Chương III Bằng cấp ám sát
Loạt đạn đầu tiên vèo qua cửa xe làm kiếng chắn gió vỡ nát. Văn Bình ngửi thấy mùi khét trên đầu. Chắc hẳn một viên đạn vừa xẹt qua tóc thiêu lụi một mảng.
Nghe tiếng đạn réo, Văn Bình biết ngay địch núp bên kia đường bắn tréo sang kiểu chặn đầu. Tiếng nổ chíu chíu chứng tỏ địch xử dụng tiểu liên AK-47. Bằng phản ứng thần tốc, Văn Bình đạp lút ga xăng. Khi động dụng, chiếc Mazda đua động cơ Wankel không thua những thần mã cơ khí quốc tế như Porche, Ferrari tuy nó sinh sau đẻ muộn. Nó vọt lên phía trước, bốn vỏ lốp ni-lông không ruột như nhảy khỏi mặt đường nhựa và bay lên không trung. Đồng thời với việc gia tăng tốc độ tối đa, Văn Bình lại chiềng vô-lăng sang bên phải để tránh lằn đạn đón đầu tiếp tục nổ ròn của địch.
Những tiếng chíu chíu vẫn không ngừng song chiếc Mazda đã biến mất trong sương đêm. Núp ở băng sau, Ximai lồm cồm bò dậy:
-Suýt nữa thì chết…Anh lái giỏi quá!
Cô gái Thái bắt đầu gọi Văn Bình bằng tiếng « anh » thân mật. Tuy nhiên, chàng không để ý vì chàng còn bận điều khiển tay lái trong khi chiếc xe đua chạy với tốc độ 170 cây số giờ, một mắt nhìn qua kiếng chắn gió vỡ nát để theo dõi con đường lấp loáng ánh sáng phía trước, mắt kia phải dán vào kiếng chiếu hậu để quan sát đàng sau.
Đến khi biết chắc địch không đuổi theo kịp, Văn Bình mới giảm tốc độ. Chàng chạy loanh quanh một hồi rồi đậu lại gần tòa nhà 5 tầng, tổng hành doanh chìm của CIA Đông Nam Á.
Đại tá Pit bước lại cổng sắt, đặt ngón tay vào nút chuông điện. Trong đêm tối vắng vẻ, tiếng chuông reo reng reng nghe rợn tóc gáy.
Một khung cửa tròn nhỏ trên tường được mở ra để lộ cặp mắt xanh lè của một người đàn ông tây phương:
-Đây là trụ sở công ty xuất nhập cảng Liên Á. Giờ này văn phòng không làm việc. Các ông hỏi ai?
Đại tá Pit sẵng giọng:
-Tôi đến đây hồi chiều, anh quên mặt rồi ư? Nói với ông Cônby là có đại tá Pit.
Gã nhân viên an ninh à một tiếng rồi nói:
-Trời ơi, tưởng ai té ra đại tá. Xin đại tá tha lỗi. Trong vườn tối om nên tôi không nhìn được rõ mặt đại tá.
-Ông Cônby còn chờ tôi không?
-Thưa còn. Ông ấy vừa gọi điện thoại cho tôi, dặn hễ đại tá đến thì mở cửa ngay. Xin mời đại tá vào. À…nhưng còn người đàn ông và người đàn bà này…
-Hừ, không lẽ tôi dẫn vợ chồng Mao trạch Đông đến trụ sở chìm của CIA.
Tuy khôi hài, đại tá Pit vẫn giữ nét mặt nghiêm nghị. Văn Bình nhìn gã trực nhật CIA, trên môi nở nụ cười khinh miệt. Gã trực nhật vội chìa bàn tay cố tạo một giọng thân mật:
-Chào ông bạn.
Gã nhân viên CIA đã rước lấy cực hình mà không biết. Nếu biết người đàn ông mà hắn đon đả bắt tay là Văn Bình, võ sĩ thượng thặng với gân tay cứng như thép nguội, hắn đã không dám nhanh nhẩu làm quen. Văn Bình từ từ nắm lấy bàn tay lông lá lởm chởm, và từ bóp lại. Viên gạch nung thành sành trong tay chàng cũng bị chàng bóp vụn thành bột dễ dàng, huống hồ bàn tay của gã trực nhật lại chỉ bằng xương thịt tầm thường và chỉ quen o bế đàn bà.
