Chương 12 CUỘC NỔI LOẠN
Cuộc nổi loạn xảy ra vào Chủ Nhật ngày 5 tháng 8, 1985. Vào ngày đó tôi đang tiếp Simone, một cô gái khoảng 19 tuổi đến từ vùng biển phía Bắc thủ đô Sydney. Trong thời gian nghỉ phép, cô sang Thái Lan và muốn thăm những người đồng hương trong các trại tù. Cô ta đã thăm tôi vài lần ở đây. Mặc dù lâu lắm tôi không tiếp xúc với phái nữ, vậy mà tôi chẳng thấy khó khăn tí nào khi gặp gỡ cô ta. Nàng có sức lôi cuốn đến nỗi mỗi lần chuyện trò với nàng tôi chẳng còn quan tâm đến những gì đang xảy ra xung quanh. Hôm đó, cho đến khi thấy bọn lính nhốn nháo vừa chạy vừa thổi còi ra hiệu với nhau, tôi mới kinh hoàng nhìn ra phía tường thành thì thấy từ trên chòi canh những khẩu M16 đang được ném xuống cho bọn lính bên dưới.
Trong khu thăm nuôi, khách bị lùa hết ra phía sau sân cỏ. Một tên chạy đến nhấc bổng Simone và lôi nàng vừa chạy vừa bảo phải ra khỏi nơi này trong khi tôi chưa kịp nói lời tạm biệt với nàng. Tôi đang phân vân có lẽ có một việc gì thật ghê gớm đang xảy ra mà chúng tôi chưa ai được biết. Đồng thời lính chạy vào sân ra lệnh chúng tôi trở lại xà lim và khóa chặt tất cả cửa phòng.
Tiếng bàn tán lan ra khắp nơi. Hóa ra có một anh ở trại tù số 6 đã chộp một tên lính, kề dao vào người và lôi hắn ra làm con tin; trong khi vài anh tù khác cướp súng và đe dọa mấy tay lính khác. Thoạt đầu, hiện tượng có vẻ lý thú lắm vì lính ở đây chưa bao giờ gặp phải tình huống như thế này. Chúng tôi hồ hởi muốn xem sự thể diễn tiến ra sao, nhưng một giờ trôi qua chẳng thấy động tĩnh gì cả. Toàn khu vực bao trùm trong sự yên tĩnh. Suốt buổi hôm đó, chúng tôi không thấy cũng chẳng nghe tin gì về số phận của tên lính bị bắt. Nhưng một lúc sau có tiếng nháo nhào ở tận đằng xa vọng lại, không phải là tiếng xô xát mà như tiếng trẻ con đang nô đùa ngoài sân chơi. Rồi lúc bấy giờ chúng tôi nghe một tiếng đâm sầm rất mạnh như thể có ai đó đang cố hết sức tung cửa để tẩu thoát. Âm thanh đó được lặp đi lặp lại hai, ba lần.
Một người xuất hiện ngay trước cửa xà lim của chúng tôi, không phải lính mà là một anh tù, trên tay cầm một khúc ống nước đang gõ vào ổ khóa như muốn nó bật tung ra. Vừa nện anh vừa bảo: “Có một cuộc bạo động, bọn lính đã đi hết rồi. Bang Kwang đang bị vây bên trong.” Tất cả cửa phòng của tòa nhà số 5 đều được phá tung, tù nhân ùa ra tứ phía, gặp cái gì là đập phá cái đó. Nhà tù lúc bấy giờ cực kỳ lộn xộn. Tôi và Paul chẳng biết làm gì, nhưng không thể nào không hào hứng trước cảnh như thế. Dù biết rằng cuối cùng thì tất cả chúng tôi không ai tránh khỏi bị hành quyết, điều đó xem như một ân huệ chứ không còn cách nào hơn.
Mấy anh xông vào khu ở của bọn lính và vào cả văn phòng ban lãnh đạo, phá phách lung tung. Họ còn lôi khung hình của vua Thái xuống rồi giơ cao lên đầu vừa ca, vừa hét như người mất trí. Một anh cho chúng tôi biết chính phủ Thái vừa đưa tin công bố lệnh ân xá sắp chấm dứt, nghĩa là tù nhân có thể được thả sớm hơn bản án đã thi hành.
