← Quay lại trang sách

Chương 13 CUỘC ĐỜI

Bây giờ nhìn lại thời gian ở Bang Kwang, tôi mới nhận ra rằng phần lớn cuộc sống ở trong tù tương tự như cuộc sống của thế giới bên ngoài, giống đến mức khi đề cập tới những sự kiện xã hội bên ngoài tôi coi nó xa vời như đang xảy ra trong một quốc gia nào ngoài hành tinh mà chúng tôi không hiện diện trong đó. Chúng tôi không còn nhớ cái thế giới thật như thế nào, quả thật chúng tôi hoàn toàn quên mất!

Nhưng dù sao tận cùng trong thâm tâm, chúng tôi đều mong ước một cuộc đời bình thường trong một cộng đồng có một nếp sống thật quy củ. Thế nên chúng tôi cố gắng biến đổi những gì ở chốn đáng thương này thành một mô hình gần tương tự như cuộc đời trong quá khứ của mình, giống được chừng nào hay chừng đó: chẳng hạn như chúng tôi liên hệ làm ăn với nhau, ghi sổ sách kế toán, và nhất là tôn trọng vị trí xã hội và vấn đề tài chính của nhau. Ông bà Holmes cho tôi một quyển sổ để ghi lại những việc chi thu hằng ngày - ‘hôm nay phải đưa cho Paul 1.500 Baht; David nợ tôi 500 Baht; Ba Sao mới trả cho tôi một viên thuốc, còn nợ lại 2 viên nữa. Hôm nay Ronald và tôi sẽ trở lại phương pháp làm cũ về kế toán v.v…’. Trong bất cứ cộng đồng nào, con người cũng phải tìm cách liên kết với nhau vì lợi ích chung. Mấy năm cuối ở Bang Kwang tôi có một đám bạn thân thiết và chúng tôi cố gắng giữ liên lạc với nhau thật chặt chẽ.

Trong số đó có Gary Genovese, người Mỹ gốc Ý, chú của anh là TRÙM của một gia đình tội phạm ở New York. Gary kể cho tôi nghe rằng hoặc anh, hoặc anh của anh sẽ là người kế nghiệp công việc hàng đầu này. Tôi cũng lấy làm lạ tại sao một gia đình khét tiếng ‘anh chị’ mà không gây được áp lực đối với mấy quan chức thoái hóa Thái Lan này… Nhưng Gary cho rằng thời gian anh nằm ở Bang Kwang chỉ đơn giản là để tỏ ra mình khí phách đối với những người ở New York thôi. Anh của anh ta là Bob cũng đang nằm khám tại đất Mỹ.

Có lần Gary đưa cho tôi xem tấm ảnh anh trai mình, trong tấm ảnh đó anh này đang đứng quàng tay qua người của một cô gái trông thật hấp dẫn. Cô này, anh ta đã quen trong tù, một trại tù mà an ninh không lấy gì chặt chẽ lắm. Ở đó thỉnh thoảng họ cho phép tù của hai trại gặp gỡ nhau. Đằng sau tấm ảnh có dòng chữ: “Gary thân mến, cô gái trong ảnh này và anh sắp lấy nhau đấy. Thử đoán xem cô ta là ai?… Cũng là một tên giết người đó nghe!”

Nhật ký ngày 6 tháng 6 năm 1986

Bị đưa sang khun deo hôm nay. Tình cờ họ lục soát thấy Gary có kim chích. Vì chúng tôi hay ngồi ăn chung với nhau nên cả hai đều bị biệt giam. Rất ghét cô độc - thật là một thời gian khổ nhọc.

Ở Bang Kwang cũng có một cậu nhóc tên là Marcello, người Ý. Ít ai ưa nó. Nó thường mặc quần đùi, đứng ở chỗ cao rồi xoay tròn như diễn viên múa ba lê, vì thế cả trại đều coi nó là loại người không giống ai.

Trong thời gian bị biệt giam, Marcello phát bệnh lao. Ngày nó được thả ra khỏi khun deo, người ta thấy nó lảo đảo đi tìm bác sỹ. Marcello bệnh rất nặng, lúc đó nó đã kiệt sức và không còn biết gì nữa. Nó chỉ nằm rũ rượi, mê sảng trên chiếc giường làm bằng mấy tấm ván ghép lại và phủ trên mình một tấm chăn. Tôi không nhớ rõ tại sao lúc đó tôi cũng vào nằm trong bệnh xá. Giường tôi nằm cách chỗ của Marcello không xa. Mấy hôm sau, tôi có người ở Lãnh sự quán đến thăm, đi kèm với người này là một bác sỹ Úc. Sẵn dịp này tôi nhờ ông ta dành chút thời gian khám bệnh giùm cho Marcello. Ông ta nhận lời ngay. Hai mươi phút sau ông trở lại chỗ tôi nằm với vẻ mặt nhợt nhạt và đòi xin gặp bác sỹ trưởng của trại. Ông ta bảo nếu Marcello không được điều trị kịp thời thì chỉ trong vòng 24 giờ nữa chắc chắn không còn cứu kịp. Tối hôm sau, bộ phận tiêu hóa của Marcello hoàn toàn mất kiểm soát. Nó bắt đầu lịm dần trên vũng phân mênh mông của mình. Thấy tôi nhìn, nó nhấc tay lên vẫy nhẹ, phân lỏng từ những ngón tay rơi xuống từng giọt. Sáng sớm tôi phải nhờ một anh Thái giúp tôi đẩy chiếc giường của nó đến gần máng xối để rửa ráy. Tôi vục từng bụm nước rưới lên thân thể nó và cố gắng làm sạch được chừng nào tốt chừng đó. Trong cơn mê sảng, nó cố gắng thều thào hai chữ, “Cám ơn”.

Paul hơi lấy làm ngạc nhiên khi nghe thấy tôi đã làm điều này, bởi vì tất cả những người ngoại quốc ở đây đều xem Marcello là một tên vô lại. Nhưng riêng tôi, điều quan trọng là tôi không thể nào giống như những tên cai ngục. Và sau bao nhiêu lần chứng kiến mọi thứ xảy ra xung quanh, tôi vẫn không thể nào biến mình thành một robot: vô cảm và thiếu lòng trắc ẩn.