Hắn co rúm người, định rụt lại nhưng bàn tay của Văn Bình như làm bằng keo dính. Hắn đeo chặt lấy, không tài nào gỡ ra được nữa. Nghề mọn này là kết quả của nhiều năm luyện công của Văn Bình. Chàng hất một cái nhẹ, gã nhân viên CIA ngã chúi xuống vỉa hè xi-măng. Như vậy là chàng còn nhân đạo, nếu không vị nể ông tổng giám đốc Sì-mít chàng đã biến ngón tay thành gọng kềm có thể làm bàn tay gã CIA nát bét như đặt dưới máy ép kim khí.
Hắn cất tiếng van lạy, nước mắt chảy đầm đìa:
-Tôi xin ông bớt giận. Đau tôi quá, ông đừng đánh tôi nữa!
Văn Bình lôi hắn đứng dậy, giọng ngạc nhiên:
-Anh nói lạ. Tôi đánh anh hồi nào?
Hắn suýt soa:
-Ông vừa đánh tôi nội công.
Văn Bình chắt lưỡi:
-Thế hả? Bây giờ anh bằng lòng mời tôi lên lầu gặp ông Cônby chưa?
Hắn khúm núm:
-Tôi đâu dám hỗn láo. Xin mời ông lên.
Văn Bình bước vào gian phòng rộng, riềm che kín mít ở lầu 5. Giám đốc Cônby đang ngồi sau bàn, vẻ mặt hầm hầm. Thấy đại tá Pit, hắn vụt đứng dậy như lò so:
-Anh giết tôi!
Đại tá Pit tiến đến trước mặt Cônby:
-Tôi có cảm tưởng là anh vừa mất hết bình tĩnh.
Cônby dằn từng tiếng:
-Không, tôi vẫn giữ bình tĩnh như thường. Vì anh cẩu thả, không theo đúng tiêu chuẩn an ninh nên địch đã phăng ra Prakun và bắt cóc nàng.
-Căn cứ vào đâu mà anh dám nói là tôi cẩu thả?
-Chính họ vừa cho tôi biết. Họ cám ơn tôi là đã dẫn đường cho họ đến nhà Prakun. Giờ đây nàng đã bị bắt. Địch có thể hạ sát nàng. Chắc anh đã biết mối tình giữa tôi và Prakun. Chúng tôi sắp nên vợ chồng thì anh từ Mỹ tới phá đám.
-Anh đã được giấy phép hôn nhân của Trung ương chưa?
-Hừ, anh tưởng tôi là nhân viên tập sự ư? Theo nội lệ, toàn thể nhân viên CIA chính ngạch, bất luận nam nữ, chức vụ, và hoàn cảnh thâm niên đều phải xin phép Trung ương bằng giấy tờ hẳn hòi khi muốn lấy vợ lấy chồng. Tôi đã đệ đơn chính thức lên ông tổng giám đốc, và sau khi mở cuộc điều tra theo đúng thủ tục, Trung ương đã đồng ý.
-Ông Sì-mít đồng ý cho anh lấy cô thày bói chuyên bán bùa yêu Prakun?
-Anh đừng vội châm biếm. Prakun không phải là người đàn bà tầm thường như anh tưởng đâu. Về học vấn, nàng đã tốt nghiệp tú tài toán pháp tại Nữu Ước. Sau đó qua Thụy Sĩ và Đức quốc học thêm hai năm về bói toán và siêu hình học. Còn về giòng giõi, nàng có họ gần với nhà vua. Ở Thái, người tôn thất rất được trọng vọng. Với một số hồ sợ như vậy, nàng có xứng đáng làm vợ tôi không? Chắc anh cũng phải công nhận rằng nếu đặt thành vấn đề thì kẻ không xứng đáng chính là tôi. Vì tôi có vợ, có con sờ sờ mà lăm le cưới hỏi một cô gái son giá và đúng đắn. Vì tôi là thằng đàn ông khét tiếng chơi bời, tài thì có mà đức thì hoàn toàn không. Cách đây 7 năm, phục vụ ở Bá Linh, tôi uống rượu say, hẹn hò với gái suýt bị sa bẫy GRU. Tôi bị triệu hồi và trong một thời gian dài bị đẩy vào bàn giấy đầy hồ sơ và bụi bặm, tưởng phải chết già trong đó. Ông Sì-mít bổ nhiệm tôi sang Viễn Đông để tạo cơ hội cho tôi đái tội lập công, làm lại cuộc đời. Tôi sắp trở thành con người mới thì anh xuất hiện…
-Nghĩa là anh quy hết trách nhiệm cho tôi?
