, nó chợt đến một cách bất ngờ, không phô trương, không kèn trống ầm ĩ. Khi chúng tôi biết thì nó đang diễn ra, không vội vàng nhưng có chủ tâm. Nó làm như thể linh hồn của người chết đang lang thang, quanh quất để tìm đến chúng tôi. Chúng tôi có thể nghe thấy và ngửi được khi nó bước vào trại giam của chúng tôi.

Khi nào thấy hứng thú, mấy tên lính lại giục chúng tôi đi ra xem cảnh họ hành quyết nạn nhân, cho dù có nhìn thấy hay không, mỗi người trong chúng tôi ai ai cũng đều có thể nghe và cảm nhận được hết. Có khi thì họ xử tử vài người cùng một lúc, có khi họ đem ra giết từng người một. Cái cảm giác người chết một mình như thế thật buồn làm sao! Anh tử tù bước ra, đầu gục xuống, đang ý thức từng giây phút cuối của cuộc đời mình, không một người nào bên cạnh chỉ trừ những kẻ mong anh chết quách cho xong. Có điều lạ là đa số mấy tên lính đưa tù nhân ra nơi hành quyết thường đi song song bên cạnh anh tù, đầu cũng cúi xuống một cách lặng lẽ. Chẳng lẽ chúng cũng khóc? Nhưng ít thấy ai gây chuyện cãi nhau trong giờ phút này. Tuân lệnh đã trở thành bản chất thứ hai, ngay khi sự tuân lệnh đồng nghĩa với việc mất đi hết mọi thứ mà bạn có.

Trong trại có một anh Thái, khi biết được ngày mình sẽ bị đem ra tử hình, trước đó mấy hôm anh ta chuẩn bị cho giây phút cuối của anh rất chu đáo. Anh lặng lẽ làm những công việc của mình rồi ngồi cầu nguyện. Chắc anh muốn những ngày cuối phải được bình yên và không còn biến cố nào xảy đến với anh nữa.

Rồi khi ngày đó đến, đầu tiên anh ta tỏ vẻ rất đàng hoàng, chững chạc như chấp nhận số phận của mình. Nhưng khi lính gác đến dẫn anh ra hành lang, bất ngờ anh ta phản ứng lại. Phản kháng không hung hãn nhưng chứa đầy sự tuyệt vọng. Anh với tay níu chặt chấn song không chịu bước đi và òa lên khóc nức nở như trẻ con. Anh không la lối ồn ào, chỉ ghì lại bằng hai cánh tay run rẩy, nước mắt đầm đìa trong nỗi tuyệt vọng khôn cùng. Thấy anh trì hoãn, một tên lấy dùi cui đập tàn bạo vào hai tay anh, nhưng anh vẫn không chịu buông ra, cứ cố gắng níu kéo mảnh đời đau khổ cuối cùng của mình. Nhìn cảnh này thật là kinh khủng. Một con người đơn độc, một người không muốn rời bỏ thế giới nghiệt ngã này mà bị buộc phải tiến đến để kết thúc giây phút cuối. Anh ta phải biết rằng đâu còn gì cho anh, dù chỉ thêm một ngày, một phút hay ngay cả vài giây đi nữa. Không còn gì hết, có chăng là một cuộc đời vô vọng ở Bang Kwang. Nhưng anh vẫn không đi. Cái giây phút cuối ngọt ngào làm sao, đối với anh đó là tất cả: Giây phút cuối còn lại đầy nước mắt cùng với một nhóm lính cầm dùi cui đập tàn bạo để anh buông hai bàn tay khỏi chấn song!

Khi một con người sắp bước vào cõi chết không có ai bên cạnh, cũng không một lời an ủi là điều đáng buồn nhất; và tôi ao ước mình sẽ không bao giờ phải chứng kiến cảnh này nữa.