Thình lình tiếng loa phóng thanh vang lên ra lệnh chúng tôi chấm dứt ngay cuộc bạo loạn và phải trở về lại chỗ của mình, nếu không sẽ bị trừng phạt. Mọi người cứ lờ đi làm như không nghe thấy và đồng thời còn quay lại phỉ báng vào lời kêu gọi trên loa. Ngay khi cuộc bạo động bắt đầu, tôi đã thấy kinh hãi vì có một người cho tôi biết cách đây khoảng mười năm cũng ở Bang Kwang này có cuộc nổi loạn như thế và sau đó mọi người đều bị xử tử không sót một ai. Tôi hoàn toàn tin nó là sự thật vì ban Quản giáo ở đây chẳng ngần ngại gì mà không đem hết chúng tôi ra hành hình.
Tối đêm hôm đó mọi người gần như không ai chợp mắt. Cả trại hỗn loạn một cách kỳ lạ. Một anh nào đó đã chộp được một cái máy thâu băng của bọn lính, mở oang oang. Mấy anh tù gần như ngây dại khi được nghe bản All Along The Watchtower do Jimi Hendrix hát. Không biết làm gì, tôi và Paul đi lang thang. Khi ngang qua trại 5 chúng tôi thấy trong một xà lim nhỏ hẹp một nhóm năm anh Thái đang ngồi xoay tròn trước những ngọn nến lung linh, im lặng cầu nguyện, trông họ giống như một ốc đảo tí hon yên bình, lạc lõng giữa cái cảnh điên cuồng bên ngoài. Tôi và Paul bước đến ngồi xuống cạnh họ, tò mò muốn biết họ đang làm gì. Một anh nói: “Chúng tôi cầu cho linh hồn mình được siêu thoát vì chắc chắn ngày mai cuộc đời của chúng tôi sẽ kết thúc.”
Sáng hôm sau, bầu không khí của Bang Kwang bao trùm một sự yên lặng đến rùng mình. Không một bóng lính gác, không cảnh sát và cũng không thấy một nhân viên nào của trại. Chắc chắn là họ sẽ kết thúc cuộc nổi loạn đó vào ngày hôm nay. Trong cái yên lặng lạnh mình này, thỉnh thoảng người ta nghe tiếng la hoan hỉ phát ra từ một nơi nào đó. Riêng những người tù ngoại quốc hầu hết đều trốn trong các căn phòng ‘đỏ’. Tôi, Paul và hai người Mỹ nữa ở yên trong xà lim nằm phía sau lưng trại, mắt cứ dán ra cổng và những bờ tường chờ xem động tĩnh.
Vào khoảng 9, 10 giờ sáng giông tố bắt đầu nổi lên. Tất cả cùng một lượt, những cánh cửa nhà tù bật tung ra, một toán lính thuộc lực lượng đặc biệt ùa vào, nã súng điên cuồng. Trực thăng hình như từ các bãi cỏ bên ngoài trại đang cất cánh. Lính biệt kích đồng loạt trèo lên tường án giữ vị trí như thể chờ lệnh tấn công. Súng nổ vang trời, tim tôi bắt đầu dội lên. Một anh tù bỗng dưng chạy băng qua sân, hướng về phía hàng rào kẽm gai thì bị bắn banh xác ngay tức khắc. Lính đứng dọc bờ tường ở những lối đi, nã súng xuống sân. Edward, một anh Mỹ, nhận thấy rằng bắn vào khoảng trống khi họ đứng ở các vị trí chiến lược khó khăn như thế này thì có nguy cơ sẽ bắn vào nhau. Vừa nói xong thì một anh tù Thái đứng cách chúng tôi vài ba mét bị bắn tét lồng ngực. Bên kia sân, tôi thấy một anh khác đang cố trèo lên tường, nhưng chỉ được nửa chừng cả thân thể anh ta rũ liệt ngã xuống đất. Edward bắt đầu thấy khiếp đảm. Anh bèn cởi chiếc áo sơ mi của mình ra, bước về phía tường vừa đi vừa quơ quơ chiếc áo ra hiệu muốn nói chuyện với những người chỉ huy. Mấy tên lính đồng loạt nâng súng nhắm vào anh. Trong tích tắc tôi nhíu mày vì tin chắc rằng anh sẽ bị giết. Cả bọn lính đồng loạt hét bảo anh phải lùi lại và ra lệnh cho anh nằm xuống. Lúc bấy giờ phía sau lưng tôi là một họng súng M16 đang chĩa vào gáy. Tên cầm súng bảo tôi không được động đậy. Tôi run lẩy bẩy vì họng súng đang nằm sau gáy mình. Lúc bấy giờ có một anh lính khác đi ngang qua thấy tôi, hắn bảo với tên kia rằng chúng tôi không dính dáng gì vào việc này. Tên lính nọ nhấc họng súng khỏi đầu tôi và ra lệnh tôi phải cởi áo, nằm úp mặt xuống đất và hai tay để ra sau gáy chờ có lệnh mới được đứng lên.