Hóa ra vị bác sỹ mà tôi nhờ khám cho Marcello về có tiếp xúc với Lãnh sự quán Ý, và Lãnh sự quán Ý cũng cử một bác sỹ của mình mang một thùng thuốc đến bệnh xá. Nhưng mọi việc đã quá muộn! Marcello đã ra đi từ đêm hôm trước, im lìm và bình thản trong nỗi niềm riêng tư của nó.

Nhìn thấy người đại diện của Lãnh sự Ý còn đứng đó, tôi tiến lại gần và hỏi ông có biết tin gì về Marcello hay không. Ông ta trả lời có và lập tức đi ngay để đến gặp Marcello. Đúng lúc chúng tôi đang nói chuyện với nhau thì chiếc xe mang thi hài Marcello rời khu nhà giam. Tôi chỉ tay vào chiếc xe và nói: “Kìa, nhìn chiếc xe kìa. Tôi nghĩ là Marcello đang ở trong đấy.” Ông ta quay lại nhìn theo tay tôi. Trước khi hiểu lời tôi nói, ông làm một hành động hết sức lạ lùng: nhảy ra khỏi ghế, hét lên và lao theo chiếc xe trong lúc nó từ từ lăn bánh ra phía cổng. Khi ông còn đang chạy theo, chiếc xe đã biến mất sau hai cánh cổng chầm chậm khép chặt. Ông ta dừng lại, quay đầu tiến ngược về phía chúng tôi với tâm trạng quẫn trí như tâm trạng của một người cha vừa thấy xác con mình bị mang đi.

Marcello không có gia đình nên xác của nó được chôn trên một mảnh đất phía bên ngoài nghĩa trang. Tôi cảm thấy nhẹ nhõm vì ít ra chúng tôi cũng đã tắm rửa được cho nó.

Ngày 27 tháng 4 năm 1986

Steve trở về ngày hôm nay nhưng có lẽ anh ta không thể gặp tôi được, phải đợi đến ngày 7 tháng 5 cơ. Nói là sẽ có mặt ở đây trước ngày 6 và đi cùng với ông bà Holmes. Ít ra tôi cũng hy vọng thế. Lẽ ra hôm nay tôi phải nói thêm. Thôi để lần sau sẽ lên kế hoạch.

Ngày 6 tháng 5 năm 1986

Ông bà Holmes và Steve sẽ đến thăm tôi hôm nay. Tôi đang mong Steve đến thăm tôi một lần nữa. Nghĩ thêm những gì cần phải nói để khiến họ thích thú. Tôi phải hoàn tất mấy bài học trong Thánh kinh rồi giao lại cho Charles và phải ghi ra những thức ăn cần mua.

Ngày 7 tháng 5 năm 1986

Họ bảo sẽ trở lại thăm mình vào ngày 6/5. Chẳng lẽ mình nhầm ngày. Có thể họ đến bất kỳ ngày nào trong tuần này, cũng có thể là ngày hôm nay.

Ngày 9 tháng 5 năm 1986

Hôm nay thứ Sáu, có lẽ ông bà Holmes và Steve đến. Tuy nhiên, miễn là họ đến trong tuần này, mọi việc sẽ ổn hết.

Tôi đang đứng xếp hàng chờ khám bệnh thì một anh tù người Pháp chạy ào vào phòng mạch la rối lên xin bác sỹ cho bất cứ thuốc gì để giảm đau. Anh ta đang ở trạng thái cuồng loạn vì thiếu heroin. Bác sỹ trả lời rằng ông không thể giúp gì được. Anh ta bảo nếu không có thuốc thì sẽ tự tử ngay. Vừa nghe thế vị bác sỹ mở ngăn kéo lôi ra một con dao rồi quay chiếc cán lại trao cho anh ta. Ông nói tiếp: “Muốn chết thì anh làm ơn ra ngoài hành lang, đừng đứng trong phòng tôi làm rối lên như thế.”

Vào thời điểm này những sự kiện như thế khiến tôi thấy buồn cười. Trong tận cùng sâu thẳm của tâm hồn, có lúc người ta cũng tìm thấy sự khôi hài và không thể nào nhịn cười được. Đó là cách duy nhất để sống qua ngày.

Khi trở về xà lim tôi định kể cho Paul nghe những gì vừa chứng kiến ở bệnh xá nhưng không tìm thấy anh ta đâu cả. Sau một lúc dọ hỏi tôi được biết Paul bị bọn lính dẫn đi rồi, bị đưa sang Lard Yao và vĩnh viễn ở tại đó. Nghe tin này tôi rụng rời tay chân. Kể từ khi cùng leo lên máy bay ở phi trường Sydney, chừng đó năm hai chúng tôi chưa bao giờ rời nhau. Đối với tôi, Paul được xem như một người anh và chúng tôi gần gũi nhau nhiều hơn đa số những người khác gặp nhau trong suốt cuộc đời họ.

Tôi không thể hình dung rằng tôi sẽ chẳng bao giờ gặp lại Paul ở Thái Lan nữa. Mãi mãi không…!

Ngày 20 tháng 12 năm 1986

Tôi nhớ Paul quá đi mất. Tôi hy vọng anh vẫn ổn. Paul Hayward là một thành viên thân cận trong hoàn cảnh này và hơn thế nữa, anh là người bạn thân nhất của tôi. Tôi thương anh và nhớ anh khủng khiếp. Tôi cầu mong anh vẫn còn ở tại đây với tôi. Bây giờ thì chúng tôi bị tách rời nhau - anh đã bị chuyển sang nhà tù Klong Prem. Chúng tôi đã nằm trong tù với nhau 8 năm rồi, đã trải qua biết bao điều, những điều mà những người khác chưa bao giờ trải qua. Tôi cho là tình bạn của chúng tôi không có gì so sánh được vì chúng tôi hiểu những điều thầm kín trong lòng nhau và biết tất cả những ý nghĩ của nhau. Lòng tôi đau như thắt.