Tại Bang Kwang, những anh tù có hành vi tốt thường được tin cẩn, được nhiều ân sủng và được cho mặc đồng phục màu xanh, được cầm dùi cui như các nhân viên của trại. Những anh này gọi là lính ‘áo xanh’. Trước đây họ cũng can tội giết người hoặc có hành động bạo lực nhưng vì biết cách bảo vệ bản thân bằng nhiều mưu mô nên chiếm được một chỗ tốt trong hệ thống nhà tù. Tuy vậy, họ vẫn bị xem là tù nhân. Khi có một anh lính nào cần ngủ trong phiên trực thì anh chàng ‘áo xanh’ này thay thế để trông coi mọi việc. Đa số họ rất hài lòng vì được ân sủng nên đối xử với những người còn lại thật công bằng; dĩ nhiên, cũng có những tên lạm dụng đặc quyền đó để lộng hành. Một tên ‘áo xanh’ đã vượt quá thân phận tù đày của mình và bị mê hoặc bởi sự tự do quá trớn nên thường xuyên đi tìm ân sủng từ các cấp trên bằng cách đi tâu lại tất cả những gì hắn thấy. Phần lớn bọn lính buộc lòng lờ đi những trò giải trí của tù nhân, như chơi súc sắc hay ngay cả chích ma túy, nhưng tên ‘áo xanh’ này luôn luôn chứng tỏ mình là người nghiêm túc nhất. Hình như hắn không hề biết mình là người bị ghét cay ghét đắng trong đám quản lý của trại. Một buổi sáng nọ, sau khi một anh tù bị hành hạ bởi tên ‘áo xanh’, những người Hoa và người Thái bắt đầu đi quyên tiền vì nhân dịp một anh Thái sắp được phóng thích. Anh này, theo người ta biết, rất nghèo và chẳng có thân nhân nào ở bên ngoài cả, họ đem món tiền đó cho anh ta và xúi anh ta phải “xử đẹp” tên ‘áo xanh’ một trận thật ra hồn. Không cưỡng được món tiền to lớn mà cả cuộc đời mình chưa từng có - 300 Baht tương đương với 100USD. Anh nhận lời ngay dù biết chắc rằng việc phóng thích của mình vì lý do này sẽ bị hủy bỏ.

Khoảng giữa trưa hôm đó, anh Thái sắp mãn tù kia đi vệ sinh, trên tay cầm theo tờ báo mà người lính trao cho. Một lúc sau anh ta xuất hiện với một bọc báo đầy phân. Hồ hởi vì sắp được thả nên anh ta chẳng tỏ ra lo âu gì về cái màn chúng tôi sắp thực hiện. Gói phân này anh đã nín từ lúc bị đi tiêu chảy và tin rằng không gì có thể ghê tởm hơn. Lúc mọi người nóng lòng đứng chờ xem, anh tiến đến văn phòng, nơi tên hay gây rắc rối thường đến gõ cửa để mách lẻo. Vừa thấy anh, hắn đứng lên có vẻ khó chịu và bước tới hỏi anh đến để làm gì. Không nói một lời, anh Thái chụp ngay gói phân lên đầu hắn. Thật là kinh khủng!

Theo văn hóa của dân tộc Thái, điều tối kỵ nhất là không được rờ lên đầu vì họ tin rằng đầu là phần cao nhất của cơ thể, là nơi thiêng liêng để thờ Phật, còn chân là phần thấp nhất để chạm vào những thứ bẩn thỉu trên mặt đất… Nhiều lần tôi thấy mấy ông ngoại quốc đùa giỡn thường gõ lên đầu một anh Thái làm anh ta rất cáu tiết.

Trong khi mọi người chờ đợi hình phạt xảy đến với anh Thái thì kỳ lạ thay anh ta lại được phóng thích ngay chiều hôm đó mà không hề bị khiển trách một lời nào. Trái lại tên ‘áo xanh’ tức khắc bị chuyển sang trại khác và sau hai tuần lễ nghe tin hắn chết vì bị đâm bởi một người nào đó. Vài anh lính hầu như lờ đi hoặc ít ra họ cũng sẵn sàng tha thứ những việc đã xảy ra, tôi nghĩ họ đủ thông minh để đoán trước những hành động sởn óc này.