Một giờ sau tiếng súng im bặt, bọn lính chạy xung quanh dồn tù nhân lại. Người nào cũng bị trói quặt hai tay ra sau lưng bằng dây bện rất chắc. Một số bị trói bằng dây màu đỏ, số khác màu trắng. Tôi chẳng hiểu màu sắc đó mang ý nghĩa gì. Rồi sau đó chúng lùa một nhóm năm anh tù ra phía trước và bắt quỳ xuống. Trước khi tôi kịp nghĩ điều gì sẽ xảy ra tiếp thì bọn lính đứng phía sau đồng loạt nâng súng bắn vào đầu họ. Tiếp theo là năm người khác. Tất cả đều bị trói bằng dây màu đỏ. Sự việc tiến hành quá nhanh làm mấy anh còn lại kinh hãi quay hỏi nhau xem tay họ bị cột bằng dây màu gì.
Paul, tôi và vài người ngoại quốc khác bị đưa xuống phía cuối dãy nhà số 5. Cái nắp hầm cầu ở đây đã bị bắn nát nên nước phân dềnh lên gần cả tấc. Một tên ra lệnh cho chúng tôi nằm sấp xuống và bò ngang qua đấy, xem như chúng tôi cũng phải chia sẻ hình phạt trong cuộc nổi loạn vừa rồi. Nhưng Bruce, anh tù Úc, quay lại nhìn tên lính và phản đối cách trừng phạt này. Anh ta bảo rằng anh không liên quan gì trong việc này cả. Anh là một người giữ đúng nội quy của trại và trong suốt thời gian lộn xộn anh vẫn ngồi yên trong xà lim của mình. Một ý nghĩ thoáng qua trong đầu, tôi cho là Bruce đã làm một hành động sai lầm chết người. Nhưng ngạc nhiên thay tên lính quay lại lườm Bruce rồi bảo anh ta đứng sang một bên, còn những người khác phải nằm trườn qua đống phân đó. Thấy màn phản đối của Bruce hiệu quả, một anh Thái cũng bắt chước định từ chối. Song không một chút do dự, tên lính quay lại đưa báng súng nện ngay vào một bên đầu anh ta. Hắn đập mạnh đến nỗi đầu anh Thái tét đôi ra như quả dưa hấu rơi từ trên cao xuống đất. Anh Thái ngã ập vào đống phân, máu và óc trộn lẫn vào đống bầy nhầy đó. Chưa đã giận, hắn hét chúng tôi phải làm theo lệnh của hắn. Không một ai còn dám phản đối nữa.
Trong thời gian lao xá nổi loạn này, Paul bị đánh một cách tàn nhẫn đến nỗi anh không còn bước được. Chân phải của anh oằn đi, gãy từ ống quyển trở xuống. Tất cả chúng tôi gồm 36 người bị nhốt, bị bỏ đói trong 3 ngày liền mà chẳng một nhân viên y tế nào để ý đến. Thời gian này Paul vô cùng khốn khổ.
Qua hết ngày thứ ba sau khi dập tắt cuộc nổi loạn, họ mới mở cửa nhà giam và lùa chúng tôi ra ngoài để tắm giặt. Tôi và một anh bạn Mỹ phải xốc nách dìu Paul đi. Một tên lính nổi giận quát tháo ầm ĩ bắt chúng tôi phải di chuyển cho nhanh. Tôi giải thích cho bọn chúng rằng chân Paul bị thương nặng, thần kinh không còn điều khiển được cử động nên không thể nào bước nhanh hơn. Nhưng hắn cầm cây gậy cứ chọc vào lưng chúng tôi miệng hối lia lịa.
Và từ đó trở đi, Bang Kwang không còn sự nhân nhượng nào như trước nữa.