Ở Bang Kwang có một trại nuôi heo. Những con heo này còn mập mạp hơn cả tù nhân. Chúng nó được cho ăn những thứ tương tự như cho chúng tôi, nhưng rõ ràng chúng còn có thêm một khẩu phần nữa.

Những anh tù Thái làm việc cho trại heo lãnh một món tiền lương rất tội nghiệp, nhưng họ đã biết cách kiếm thêm lợi nhuận…

Nhiều người hỏi tôi về vấn đề tình dục ở Bang Kwang. Ở đây chuyện tình dục và cưỡng dâm xảy ra thường xuyên cũng giống như ở nhiều trại tù bên Tây phương vậy thôi. Tôi phải nói rằng không hẳn như thế vì người Thái không dễ tha thứ chuyện đồng tính luyến ái. Nếu các nhà chức trách ở đây biết được anh nào đồng tính thì họ cho tập trung lại thành từng nhóm nhỏ. Dĩ nhiên, những chuyện ‘giải lao lãng mạn’ này không thể nào tự nhiên trong một nhà tù chật cứng người được.

Ngày 20 tháng 2 năm 1988

Hôm nay là lễ Makha Bucha, tôi chẳng biết là ngày lễ gì, chỉ thấy mọi nơi đều đóng cửa: không bệnh xá, không viếng thăm, không có cái ‘quái’ gì hết. Mọi thứ đều ngừng lại. Cái xứ sở này có quá nhiều những ngày quốc lễ quái quỷ như thế nhưng chẳng có gì hay ho. Đối với tôi ngày nào cũng như ngày nào, cũng chỉ thêm một ngày thật phí phạm trong đời mình thôi.

Thỉnh thoảng Lãnh sự quán có gửi cho chúng tôi vài tờ tạp chí để đọc. Phần nhiều là báo ‘Phụ Nữ hàng tuần’ hay một thứ gì đại loại thế. Thật thú vị khi được nhìn thấy những gì từ thế giới bên ngoài, nhưng đọc không sướng ích gì cả vì các tạp chí này đã qua tay nhiều tên lính rồi mới đến chúng tôi và hơn nữa, những tấm ảnh đáng xem trong đó đã bị chúng cắt đi mất, những tấm ảnh mà chúng nghĩ có thể gợi cho chúng tôi liên tưởng đến một khẩu súng, một chiếc trực thăng hay câu chuyện của một nhân vật nào đó… Đôi khi, chúng chỉ cắt những tấm hình mà chúng cho là sẽ gợi trong đám chúng tôi nhiều sự thích thú. Chẳng hạn mục thời trang phụ nữ bao giờ cũng còn lại lỗ hổng. Chúng tôi được đọc mẩu chuyện về một nữ diễn viên trẻ đẹp đang lên đến đỉnh cao của sự thành đạt nhưng tiếc thay bức ảnh của cô ta không còn trên trang đó nữa.

Có lần, một cô gái đến thăm và mang cho tôi tờ tạp chí Playboy hay Penthouse gì đó. Ngày hôm đó gặp được một tên lính tốt bụng nên chúng tôi đề nghị biếu anh ta vài gói thuốc lá để được chuồn tờ báo vào trong.

Loại tạp chí này tôi đã từng thấy và từng đọc, nhưng đó là nhiều năm về trước và bây giờ trong thời gian tôi ngồi tù thì cái đạo đức bên ngoài rõ ràng đã thay đổi. Những phụ nữ trong tạp chí này không những đẹp một cách sửng sốt mà tư thế đứng ngồi của họ gây ấn tượng không thể chịu nổi. Suốt mấy ngày sau đó tờ tạp chí được luân chuyển qua hết khu trại của tôi như một tác phẩm bán chạy nhất mà mấy anh tù đã phải thi nhau trả tiền mới mượn được. Họ không thể tin phụ nữ phương Tây đẹp mê hồn lại chịu ‘phô trương’ thân thể cho mọi người xem như trong quyển tạp chí này. Nhưng đáng buồn thay ‘quyển sách’ cuối cùng tan nát dưới tay của những tên lính! Thật sự, bọn chúng chẳng cố tình hủy hoại mà vì nó đã được sử dụng quá nhiều.

Một buổi chiều nọ, một cô gái đến thăm tôi. Trong lúc trò chuyện cô ta đột nhiên hỏi tôi lần cuối cùng tôi làm tình là khi nào. Tôi trả lời cách đây cũng nhiều năm. Cô ta bảo ước gì có thể đưa tôi ra ngoài ngay bây giờ. Cũng đã khá lâu mới có một người nói với tôi chuyện đại loại như thế, tôi thật sự phân vân chẳng hiểu cô ta có ý gì.

Đến gần cuối buổi cô ta khoe với tôi là trên người mình có một hình xăm và hỏi tôi có muốn xem không. Tôi gật đầu hưởng ứng. Nói xong cô ta vén áo lên để lộ một hình xăm nhỏ bên hông rồi lại ngồi xuống và tiếp tục câu chuyện, làm như không biết rằng tôi đang ngồi trên đống lửa sau khi trông thấy cái hình xăm đó. Hình ảnh chiếc hông của cô ta cứ lởn vởn trong đầu đến khi không thể nào cưỡng được, tôi bèn xin cô ta cho tôi xem cái hình xăm lần nữa với mục đích nghiên cứu. Miệng tôi lúng búng rằng rất thích loại nghệ thuật đó. Cô ta đứng dậy vén áo lên một lần nữa. Tôi ngồi ngắm như trời trồng, giả vờ nghiên cứu từng chi tiết của nét vẽ. Trong khi đó sau lưng tôi cũng có một đám lính đứng bu xung quanh xem. Cho đến ngày hôm nay khi nhớ lại tôi chẳng biết cái hình đó mô tả cái quái quỷ gì nữa.