Nhiều anh lính đối xử với tù nhân cũng tốt. Nhất là những anh bán heroin thường được bọn tù kính nể vì ít ra họ cũng giúp chúng tôi chịu đựng cho qua ngày. Nhưng nói chung thì không thể nào tin cậy đến mức độ có thể đến quá gần.

Trong trại này, tôi làm bạn khá thân với một anh lính nhưng sau một thời gian thái độ hắn thay đổi vì lý do gì tôi không biết. Ngày hôm trước giờ tắm giặt, hắn bước đến gần chỗ tôi và hỏi tôi có khỏe không. Tôi chưa kịp trả lời thì bất ngờ hắn tát vào mặt tôi thật mạnh làm tôi cuộn người lại và thối lui. Khi liếc nhìn lên tôi thấy hắn mỉm cười. Tôi hỏi có chuyện gì xảy ra, hắn không nói tiếng nào, bộ mặt mang một nụ cười rất đáng ghét. Tôi nói nếu chơi vậy một lần nữa tôi sẽ đập hắn gục ngay. Hắn cũng chẳng nói chẳng rằng, vừa cười vừa bỏ đi. Tôi kinh hãi trước cử chỉ này, nó như thể báo trước một điềm không hay.

Gần một tuần rồi tôi không thấy hắn ta. Lúc dò hỏi ra thì hắn đã về nhà được hai ngày sau lần tôi và hắn đấu khẩu để ăn cơm tối với gia đình. Khi gia đình hắn đang ăn thì có tiếng gõ cửa. Người vợ ra mở. Người lạ đòi gặp mặt anh chồng. Hắn vừa bước ra thì bị một phát súng bắn ngay vào cổ. Từ đó, chúng tôi không gặp hắn ở Bang Kwang nữa, mặc dù hắn còn sống nhưng cả cuộc đời còn lại chỉ ngồi trên xe lăn vì viên đạn xuyên qua đốt sống cổ làm tê liệt cả hai chân.

Như tôi đã nói, những anh lính đủ khôn ngoan thì không nên thân mật với tù nhân và cũng đừng để khét tiếng là độc ác.

Hôm nọ, một anh lính tên Chom đi ra sân thể dục, gọi là sân nhưng thật ra nó nhỏ xíu không đủ cho tất cả tù nhân vào tập, thì thấy một anh tù tỏ vẻ chểnh mảng. Hắn bước đến đánh anh ta trước bao cặp mắt ngạc nhiên cho đến khi anh này tắt thở mới thôi. Sự kiện đó không chỉ dừng ở đây mà nó cũng được lặp lại y như lần trước với một anh tù khác cũng cùng tên lính gác đó. Điều này gây sự phẫn nộ trong đám tù nhân. Vài ngày sau, khi hắn vừa rời nhà tù sau phiên trực của mình thì mọi người nghe một tiếng súng vang lên, Chom vội vã chạy ngược vào trong với một cái tai bị biến mất. Ai đó đã bắn hụt rồi! Những người Thái có thể tha thứ cho một tên lính nếu họ thấy bỏ qua được, nhưng khi muốn giết là họ giết ngay.

Vài anh Thái vì có quan hệ họ hàng thân thuộc với những người có quyền thế đã chọn lựa vào trong này vì đời sống ở Bang Kwang ổn định hơn là ở khu nhà ổ chuột. Họ có bạn trong này và có băng nhóm. Thường những anh chàng này là những kẻ hung tợn, nhẫn tâm thích nổi loạn và hành động bạo lực. Đối với người ngoại quốc, những anh tù này phải được nể nang, nhưng càng tránh xa càng tốt.

Sau hai năm ở Bang Kwang, Lão Già được thả ra. Trong thời gian ở đó, lão đã kháng án và tòa đã tìm ra nhiều sự trái ngược về các bằng chứng dùng để buộc tội lão ta. Thật may cho lão. Tôi không hề ganh tỵ với bất cứ người nào khi họ thoát ra khỏi nhà tù Con Cọp Khổng Lồ cả.