-Còn ai vào đây nữa. Tôi xin ông Sì-mít được hoạt động một mình thì anh lại vận động cho Mật vụ Nam Việt đóng vai trò điều khiển. Tôi đường đường là giám đốc địa phương mà phải phục vụ dưới quyền một điệp viên ngoại quốc. Tuy nhiên, tôi vẫn cắn răng nhịn nhục vì tôi nghĩ đến Prakun, đến vợ tương lai, đến cuộc sống ngày mai của chúng tôi. Nhưng vì anh vụng về, vì Sở Mật Vụ Nam Việt quá tự cao tự đại nên Prakun đã rơi vào tay địch. Có thể họ sẽ hãm hiếp nàng. Cũng có thể họ sát hại nàng. Tôi xin báo anh biết là từ phút này trở đi, chúng tôi không yểm trợ kế hoạch « Phục kích » nữa. Anh muốn làm gì tùy ý tùy thích.
-Anh có bổn phận phải tuân lệnh Trung ương.
-Ha ha…Trung ương ở tận Langley, xa Vọng Các hàng vạn dặm.
-Anh nói sao?
-Trời, rõ như thế mà anh vẫn chưa chịu hiểu! Từ phút này trước đi, tôi sẽ không liên lạc với anh nữa.
-Tôi sẽ báo cáo với ông Sì-mít.
-Tốt lắm. Anh nên báo cáo ngay đi, chờ đến mai sợ quá muộn.
Văn Bình vẫn đứng yên nghe hai nhân viên cao cấp CIA cãi lộn và cảm thấy thích thú như đang xem cuốn phim thọc lét của vua hề Sạc-lô. Chàng hơi mỉm cười khi thấy đại tá Pit đập nắm tay xuống bàn làm cái đĩa gạt tàn thuốc bằng đồng khối mạ vàng nặng chình chịch rớt văng vào tủ buýp-phê làm ly chén vỡ loảng xoảng. Đại tá Pit thét lớn:
-Anh không phải dọa.
Rồi quay sang Văn Bình:
-Thôi, chúng mình đi.
Khi ấy đại tá Pit mới nhớ ra trong phòng còn cô gái Thái. Nhưng Cônby đã tiến lên một bước, giang hai cánh tay ra:
-Ximai ở lại với tôi.
Đại tá Pit trợn mắt:
-Anh còn muốn phạm thêm tội quyến rũ gái bản xứ chưa chồng nữa ư?
Mặt đỏ gay, Cônby nhìn giữa mặt đại tá Pit:
-Nếu không nể anh là đặc phái viên của ông Sì-mít, tôi đã cho anh một bài học.
Ximai vội can:
-Thôi, em xin các ông. Dầu sao Prakun cũng đã bị bắt.
Sự can thiệp của đàn bà đẹp thường làm cuộc đấu khẩu giữa đàn ông trở thành cuộc đấu sức. Như lửa được đổ thêm dầu, đại tá Pit xấn đến, nắm lấy cổ áo Cônby định quật ngã. Song Cônby đã nhanh nhẹn gỡ thoát, đồng thời vung ngón tay chọc vào mắt đại tá Pit. Miếng đòn của Cônby khá nguy hiểm, nhưng đại tá Pit đã nghiêng mình tránh khỏi. Cả hai đều xuất thân từ võ đường CIA nên cách đánh đỡ y hệt nhau. Tài nghệ của cả hai cũng không lấy gì xuất sắc, thành ra họ quần thảo với nhau đã hơn một phút mà vẫn chưa phân thắng bại. Văn Bình phải nhảy ra dàn hòa:
-Trời ơi, hai ông bự CIA mà đánh nhau như thanh niên 18 tuổi được ư?
Xấu hổ, đại tá Pit vội lùi lại. Cônby rượt theo toan đánh. Nhưng bàn tay của hắn đã chạm phải tay của Văn Bình. Hắn thốt lên một tiếng « ái chà » đau đớn, rồi loạng choạng ngã ngồi xuống ghế sô-pha.