Có nhiều người đàn bà biết cách kích thích dục tính của cánh đàn ông trong hoàn cảnh éo le. Chẳng hạn có lần một cô đề nghị muốn bán cái quần lót của mình với giá 500 Baht, một anh tù sướng rơn bỏ tiền ra mua và nhờ một tên lính mang vào cho anh ta. Tin này lan rất nhanh trong khu thăm nuôi và chỉ ít phút sau cô gái này đã ngồi trước mặt 20 tù nhân kể cho họ nghe những câu chuyện dựng đứng hết sức kỳ quặc. Thấy thế, mấy tên lính bèn tẩu tán chiếc quần của cô ta. Chúng không hiểu nổi tại sao lại có người khoái nhìn quần lót phụ nữ, trong khi chúng chỉ thích xem ‘quyển sách’ đó của tôi thôi.

Tù nhân nào có phẩm chất tốt thì được rất nhiều đặc ân, như John, người Úc. Anh được phép tự xây một căn nhà cho mình trong khu công cộng. Anh đã dùng những phế liệu và các mảnh gỗ mua lại của mấy người Thái. Đúng là một kiệt tác. Bruce, cũng người Úc, cái anh chàng đã từ chối không chịu bò qua đống phân sau vụ nổi loạn, nổi tiếng thích mèo. Ở đây mèo vô số kể. Anh ta cho ăn và nâng niu chúng nên mỗi lần anh đi loanh quanh trong trại là chúng bu theo. Anh như người nuôi chim trong cung điện Tây Ban Nha, nhưng chỉ thích mèo thôi. Một hôm có chú mèo đẻ ra một lô mèo con, nhà chức trách cho phép anh giữ chúng trong xà lim của mình để chăm sóc. Anh ta đặt chiếc hộp nhỏ ở góc phòng làm ổ cho chúng. Đương nhiên làm sao chúng có thể tồn tại trong một nơi như nơi này được. Cuối cùng chỉ còn một con sống sót. Bruce quyết tâm giữ chú mèo này nên canh chừng nó ngày đêm. Anh ta đặt nó lên hai bàn tay, nâng niu và ăn cùng với nó, đùa giỡn với nó bên ngoài sân trại. Anh tắm rửa và chia khẩu phần của mình cho nó. Một anh chàng bất trị lại cưng một chú mèo con như con đẻ của mình trong một khung cảnh bẩn thỉu và tồi tệ của Bang Kwang này! Thật là một hiện tượng chẳng bình thường tí nào. Nhưng mọi người hiểu sự gắn bó giữa anh và chú mèo: Ở một nơi như nơi đây thì bất cứ cái gì mang đến niềm vui cho bạn cũng trở thành một điểm tập trung rất quan trọng trong cuộc đời mình. Có một sinh vật nhỏ bé dựa dẫm vào mình để sống và ngược lại mình lo toan, chăm sóc với cả tình thương thật không có gì hơn. Trừ phi đó là một giấc mơ. Chúng tôi ghen tỵ với Bruce.

Sau một thời gian, chú mèo lớn lên. Bruce phải đem nó ra ngoài để mọi người cho nó thêm những gì nó cần. Một hôm nó nhận được một gói quà trong đó toàn các hộp thức ăn cho mèo. Vài anh buồn về việc này và so sánh chú mèo của Bruce ăn còn ngon hơn họ. Nhưng Bruce cảnh báo rằng thực phẩm đó chỉ dành cho mèo, nếu ai ăn cắp thì anh sẽ xử lý ngay.

Một hôm Bruce để chú mèo ngủ trong cái hộp gỗ ở góc phòng, anh ta đi bệnh xá vì nơi đây cấm không cho bất kỳ một con vật nào vào. Khi trở về, anh thấy có vài tên Thái đang ngồi trong phòng nhìn anh mỉm cười. Linh cảm điều chẳng lành, anh đi tìm chiếc hộp nhưng không thấy chú mèo đâu cả. Thì ra nó đã bị treo lủng lẳng ở cái then trên tường. Sợi dây buộc quanh cổ nó chặt đến nỗi lưỡi nó thè ra, hai mắt nhắm nghiền và xoắn lại vì quá đau đớn. Cảnh tượng này khiến Bruce bị sốc mạnh và anh xỉu ngay tại chỗ. Mấy tên Thái cắt dây treo mang chú mèo ra lột da và nuốt sạch chỉ còn trơ lại bộ xương.

Từ đó, Bruce chẳng tiếp xúc với một ai vì không sao quên được sự việc đau lòng xảy ra ngày hôm đó. Cuối cùng Bruce cũng được thả và trở về nhà ở Melbourne. Tôi viết cho anh mấy lá thư nhưng không thấy hồi âm. Sau đó tôi nhận được một lá thư do mẹ anh viết. Bà cho hay là từ ngày Bruce trở về, thời gian đầu anh có vẻ thích nghi với hoàn cảnh hiện tại và rồi hầu như quen dần với đời sống trước đây. Anh ta rất ít nhắc đến Bang Kwang, và bà hiểu rằng anh đã muốn quên hẳn nó đi. Nhưng một hôm, sau khi ra một cửa hiệu ở góc phố trở về, trông anh có vẻ nhợt nhạt và phiền muộn. Bà hỏi có việc gì, Bruce chỉ lặng thinh rồi thong thả lui vào phòng ngủ của mình khóa cửa lại và không chịu ra ngoài đến mấy tuần sau đó. Lá thư này mẹ Bruce viết cho tôi gần sáu tháng sau ngày sự việc đó xảy ra. Bà ta còn nói bắt đầu từ hôm ấy Bruce không hề thốt ra lời nào nữa cả.

Ngày 4 tháng 4 năm 1988

Bị biệt giam. Thân xác bị cách ly nhưng đầu óc và tâm hồn tôi vẫn tự do. Không ai có thể giam cầm tư duy và ước muốn của mình được. Tính đến tháng 10 này tôi ngồi tù được 10 năm. Một thập niên!