Vào ngày 15 tháng Hai, một ngày đối với chúng tôi là ngày LÀNH vì không có gì xảy ra và cũng chẳng có ai bị hành hạ. Nhưng một bức điện tín đã đến báo tin cha tôi qua đời. Tôi còn nhớ lần cuối ông đến đây thăm tôi, lúc bấy giờ tôi nhận xét thấy ông có vẻ như đã biết trước điều sắp xảy đến cho mình. Đối với bất cứ ai khi mất cha hoặc mẹ thì thật khó mà diễn tả những cảm giác của mình thành lời. Cái cảm giác như bạn mất đi một phần sức lực - đó chính là cái mà ông đã tạo ra tôi bằng máu huyết và da thịt ông. Với tôi, tôi có cảm tưởng như mình bị lừa đảo, bị tước đi cái gì đó đã một lần thuộc về tôi. Tôi đã không có mặt ở nhà trong những năm tháng cuối đời ông. Tôi không được phép nói là tôi rất yêu ông. Một kẻ nào đó đã không cho tôi nói câu này với cha tôi. Cũng như đối với anh tôi, anh chết quá bất ngờ nên không ai nói được một câu giã từ nào! Với cha, ông đã biến mất khỏi hành tinh này và tôi không thể nhìn thấy ngay cả cái khoảng trống mà ông đã để lại phía sau. Nghĩ về mẹ, tôi buồn ghê gớm. Mẹ tôi bây giờ thật đơn độc làm sao!

Tôi khóc suốt ngày hôm đó, khóc như đã khóc cho Gary. Nhưng hai nỗi buồn khác nhau, nỗi buồn này lớn hơn, nhức nhối hơn vì cái cảm giác tuyệt vọng đang giày vò. Sự mất mát bắt đầu chồng chất lên đến trời xanh, và tôi ngã bệnh. Bỗng nhiên tôi thấy sự trừng phạt này quá nghiệt ngã và tôi không thể nào hiểu những bài học mà tôi đã học. Tôi còn phải chịu đựng như thế này bao lâu nữa trước khi thế giới bảo rằng tôi đã trả hết ‘cái giá’ của mình?

Đầu óc cứ quanh quẩn mãi những ý tưởng đó khiến tôi càng chích heroin dữ dội hơn vì nếu không chắc tôi sẽ điên mất. Tôi thật sự mất hết hy vọng. Tôi không thể đương đầu với ký ức và chống chọi cái hiện tại tồi tệ này. Tôi đã có nhiều cơ hội để không vướng vào cái Số Phận cay nghiệt của ngày hôm nay, nhưng tôi lại để chúng qua đi… Trước khi đến Bangkok và Ấn Độ, gia đình đã gửi tôi sang Pháp sống với người bà con để nghiên cứu về loài ngựa, nhưng việc đó không đi tới đâu và sau chưa đầy một năm tôi trở về Úc. Ở Úc, tôi được thu nhận vào học nghề làm tóc tại Double Bay, nhưng thấy không thích hợp nên lại bỏ. Cuối cùng cũng không thể làm cái nghề bưng bia đi phục vụ cho những người bình dân ở quán Wynyard. Điều gì sẽ xảy ra nếu tôi theo đuổi việc giải cứu Avril? Bắt đầu từ lúc nào mà ngày hôm nay tôi suy sụp đến thế này? Khó ai tin rằng tôi đã từng có một quãng đời thật đẹp để rồi sau đó lại lang thang đi tìm cái thứ gớm ghiếc của ngày hôm nay. Những ký ức đó không còn là nguồn an ủi cho tôi nữa. Tất cả sự mất mát này được thay bằng cái hiện tại ghê tởm và những ác mộng bao trùm khiến tôi như người mất trí.

Dạo này việc kiểm soát heroin ở Bang Kwang tương đối lỏng lẻo cho nên càng ngày bọn lính càng tận dụng cơ hội để kiếm tiền. Chúng mang thuốc vào để bán, và tù nhân cũng nắm rõ điều này: Cuộc cạnh tranh lành mạnh diễn ra, lính gác làm tiền, tù nhân cũng làm tiền. Cái điên của tôi ở chỗ vì heroin mà tôi bị tống vào đây. Thứ thuốc mà trong đời tôi chưa từng thấy nhiều bao giờ, giờ đây hầu như luôn có sẵn và không một anh ngoại quốc nào không sử dụng đến nó. Nếu mấy anh này không biết ‘nó’ thì họ đi mua những loại thuốc an thần khác như Rohypnol, Valium… từ bọn lính hoặc từ bệnh xá.