Đại tá Pit thở dài não nuột rồi mở cửa bước ra cầu thang. Văn Bình nheo mắt chào giám đốc Cônby:
-Cái mã yếu ớt như anh mà vướng vào Prakun thì chỉ một tháng là chết.
Cônby rít lên, muốn vùng để dậy để trả lễ bằng võ thuật, nhưng toàn thân hắn mềm nhũn. Văn Bình như có bùa phép thu hết sức lực của hắn. Hắn đành giương mắt ốc nhìnVăn Bình khoác vai Ximai từ từ ra khỏi phòng.
Xuống đến dưới đường, Văn Bình hỏi Pit:
-Anh định đi đâu?
Pit ngẫm nghĩ rồi đáp:
-Gõ cửa tư thất ông đại sứ Mỹ.
-Anh định gọi nhờ điện thoại về cho ông Sì-mít, phải không?
-Phải.
-Vậy anh nên về ngủ thì hơn. Tôi sẽ giới thiệu với anh một nơi thật tốt.
Đinh ninh Văn Bình nói đến vấn đề phòng trọ khách sạn, đại tá Pit lắc đầu:
-Tôi đang ngụ tại Erawan. Nếu không có gì trở ngại, tôi sẽ về Thái Hotel với anh. Chúng mình trọ gần nhau, hoạt động được dễ dàng hơn.
Nhưng Văn Bình cũng lắc đầu theo:
-Ở Thái Hotel cũng cực khổ không kém Erawan. Tôi muốn đề nghị với anh một chỗ khác.
Lời nói của bạn làm đại tá Pit ngạc nhiên. Erawan là đệ nhất lữ quán ở Vọng Các. Vương tôn công tử từ bốn phương tới đều lấy phòng tại Erawan. Lữ quán Thái Hotel không được quý phái bằng nhưng lại tối tân hơn, trẻ trung hơn. Pit không hiểu tại sao Văn Bình lại quan niệm Erawan và Thái Hotel là hai khách sạn cực khổ. Thật ra Văn Bình đã nghĩ khác. Lữ quán quốc tế có thang máy êm ái, phòng gắn máy điều hòa khí hậu, buống tắm có đủ nước nóng, nước lạnh, giường ngủ có nệm mút dày hơn một tấc, vươn cánh tay ra là chạm máy điện thoại. Muốn cắt tóc, cạo râu, đấm bóp chỉ cần bấm chuông, giặt và ủi đồ lớn chỉ phải đợi một giờ đồng hồ ngắn ngủi. Những tiện nghi này lữ quán Erawan và Thái Hotel đều có. Tuy nhiên, Văn Bình lại cho là cực khổ vì luật lệ ở hai khách sạn này không mấy mềm mỏng đối với gái giang hồ. Khách trọ không được ngang nhiên mang gái về phòng. Ả lầu xanh nào bén mảng đến để mồi chài khách là bị tống xuất một cách cương quyết.
Đại tá Pit phản đối:
-Erawan là nhất rồi. Cái gì ở đó cũng có. Erawan không thua khách sạn nào bên Mỹ.
Văn Bình cười tủm tỉm:
-Cái gì cũng có, nhưng trừ một cái. Và là cái cần nhất đối với đàn ông.
Đại tá Pit cau mày, hai mắt lim dim:
-Cạo râu và giặt ủi, phải không? Tưởng gì chứ cạo râu và giặt ủi tại đó thì tuyệt. Sau khi xuống máy bay, việc đầu tiên của tôi là…
-Suỵt.
-Cái gì thế?
-Anh không nghe tiếng động nào ư?
-Không.
-Anh thử quay lưng lại xem.
Nghe lời bạn, Pit quay lưng lại. Ximai đang lẽo đẽo phía sau. Miệng nàng cười toe toét, còn bàn tay nàng đang ra dấu liến thoắng cho Văn Bình. Chợt hiểu, Pit hỏi Văn Bình:
-Anh súi nàng cười tôi?
Văn Bình đáp, giọng trào lộng:
-Khỏi cần tôi súi nàng vẫn cười như thường. Ai đời một thanh niên khôi ngô, lịch lãm gần tứ tuần như anh mà còn ngây thơ như cậu bé mới tốt nghiệp tiểu học.