Người ta ít biết hay không để ý, tôi đói lắm, rất rất đói. Đói trong suốt 10 năm. Tôi mơ đến các món ăn. Ồ, Chúa ơi, tôi ao ước được ăn lại những bữa cơm tươm tất. Năm ngày nay tôi không có gì để ăn, ngoại trừ nước, nước sông. Tôi hình dung ra, nước của con sông màu nâu đỏ quạch toàn bùn đang chảy bên ngoài khu trại.

Có biết bao điều để tôi kể lại. Lạy Chúa, xin Người gìn giữ và ban phước cho con sống để con kể lại những chuyện đã trải qua. Vì bấy giờ chỉ có Chúa mới biết tôi đã chịu đựng như thế nào thôi. Nghĩ đến ngày nay, vào thời đại này, con người với kỹ thuật tiên tiến mà còn cho phép những nơi như nơi này: chiếc đồng hồ phát triển dừng lại. Tôi phải tồn tại, tôi phải ra khỏi đây để kể cho toàn thế giới biết hết những gì đang xảy ra ở trong này. Và xin Chúa thương xót, vì có Chúa mới ban ân huệ cho tôi. Tất cả những gì tôi trải qua đều theo ý Chúa. Nó phải có một ý nghĩa to lớn hơn nhiều. Sớm muộn gì thế giới cũng sẽ biết. Đội ơn Chúa con vẫn còn biết yêu.

Những con rệp làm tôi phát điên lên.

Rồi một buổi sáng, một tên lính đến mở cửa và bảo tôi thu vén đồ đạc vì trong một tiếng nữa sẽ được thả. Tôi không thể tin được. Song tôi cũng bị dao động bởi ý nghĩ cuối cùng rồi cơn ác mộng cũng phải tan đi nên cảm thấy mình yếu hơn và người hơi choáng váng. Tôi cuộn giường lại và ngồi lên, nghĩ xem mình sẽ làm gì trong vài ngày tới. Mải theo đuổi những ý nghĩ đó đến nỗi hơn một tiếng đồng hồ trôi qua từ khi nghe tin được thả mà không để ý. Lại thêm một giờ nữa, tôi vẫn ngồi và chờ đợi.

Cuối cùng tên lính trở lại, trên mặt hắn thoáng hiện nụ cười hiểm ác. Thoạt đầu tôi cứ ngỡ đó là nụ cười từ biệt bình thường mà tên lính này dành cho những người sắp ra trại. Trong suốt thời gian ở đây tôi không hề có cảm tình với hắn, nhưng hôm nay tôi lại thấy hắn thật dễ thương và nghĩ sẽ để cho hắn lấy bất kỳ đồ dùng gì của tôi mà hắn thích. Chỉ một lúc sau thôi, tôi mới biết mình đã bị lừa. Thì ra hắn muốn hủy hoại một ngày của tôi bằng cách đưa ra cái tin giả là tôi sắp thoát khỏi đây. Thật vậy, tôi sẽ không được thả ngày hôm nay hoặc một ngày nào được dự đoán trong tương lai cả…

Tôi bước ra sân ngồi xuống đó nhìn những người xung quanh, họ cũng như tôi không có cái gì tồn tại trong lòng ngoại trừ nỗi sợ chết.

Ngày 15 tháng 6 năm 1988

Hôm nay cùng đi với phái đoàn Lãnh sự Úc có bác sỹ Brody. Ông này sau khi khám bệnh đã bảo rằng ngoại trừ những tuyến quanh cổ có vấn đề thì tôi vẫn khỏe mạnh cho dù ở bất cứ hoàn cảnh nào.

Bao nhiêu năm rồi tôi như bị vây hãm trong cơn điên loạn. Có lẽ đôi khi bạn cũng thấy trên đường cái một người mất trí và hẳn bạn sẽ nghĩ đó là cái gì còn rất mới mẻ. Ở nơi này người đông lúc nhúc, họ là hàng xóm của tôi mà hàng ngày tôi đều phải tiếp xúc.

Hôm nọ một anh người Đức, không ai khích động và cũng không ai mời mọc, tự dưng nhảy cỡn lên tuyên bố rằng Hitler là một bậc kỳ tài, rằng cách giải quyết cuối cùng là một ý tưởng rất hay và Đức không thắng trong Thế Chiến II thật đáng tiếc vô cùng. Mấy anh Thái đứng nhìn hoang mang - ở Thái Lan không có nhiều người lai Do Thái cho nên họ không hề biết Hitler là ai. Thấy chẳng ai phản ứng gì, anh Đức nản lòng bèn gào to lên rằng tất cả các bạn sẽ biết tôi đang nói về cái gì khi Reich Đệ Tứ xuất hiện… Tiếp sau đó anh ta đi vòng quanh trại, chân đưa thẳng về phía trước, đầu gối không gập lại, kiểu đi của sĩ quan Gestapo. Anh Úc thấy thế cũng hét lại: Ê, Adolf! Tiếng la càng dụ anh Đức vào trạng thái kích động mãnh liệt. Anh ta bắt đầu chào và hét tướng lên: ‘Sieg Heil!’. Chàng Úc bước thẳng tới đấm vào mũi anh Đức, mạnh đến độ mũi anh ta tét làm đôi, một nửa chiếc mũi đong đưa trên mặt, anh ta ngã nhào xuống đất.

Có đêm nghe anh tù người Thụy Sỹ khóc nức nở, tôi bước sang hỏi chuyện thì anh bảo rằng chỉ muốn chết ngay, vì không thể chịu đựng thêm một ngày nào trong chốn này nữa. Khi tôi hỏi anh bị kết án bao lâu, anh trả lời còn sáu tháng nữa mới được thả ra. Tôi khuyên anh đừng có điên mà hãy cố gắng chờ thêm một thời gian ngắn nữa thôi. Riêng tôi, tôi phải chờ đến 20 năm cơ đấy!