Hiện giờ tôi được viện trợ đều đều từ gia đình và bạn bè thân thiết. Tôi thấy mình là một trong những anh tù may mắn, nghe có vẻ không chắc lắm, có đủ khả năng tài chính để giữ mình tránh khỏi tình trạng đau đớn đang gặm nhấm để đối phó với hiện trạng tại Bang Kwang. Tôi nhìn thấy nhiều người không tiền mua thuốc hay cố giữ nghiêm túc trong môi trường này đã hóa điên. Một đêm nọ, anh tù Bồ Đào Nha bất ngờ đánh thức tôi dậy bảo rằng anh ta vừa mới nói chuyện với mẹ của mình. Thoạt đầu tôi nghĩ là thật nhưng khi tỉnh hẳn tôi mới nhận ra là chúng tôi đang nằm trong lao xá. Thì ra lúc quá tuyệt vọng, anh ta đã xin bác sỹ một ít thuốc an thần, những thứ mà họ có thể cho chúng tôi để chống lại tình trạng loạn thần kinh nặng. Tên thuốc là gì tôi đã quên mất, song cái điều tôi nhớ rất rõ là mỗi lần bác sỹ chỉ cho một liều 50g thôi, nhưng lần này anh ta xin được đến 200g và không ngần ngại uống hết. Lượng thuốc quá lớn đã làm tê liệt hệ thần kinh của anh; do đó, anh ta không bao giờ hồi tỉnh được nữa.

Cứ lâu lâu một lần, khi ban quản giáo thấy mọi việc đi quá tầm tay thì họ lại bắt đầu cho kiểm soát gắt gao trở lại, nhất là kiểm soát heroin. Cuộc trừng trị thẳng tay kéo dài trong khoảng hai tuần và suốt thời gian này những anh tù thật điêu đứng. Vào ban đêm, hàng trăm tiếng rên la vì thân xác họ bị hành hạ cực độ do thiếu thuốc. Loại âm thanh đó có ai nghe thấy mới tin được.

Sau giai đoạn này, một tên lính đến báo cho tôi biết một tin rất hồ hởi. Hắn tiết lộ rằng hắn đã mang vào được nửa kí lô heroin nguyên chất. Tôi mua lại 350g và mang về phòng chia thành từng phần nhỏ, gói trong mấy tờ giấy 100 Baht. Sáng hôm đó, khi chúng tôi đang bước ra sân thì bất ngờ bọn lính ập đến khám xét. Tôi kinh hoảng vì tất cả những gói heroin hiện nằm trong túi quần đùi tôi đang mặc. Bọn lính và những tên ‘áo xanh’ đang lục lọi khắp người của tù nhân. Chẳng có cách nào quay trở lại để lẻn về phòng giấu đi mà không bị nghi ngờ, tôi nghĩ mình chết đến nơi rồi.

May mắn thay, người bán thuốc cho tôi cũng có mặt tại đó. Vừa thấy tôi hắn bước đến và bảo với mấy tên kia là để tôi cho hắn khám. Hắn thò tay vào hai túi quần trước của tôi giả vờ lục soát. Lúc sau hắn tuyên bố chẳng có gì cả và cho phép tôi ra sân.

Khi tôi vừa ngồi xuống và bắt đầu lấy ‘thiết bị’ của mình ra thì một tên lính nhìn tôi với vẻ nghi ngờ, hắn bước đến sát bên cạnh, tôi lặng người đi như một pho tượng, nhưng giả vờ như đang nhìn vào khoảng sân trống rỗng kia một cách thích thú. Hắn quan sát tôi khoảng vài phút rồi bỏ đi. Nhìn quanh tôi để ý thấy một số người cũng làm giống như tôi, cũng tỏ vẻ thích thú cái trống trơn vô hồn của khoảng sân trước mặt. Ở một chừng mực nào đó, thật khôi hài! Cuối cùng không thấy gì lạ, hắn bỏ đi và tức khắc trong sân bắt đầu diễn ra một cảnh nhộn nhịp thật lố bịch: mỗi anh tù rút ống tiêm của mình ra và chích ngay tại chỗ.