Pit nghiêm mặt:
-Tình thế như dầu sôi lửa bỏng thế này mà anh còn nghĩ đến du hí được ư?
Văn Bình vẫn cười:
-Làm nghề này không có du hí thì chán chết. Tôi hỏi thật anh: đêm nay, anh dám đi du hí với tôi không?
-Đối với tôi, công việc là trên hết.
-Nghĩa là suốt ngày suốt đêm chỉ nghĩ đến công việc, và công việc?
-Anh xuyên tạc ý nghĩ của tôi. Tôi không chống lại sự du hí. Nhưng chỉ nên du hí sau khi hoàn tất công việc.
-Nói tóm lại, anh sẽ bằng lòng đi du hí với tôi sau khi triệt hạ được âm mưu của địch.
-Đúng vậy.
-Anh thua tôi rồi. Tôi xin bảo đảm trăm phần trăm với anh là chúng ta sẽ thắng. Nào, mời anh lên xe…
-Không được. Sự bảo đảm của anh chỉ có tính cách giả thuyết. Chỉ khi nào thượng nghị sĩ Rôbin lên máy bay an toàn từ giã Vọng Các, tôi mới coi là công việc hoàn tất.
Văn Bình dí ngón tay vào trán đại tá Pit:
-Thôi, tôi xin anh. Trước khi mời anh, tôi đã biết chắc anh từ chối. Anh phải từ chối vì anh thuộc loại đàn ông râu quặp. Nghe nói nội tướng của anh ghen một cách ghê gớm. Anh ti toe với gái thì bà ấy xé xác anh ra, bỏ vào nồi nấu ra-gu.
-Trời ơi!
-Đừng chống chế nữa. Ngồi lên xe mà lái đi, ông chồng quán quân sợ vợ. Từ đây về đến Thái Hotel không xa lắm, chỉ chạy 10 phút là tới.
-Không phải lần đầu tôi được hân hạnh lái xe trong thành phố Vọng Các. Tôi thuộc lòng đường xá như đường chỉ trong lòng bàn tay. Anh cứ ngồi yên ở băng sau.
-Anh đã lái xe nhiều lần ở Vọng Các, nhưng đêm nay lần đầu anh lái xe cho tôi. Ban đêm trên đường vắng, nếu được ngồi băng sau với đàn bà đẹp tôi thường có thói xấu dặn tài xế lái loanh quanh càng lâu chừng nào càng tốt.
-Anh chưa buồn ngủ ư?
-Chưa. Tôi chỉ sợ anh ríu mắt lại thôi.
-Tôi cũng chưa buồn ngủ.
-Vậy anh tiếp tục lái cho đến khi nào hết xăng thì đậu lại.
-Trời ơi, thùng xăng còn đầy ắp, chạy hai giờ đồng hồ cũng chưa cạn. Anh thích ngao du vớ vẩn như thế làm gì?
-Anh là thằng đàn ông ngu nhất thế giới. Vợ anh tu từ 10 kiếp mới lấy được anh.
-Hiểu rồi. Nếu tôi ngu nhất thế giới thì anh là thằng đàn ông hư đốn và trơ trẽn nhất thế giới.
Văn Bình hỏi Ximai:
-Cô Ximai ơi, đại tá Pit nói về tôi đúng hay sai?
Ximai nũng nịu:
-Sai.
Văn Bình reo lên:
-Thấy chưa? Thôi tiếp tục lái đi, ông đại tá râu quặp! Tôi không cần ông thức cả đêm nay, chỉ xin ông điều khiển vô-lăng 30 phút nữa thôi. Và ông nhớ gài số 2 vì số 3 xóc lắm, bọn tôi chịu không nổi. Và nhất là đừng liếc nhìn vào kiếng chiếu hậu.
Đại tá Pit lẩm bẩm:
-Đồ quỷ! Lúc nào cũng du hí được…
Tuy vậy, đại tá Pit cũng dán mắt bên phải vào kiếng chiếu hậu. Chiếc Mazda đua này không đến nỗi quá chật chội nên Văn Bình xoay sở được dễ dàng. Chàng đang ôm ghì Ximai. Hai khối thịt nóng hổi đã chập thành một.