Một lúc sau kể cũng khá khuya rồi, tôi tỉnh dậy thấy anh ta nằm im bất động. Tôi lay anh thì mới biết anh ta sắp chết vì đã uống thuốc quá liều. Tôi gọi lính gác và yêu cầu họ mang anh ta sang bệnh xá ngay nhưng chúng mở cửa xà lim lôi anh ra rồi vứt anh nằm đó, bỏ đi. Tôi đứng lặng, nhìn anh ta tắt thở.

Một buổi sáng, một tên lính gác đến bảo tôi dọn sang khu khác trong nhà tù, khu 7/1. Khu này dành cho những tù nhân nước ngoài mắc bệnh truyền nhiễm. Rõ ràng sau khi xét nghiệm tôi được cho biết là đã mắc chứng viêm gan. Như vậy tôi sẽ chôn cả đời mình trong đây, khu 7/1 của Bang Kwang.

Ngày 22 tháng 3 năm 1989

Phái đoàn Lãnh sự Mỹ hôm nay đến đây mang tin vui cho David. Anh ta sẽ được về lại với gia đình ở New York vào giữa tháng tới. Chúng tôi sẽ không để mất liên lạc. Tôi hy vọng sẽ được gặp nhau ở bên ngoài…

Một đêm tôi nằm mơ thấy tiếng người nói lao xao. Họ nói bằng một giọng thật lạ lùng, âm thanh cao vút, cao và to đến độ đánh thức tôi dậy. Nhưng tiếng nói đó không dứt. Khi mở bừng mắt ra tôi thấy phía trên người tôi có ba sinh vật nhỏ xíu, gớm ghiếc nhưng tôi không thể nào mô tả được. Chúng chằm chằm nhìn tôi làm tôi cảm thấy muốn điên lên được. Miệng chúng cứ nhấp nháy nhưng lại không ăn khớp với giọng nói. Tôi không thể nhận ra cái gì đang nói, nhưng đúng là tôi nghe rõ hai chữ ‘chuẩn bị’.

Tôi nhắm nghiền mắt, hy vọng rằng mình còn đang tỉnh táo, để cho những hình ảnh cùng giọng nói đó biến đi.

Nhưng khi tôi mở mắt ra lần nữa thì những sinh vật đó đến gần tôi hơn và chúng đang hạ xuống đậu trên mình tôi. Tôi lại nhắm mắt lần nữa và sau khi mở mắt ra, mấy con vật đó đã biến mất. Mọi vật xung quanh trở nên yên tĩnh. Lúc đó tôi cho rằng mình sắp điên đến nơi rồi. Ngay lúc bấy giờ, một anh Thái đến chạm nhẹ lên vai tôi nói rằng lúc đang ngồi cầu kinh ở góc phòng, anh ngẩng đầu lên thì thấy hình dáng của ba vị Phật đang lượn trên người tôi. Anh ta còn bảo các vị Phật đó đến đây để bảo vệ tôi, vậy tôi đừng sợ gì cả. Nói xong anh ta trở lại góc phòng cầu nguyện tiếp.

Tôi không ngủ lại được, nằm đó cố tìm hiểu xem thế giới này điên hay tôi điên. Không, tôi không điên.

Ngày 7 tháng 4 năm 1989

Ngày hôm nay Paul được ra trại. Tôi không biết anh có cảm giác gì khi trở về với gia đình sau 11 năm tù đày. Mười một năm! Lẽ ra anh không phải ở tù lâu như thế - thật là bất công. Đáng lý ra tôi phải ở tù thay cho anh vì tôi đã làm nhiều việc sai trái hơn Paul. Đối với anh, đây chỉ mới là lần đầu tiên, cho nên anh chỉ đáng lãnh hai năm là cùng. Tôi hy vọng lúc trở về anh sẽ đương đầu được với mọi thứ.

Paul bị thúc ép rời Lard Yao vào lúc 2 giờ sáng. Lòng tôi tràn ngập niềm vui, nhưng đồng thời không khỏi lo lắng vì không biết anh sẽ gặp phải những điều gì khi trở về nhà. Một nhà báo rất có cảm tình với Paul nhưng cũng chẳng có cách nào để bênh vực hành động của anh. Anh ta viết một câu chuyện, kể về một nhân vật có đủ mọi thứ nhưng đã bị hủy hoại hết vì một sai lầm bi thảm không bỏ qua được. Sau khi câu chuyện được đăng ra, tòa báo nhận được rất nhiều thư từ các nơi gửi đến. Nhiều lá thư bày tỏ sự thông cảm, nhưng một nửa số đó thì lại nguyền rủa và chỉ trích tờ báo đã để phí phạm giấy cho một tên tội phạm. Họ kết tội Paul đã làm gương xấu cho bọn trẻ và còn phán rằng lẽ ra anh nên bị treo cổ.

Paul sẽ phải đương đầu với việc này khi trở về Úc, và tôi không biết anh sẽ ứng phó ra sao. Nếu cả hai chúng tôi đều cùng được thả ra một lượt thì có thể ổn hơn. Chúng tôi sẽ là một khối có đủ sức để chống lại với những kẻ muốn tấn công cũng như lúc chúng tôi còn ở trong tù. Bây giờ một mình đơn độc, một trong hai đứa sao mạnh mẽ bằng trước đây!

Lần cuối cùng tôi nhớ có vài chuyện buồn cười xảy ra ở Bang Kwang. Một nhóm chúng tôi góp vốn lại để làm rượu. Một anh đưa ra kế hoạch nấu rượu từ quả thơm. Anh khác thì kiếm được những cái lon nhôm và chai nhựa ở bãi rác. Chúng tôi phải hối lộ cho mấy tên lính để chúng lờ đi mấy cái lon xếp trong góc phòng có chứa chất lỏng đang lên men.

Rồi một hôm chúng tôi được báo sắp có phái đoàn gồm các chức sắc cao cấp Thái đến thanh tra. Giám đốc trại cảnh báo chúng tôi phải cư xử làm sao cho phải phép trong thời gian họ viếng thăm. Ông ta nói, chúng tôi là những người đại diện cho ông ta, vậy nếu chúng tôi tỏ ra lịch sự với họ thì sẽ được khen thưởng.