Cuộc sống cứ thế trôi đi. Nó có thay đổi chăng dù chỉ trong thời gian ngắn ngủi. Khi có những người từ các hội truyền giáo đến viếng thăm hay có thư từ của gia đình gửi đến lúc bấy giờ không khí nhà tù nhộn nhịp được đôi chút, còn lại thì ngày này tiếp nối ngày khác đắm chìm trong ma túy và tẻ nhạt.

Sau một thời gian khá dài tạm gọi là yên ổn đối với tôi, nhưng rồi sóng gió lại nổi lên, một buổi sáng tôi bị một tên lính bắt gặp đang chích. Thế là ban quản giáo chuyển tôi qua khun deo và biệt giam tại đó. Từ lúc đến Bang Kwang, tôi đã sợ khun deo hơn sợ bất cứ thứ nào khác và thú thật tôi chưa kịp chuẩn bị cho cú sốc này. Lạnh lẽo, cô độc và tối tăm hơn những gì tôi đã tưởng tượng trước đây rất nhiều. Không có chỗ nằm tối thiểu cho một giấc ngủ, ngay cả một khoảng trống để suy gẫm cũng không nốt… Tôi biết thế nào tôi cũng hóa điên trong cái hốc tối tăm này.

Ở đây không có thuốc để chích nữa. Cơ thể tôi bắt đầu co giật, mồ hôi toát ra như tắm và những ảo giác xuất hiện trong đầu. Tôi có cảm tưởng như đang bị những con thú kỳ lạ hành hạ, giày vò. Bị nhốt trong một cái phòng nhỏ xíu này, tôi không còn kiểm soát được ý nghĩ của mình. Một trạng thái hoảng loạn và giận dữ xâm chiếm đầu óc tôi, tôi không thể nào kéo dài cuộc sống như thế này thêm một phút nào nữa, tôi đã mất hết ý chí để tồn tại và để vui vẻ trở lại rồi. Bây giờ tôi chỉ muốn chết ngay thôi.

Tôi tháo chiếc xà rông quanh thắt lưng và quấn lại để làm một sợi dây, một đầu thắt thành cái thòng lọng. Nhìn lên trần thấy có một cái ống nước, tôi leo lên đó để buộc một đầu xà rông vào. Không cho mình thời gian để suy nghĩ hay thay đổi ý định, tôi đút đầu ngay vào cái thòng lọng và buông mình khỏi máng xối. Cái thòng lọng siết chặt quanh cổ, tôi cảm thấy cổ họng mình bị nghẹt cứng. Một cơn đau xoáy lên từ sống lưng và tôi biết mình không thể nào quay ngược tình thế được nữa - tôi sắp chết và chính tôi muốn thế. Ruột gan và bàng quang kiệt dần, đầu tôi chơi vơi vì thiếu oxy.

Trước khi bất tỉnh, chiếc xà rông căng ra dưới sức nặng của tôi và rách toạc. Tôi chộp lấy chỗ rách nhưng không kịp, nó tét đôi và tôi ngã quỵ trên sàn. Tức thì những gì chất chứa trong ruột gan và bao tử đều tuôn ra ngoài, và tôi nằm trên đống phân và đống nôn mửa ở tư thế này trong mấy phút. “Không, không, không”, tôi lầm bầm một mình, muốn khóc nhưng không còn nước mắt để khóc. Tôi quá tuyệt vọng và đau khổ đến nỗi không biết làm cách nào để chết được. Dở chết, dở sống đấy mới đúng là địa ngục.

Tôi cố gắng đứng lên, đến máng nước lau sạch mình mẩy. Tôi không biết mình làm như thế để làm gì, vì chẳng có lý do nào cả. Tôi lặp đi lặp lại giờ này qua giờ khác: “Không, không, không” cho đến lúc giọng lạc hẳn đi.