Trước tài quyến rũ của điệp viên Z.28, cô gái Thái không còn nhớ là đang ngồi trên xe, phía trước có tài xế tò mò. Nàng chỉ nhớ đến tình yêu nồng cháy.
Trên đường phố Vọng Các đêm ấy, băng sau êm ái của chiếc Mazda đã trở thành căn phòng trướng rủ màn che ấm áp, ngọt ngào và say mê của điệp viên Z.28 và giai nhân đất Thái Ximai.
Trong khi Văn Bình du hí quên đời thì tại một tòa biệt thự trệt cuối đường Rajadamri, bốn người đàn ông đang bàn bạc to nhỏ. Trừ căn phòng của họ còn mọi căn phòng khác trong biệt thự đều tắt đèn. Tuy vậy, khách qua đường vẫn tưởng trong biệt thự không còn ai thức nữa vì mọi cửa ra vào cũng như cửa sổ của văn phòng đều được che riềm dầy kín mít.
Cả bốn người đều da vàng, tầm thước và xấp xỉ tứ tuần. Họ là cấp chỉ huy của Quốc tế Tình báo Sở trú sứ Thái Lan.
Chỉ huy trưởng ngồi sau bàn giấy, vẻ mặt đăm chiêu. Y ngoảnh sang bên hỏi viên phụ tá:
-Liệu Rôbin có đến Vọng Các theo chương trình công du đã định không?
Viên phụ tá, một thanh niên gày ốm, da dẻ xanh xao, mở tập hồ sơ trước mặt:
-Thưa, tôi vừa nhận được tin tức xong. Chương trình viếng thăm của Rôbin vẫn y nguyên, không hề thay đổi.
-Còn về tên Z.28?
-Thưa, kế hoạch đối phó đã được áp dụng.
-Bao giờ Tsu Kiang và Nêmin tới?
-Nội đêm nay. Nhân viên của ta túc trực tại Don Muong vừa gọi dây nói về báo cáo phi cơ chở Tsu Kiang từ Tân gia ba đã đáp xuống cách đây 15 phút. Và 30 phút nữa, đến chuyến Air India của Nêmin cất cánh từ Calcutta. Xe của ta đã chờ họ ở sân bay và đưa thẳng về đây.
Chỉ huy trưởng màng lưới địa phương của Tình báo Sở xua tay:
-Không nên. Tôi sợ trụ sở này đã bị địch khám phá ra và đặt nhân viên canh chừng bên ngoài. Hồi nãy, tôi thấy một chiếc cam-nhông tắt đèn đậu ở đầu đường. Anh hãy thuê khách sạn cho Tsu và Nêmin.
-Thưa đại tá có ban thêm chỉ thị mới nào nữa không?
-Không. Tôi chỉ cần lưu ý Tsu và Nêmin về sự hiện diện của Z.28. Ta đã để hắn xổ lồng quá nhiều phen trong dĩ vãng. Lần này ta phải nắm gọn lấy nó.
-Thưa, đại tá muốn bắt giữ Z.28?
-Nếu bắt giữ được thì tốt. Nhưng theo kinh nghiệm riêng của tôi, hắn khôn như ranh, lại rất giỏi quyền thuật nên bắt giữ hắn không phải là chuyện dễ dàng. Rôbin sắp đến rồi. Thượng sách là tìm cách hạ sát Z.28. Ta chỉ còn mười mấy giờ đồng hồ nữa thôi. Ra lệnh cho Tsu và Nêmin giết hắn cho kỳ được. Và nhớ là chỉ giết hắn, chứ không giết thêm người nào khác. Xong xuôi hãy nghĩ đến Rôbin.
Viên chỉ huy đứng dậy. Ba người đàn ông khác cũng bật dậy theo. Viên chỉ huy khệnh khạng bước ra cửa. Trước khi trèo lên xe hơi đậu ngoài vườn, y nghiêm mặt dặn viên phụ tá:
-Các anh không được quyền thất bại. Nhớ chưa?
« Không được quyền thất bại » là mệnh lệnh mà Trung ương Tình báo Sở gởi cho trú sứ Vọng Các. Tuy nhiên, đêm ấy, người đàn ông mang tên Tsu Kiang rời chuyến phản lực cơ thương mãi P.A.A. tại Don Muong không quan tâm đến mệnh lệnh này. Vì từ khi dấn thân vào cuộc đời điệp báo hành động quốc tế, Tsu Kiang chưa bao giờ thất bại.