Trước giờ thanh tra đến, chúng tôi tìm cách ngụy trang các lon rượu, càng khéo càng tốt. Chúng tôi lấy xà rông phủ lên chúng để có ai nhìn vào sẽ nghĩ chỗ đó chỉ là một chiếc bàn hay chiếc ghế nhỏ mà thôi. Khi phái đoàn đến, chúng tôi tất cả bước ra khỏi cửa xà lim và đứng xếp thành hàng dài như cuộc diễu hành của học sinh. Viên giám đốc cùng với đoàn thanh tra trong những bộ đồng phục nhà binh sạch sẽ tiến về phía chúng tôi. Ông ta giới thiệu với phái đoàn chúng tôi là những anh chàng ngoại quốc có ý thức kỷ luật tốt nhất trong trại.

Rõ ràng họ có ấn tượng rất tốt với căn phòng sạch sẽ của chúng tôi nên một trong các viên chức cao cấp nhất bước vào và nhìn quanh. Giám đốc trại bước theo sau có vẻ lo lắng vì ông có lẽ đã nhìn thấy cái vật đang được ngụy trang kia. Bất thình lình, như thể một hành động của Chúa, ngay trong góc phòng một tiếng nổ phát ra từ một lon rượu đang cất. Còn kinh hoàng hơn nữa, kèm theo tiếng nổ là một chất lỏng sền sệt, vàng óng văng tung tóe khắp người viên quản lý trại và lên những bộ quần áo không một tì vết đó.

Thậm chí đến những viên chức khắc khổ người Thái cũng không thể nhịn cười vì sự ngớ ngẩn trong cách tính giờ của Chúa. Đó là điều cuối cùng làm cho tôi cười khi còn ở Bang Kwang, rồi tiếp sau đó là một chuỗi những nỗi buồn cô đặc lặp đi lặp lại khiến tôi hầu như muốn ném tuốt hết khỏi tâm trí mình mọi cảm xúc.

Vào giữa năm 1989, tôi bắt đầu cảm thấy thoải mái trong cái thế giới ghê tởm của Bang Kwang. Đúng vậy, tôi đã thích nghi với môi trường điên loạn này rồi và nghĩ rằng chỉ có sự dung thứ mới có thể giữ lại được tình bằng hữu. Đó là lần đầu tiên từ khi bước chân đến Bangkok, tôi thấy mình có thể tồn tại.

Những sức mạnh đã ngự trị cuộc đời tôi suốt mười năm qua hẳn đã ý thức cái cảm giác này của tôi từ một nơi nào đó trong vũ trụ và bây giờ những sức mạnh đó trỗi dậy rồi đây.

Leo Odems, một anh Mỹ đen rất to con, đã trở thành bạn của Ronald, David, Gary và tôi. Leo tràn trề sức sống nên không ai nghĩ rằng anh ta có thể bị ngục tù này làm cho biến mất được. Những tên lính rất thích anh ta. Khi còn ở khun deo, chúng nó thường hay bảo anh cười cho chúng xem. Leo đen đến độ không ai nhận ra anh trong bóng tối. Do đó, mỗi lần toét miệng cười, hàm răng anh trắng nhởn nổi bật trong bóng tối mới khiến người ta nhận ra anh.

Leo và tôi rất thân nhau. Tôi biết anh sẽ mãn hạn tù trước nên đã cho anh địa chỉ của tôi ở New York; anh bảo là sẽ không bao giờ để mất nó vì khi nào tôi ra khỏi đây thì chúng tôi sẽ gặp nhau và sẽ làm lại cuộc đời mà chúng tôi đã phung phí. Tưởng tượng đến cảnh gặp lại Leo ở Mỹ, tự dưng tôi thấy vui vì đã đến đây, đến Bang Kwang này, và gặp được anh. Rồi một đêm Leo sử dụng quá liều heroin, chúng tôi làm đủ mọi cách cho anh tỉnh: vỗ khắp người, đánh thức, và đi tìm bác sỹ cho anh. Thời gian còn lại chỉ đủ để cứu mạng sống của anh thôi. Nhưng không còn kịp nữa, Leo đã rơi vào tình trạng hôn mê và bắt đầu xuất huyết. Anh khóc trên tay tôi, van tôi đừng để anh chết. Tất cả đều quá muộn, ngay lúc bấy giờ anh tắt thở.

Ngày 5 tháng 5 năm 1989

Tòa Lãnh sự báo cho tôi hay tôi nằm trong danh sách đầu tiên trong lệnh tha của nhà vua… Tôi và David bị nhốt chung một phòng đủ rộng cho một người, nhưng khi David về trước thì chỉ còn lại có mỗi mình tôi.

Ngày 8 tháng 5 năm 1989

David được thả đúng 4 giờ chiều ngày hôm nay.

Ngày 13 tháng 5 năm 1989

Bây giờ chỉ còn có ba chúng tôi trong khu này: tôi, Ronald Burnett và Christian Gippett. David về nhà hôm thứ Hai. Ba chúng tôi ăn chung với nhau - trước đó chúng tôi ăn riêng. Cảm giác này thật dễ chịu.

Tôi biết Ronald Burnett trước đây là một lính Mỹ đã từng tham chiến ở Việt Nam. Trong lúc anh và trung đội của anh trườn qua giao thông hào thì một quả súng cối rơi xuống nổ tung giết chết tất cả trừ anh. Ronald bị thương trầm trọng trong vụ đó và được đưa sang Nhật để điều trị, trong mấy tháng liền anh nằm trên giường, tiều tụy và thẫn thờ đến nỗi không biết mình đang ở đâu. Trong thời gian này người ta phải chích morphin giảm đau cho anh nên khi trở lại Mỹ anh rất ghiền morphin. Đã một thời gian anh cố gắng chống chọi lại cơn ghiền này, nhưng cuối cùng nó mạnh hơn. Không thể nào tìm mua morphin dễ dàng, anh quay ra cái thứ thay thế sẵn sàng hơn là heroin.