Tôi ở đấy tròn một tháng, mắc bệnh kiết lỵ và hình như bị lao nữa, nhưng không có thuốc dù chỉ một viên aspirin. Tôi nài nỉ mấy tên lính cho tôi gặp bác sỹ, nhưng chúng phớt lờ đi. Sau một thời gian nằm đó, tôi đã học cách liên lạc với những anh tù bị biệt giam như tôi. Thực sự, những xà lim này được xây như những chuồng chó, cách nhau bằng các bức tường chạy dài ra phía trước để cho tù không thể nhìn thấy nhau. Một đêm, sau khi mấy tên lính rút đi, tôi nghe một tiếng động rất nhẹ bên ngoài, tôi nhìn ra thì thấy một sợi dây dài ném ra từ xà lim bên cạnh và nó đang nằm trong tầm tay tôi. Đầu dây là một quả banh tennis. Tôi nghe tiếng anh tù hàng xóm nói khẽ bảo tôi chuyển giùm quả banh đi. Tôi với tay lôi quả banh vào, trên quả banh có một vệt cắt sâu, trong đó nhét một lá thư gửi cho một anh ở cuối dãy và kèm theo một cây viết chì để anh kia hồi âm. Tôi thọc tay ra cửa để ném quả banh qua phòng bên cạnh. Và cứ như thế quả banh mang theo thông điệp cuối cùng đến tay người nhận. Mấy giờ sau, tôi nghe tiếng dội của quả banh trước cửa phòng mình, nó đang trên đường trở lại chỗ người gửi. Phương pháp này cũng được sử dụng để mua và bán ma túy từ những tên lính chịu hối lộ. Đôi khi quả banh và sợi dây bị trượt xa tầm tay, chúng tôi phải lấy xà rông thấm ướt quăng ra để câu sợi dây vào. Làm được công việc này thỉnh thoảng phải mất đến hàng giờ và đòi hỏi một sự kiên nhẫn vô cùng tận. Điều này thì chúng tôi có thừa thời gian.

Cũng nhờ quả banh mà tôi học được cách nấu nước. Một bạn tù kiếm đâu ra được một cái muỗng, anh ta khoan hai cái lỗ vào đó. Một anh khác tìm thấy từ trại tù cũ hay ở đâu đó một cuộn dây điện, sợi dây này cột một đầu vào cái muỗng, một đầu nối vào bóng đèn treo trên trần, xong nhúng muỗng vào một cái lọ hoặc một ca đựng nước. Thế là chúng tôi có nước đun sôi để uống do một nguồn năng lượng cung cấp dù yếu và chậm; tuy nhiên, cũng rất hữu hiệu.

Nhiều lúc nhớ lại tôi tự hỏi sao thời gian ở tù, tôi học được nhiều cách để tồn tại đến thế. Hoàn cảnh này chắc có lẽ cũng tương tự thời chiến tranh. Tôi đã từng đọc sách báo nói về chiến tranh ở Việt Nam, những người lính Việt Cộng thường nhặt bất cứ thứ gì do quân đội Mỹ vứt đi chẳng hạn như cái bật lửa hay một vỏ đạn để đem về chế thành những dụng cụ hữu dụng khác. Hành động này không khác gì chúng tôi, những con người sống chẳng còn niềm tin: một quả banh tennis, một sợi dây, cuộn dây điện cũ,… vật liệu phế thải của người Thái đã giúp chúng tôi tồn tại ở Bang Kwang.

Vừa ra khỏi khun deo thì tôi ngã bệnh nên được ban quản giáo cho chuyển ngay vào bệnh xá. Sau khi khám xong bác sỹ thấy tình trạng sức khỏe của tôi quá tệ, nên ông đề nghị đưa tôi sang Lard Yao nằm một thời gian. Điều này khiến tôi cảm thấy hết sức lạ lùng vì sức khỏe tôi lúc bấy giờ đâu có tệ hơn thời gian bị biệt giam một tháng vừa qua. Phải chăng cơ thể tôi đã thích nghi với nỗi bất hạnh này rồi?