Vì quá ghiền heroin nên anh đã lặn lội sang Thái Lan để mua cho rẻ. Anh bị bắt với một số lượng thuốc khá lớn và đó là nguyên nhân anh bước vào nhà tù Bang Kwang.

Chúng tôi rất thân với nhau, và sau đó anh được trả tự do.

Ngày 13 tháng 9 năm 1989

Hôm nay là sinh nhật thứ 36 của tôi. Tôi vào tù lúc mới có 25 tuổi. Thời gian thật quá dài; tôi đã phung phí hết tuổi thanh xuân của mình trong cái địa ngục này.

Tôi đã biết Christian khi còn nằm trong bộ phận chính của trại, nhưng sau này chúng tôi là hai người ngoại quốc cuối cùng còn lại ở đây nên tôi hiểu rõ về anh ta hơn.

Christian là người Pháp, đã từng vào tù ra tội khắp nơi trên thế giới chỉ vì nghiện ma túy quá nặng. Nhưng Lãnh sự Pháp ở Thái Lan rất quan tâm chăm sóc người bản xứ của họ; do đó, Christian thường xuyên được cung cấp thuốc men và thực phẩm đầy đủ. Những thứ này Christian hay chia sớt cho tôi. Một hôm tòa Lãnh sự gửi cho anh 100 viên Rohypnol, loại thuốc được xem là hợp pháp mà Christian rất thích. Anh ta thật hào phóng đem ra chia cho tôi, bảo với tôi rằng ngày hôm nay anh còn một nguồn cung cấp thuốc từ một nơi khác nữa. Christian đã thông đồng với một anh Thái chuyển heroin vào trại bằng cách nhét những gói nhỏ vào ruột heo. Việc cung cấp kiểu này không gây sự nghi ngờ ở bọn lính vì Christian thường xuyên nhận những gói thực phẩm từ nước ngoài đưa vào.

Chiều hôm đó, khi gói hàng được mang đến, Christian lui về xà lim của mình để tháo những gói heroin, nhưng những gói này bị bung ra và heroin đã trộn lẫn với máu và các chất nhầy trong ruột heo rồi. Tối hôm đó, tôi nhận thấy anh thất vọng rõ rệt vì đang cần thuốc kinh khủng. Thấy thế tôi đề nghị anh hãy uống đỡ ít Rohypnol và đi ngủ để sáng hôm sau tính chuyện khác. Trước khi trở về phòng, anh để lại trên giường tôi một số lượng lớn Rohypnol. Không có heroin lẽ ra anh phải cần những viên thuốc này trong vài tuần sau đó. Nhưng sáng hôm sau lính canh đến lay tôi dậy và báo là có điều không ổn đã xảy đến cho Christian. Tôi chạy vội sang phòng anh, thấy Christian nằm đó, trên cánh tay lòi ra cây kim tiêm, bên cạnh là một gói nhỏ đã lấy ra từ ruột heo. Như vậy có nghĩa là Christian đã chích hết chất nhờn vào tay anh với hy vọng vớt vát chút heroin hòa tan trong đó. Tôi nâng anh ngồi dậy, lay cho anh tỉnh và van xin anh đừng chết. Máu trong tai anh túa ra như thể nó đã bị ứ đọng lâu ngày. Người anh bắt đầu lạnh và cứng đơ. Nhưng tôi không thể để anh đi, tôi cứ lay anh và miệng cứ xin anh đừng chết… Tôi ngẩng đầu kêu Trời và hỏi xem Người còn muốn cho tôi chứng kiến những điều vô nghĩa như thế này đến bao giờ nữa. “Đến bao giờ nữa, hỡi Thượng đế”, tôi gào lên thống thiết. Tên lính canh bắt đầu khóc nức nở.

Ngày 21 tháng 9 năm 1989

Xác của Christian nằm đó khi họ mở cửa xà lim. Xuất huyết não. Người ta phải bẻ xương mới kéo được anh ra khỏi phòng… Ôi, làm ơn, hãy cho năm này là năm cuối cùng của tôi. Tôi không thể chịu đựng thêm nữa. Tôi thực sự bắt đầu mòn mỏi.

Sau cái chết của Christian, tôi bỏ thuốc. Tinh thần bị hủy hoại đến mức tôi hầu như không còn cảm nhận được mình đang cai nghiện. Sự thống khổ mà thế giới này đã ban phát cho tôi quá lớn. Sự ân xá của nhà vua bây giờ xem như không có khả năng xảy ra, và tôi cũng chẳng hề nghe nhân viên lãnh sự đề cập tới nữa. Nếu sự ân xá này bị hủy bỏ thì tôi sẽ phải đợi thêm bốn năm nữa lệnh này mới được áp dụng lại. Tôi bắt đầu nhận ra một khả năng rất thật rằng tôi sẽ chết trong tù thôi và ý tưởng đó khiến tôi bị dao động khủng khiếp giữa nỗi sợ hãi không thể chịu được và sự mâu thuẫn hoàn toàn trong tư tưởng, chẳng có chỗ đứng trung gian giữa hai trạng thái tinh thần này. Tôi không thể tin được tôi đang đến gần với cái chết. Mà thật sự tôi đã chết rồi còn gì. Một ‘khối thịt’ tình cờ biết suy nghĩ!

Ngày 25 tháng 12 năm 1989

Hôm nay là lễ Giáng sinh - Giáng sinh lần thứ 12 tôi ở nơi đây. Tuyệt đối không thật chút nào. Có lẽ họ sẽ giam tôi tròn 33 năm và bốn tháng… Không một tin gì về lệnh ân xá. Có thể phải mất thêm ba đến sáu tháng nữa. Người ta bảo với tôi hồi cuối tháng 9 rằng lệnh ân xá của tôi còn nằm trong Hoàng Cung. Tôi đang hy vọng được ra khỏi đây ngay bây giờ. Rồi sau đó một lần nữa, tôi nghĩ lệnh ấy có thể bị khước từ.