Kiang trạc 25 tuổi, tuổi nẩy nở toàn diện của con người, nhất là nam giới, về cả hai phương diện thân thể và tinh thần. Đối với người Á đông thì thanh niên 25 thường có khuôn mặt già dặn, nghiêm trang. Kiang cũng 25 mà khuôn mặt lại trẻ măng như thể mới 20. Thoạt trông, người ta có thể lầm Kiang với cậu sinh viên năm thứ nhất của trường đại học.
Kiang là người Trung hoa, một dân tộc già trước tuổi. Sở dĩ hắn còn giữ mãi những nét hồn nhiên của thời kỳ đôi mươi vì hắn xuất thân từ một gia đình thọ trên trăm tuổi. Trong vùng Khotan ở tây bắc nước Tàu, đối diện Cát sơ mia, có nhiều rặng núi cao ngất. Kẹt giữa các rặng núi này là những thung lũng vòng chảo. Sự đi lại rất khó khăn nên một số thung lũng không biết thế giới bên ngoài, còn sinh sống như thời xa xưa.
Kiang chào đời tại một thung lũng ít được biết tới nhất, gọi là thung lũng Anin. Dân số ở thung lũng này rất ít ỏi, độ hai, ba trăm người, kể cả già trẻ lớn bé. Nhờ khí hậu và cách sống khác thường của họ, bộ lạc Anin ít mắc bệnh tật, hầu hết đều trên 100 tuổi mới chết.
Họ sống lâu như vậy nên đàn ông 50 tuổi trông trẻ măng như 30. Họ có những phong tục riêng biệtn chẳng hạn nam nữ cùng giòng máu được phép lấy nhau. Xét kỹ, phong tục này không có gì quái gở vì dân Anin không giao thiệp với người ngoài, nếu anh chị em không kết hôn với nhau để sinh con đẻ cái thì họ phải tuyệt tự.
Theo giải thích khoa học, những cuộc hôn phối đồng huyết thường ảnh hưởng lớn đến cơ thể và tâm tính con cái. Chúng có thể bị điên, hoặc dữ tợn ngoài sức tưởng tượng.
Năm lên 12 tuổi, Tsu Kiang đã cao gần thước bảy, và nặng 65 kilô. Suốt ngày hắn leo núi để trồng trọt và săn bắn. Dân Anin không ai biết đọc, cũng không ai biết viết. Họ cũng không biết thổ ngữ Trung hoa. Họ nói một thứ tiếng gần giống tiếng Tây Tạng Tuy còn nhỏ, Tsu đã có vợ. Vợ hắn là trưởng nữ của chú ruột hắn, hơn hắn 10 tuổi. Sức lực của hắn gấp 5, gấp 10 sức lực của người đàn ông trung bình nên hắn không chịu nổi sự cung phụng quá hạn chế và yếu ớt của một cô vợ. Gia đình hắn gồm 5 anh em, hắn là con út và là con trai độc nhất. Không hiểu vì lẽ gì hắn thuyết phục được 4 chị của hắn chung chăn xẻ gối với hắn.
Thung lũng Anin khác với phần đất còn lại của thế giới ở chỗ không có tình trạng trai thiếu gái thừa. Ngược lại, ở đó trai lại thừa mà gái lại thiếu. Vì vậy đàn ông chỉ được quyền lấy một vợ. Bệnh đa thê thái quá của Tsu Kiang đã gây nhiều cuộc ghen tuông vũ bão và đấu sức. Và trong cơn nóng giận, hắn đã giết cha mẹ và một số trai tráng trong làng.
Bị đuổi bắt, Tsu Kiang vượt núi trốn. Nhờ có sức khỏe phi thường, hắn đã ra khỏi thung lũng Anin và giải trường sơn bất khả xâm phạm. Có thể nói Kiang là người Anin thứ nhất ra khỏi thời tiền sử và bước ngay vào thế kỷ thứ 20. Ngày đi đêm nghỉ, khát thì uống nước suối, đói thì hái hoa quả hoặc săn thú lấy thịt ăn. Tsu Kiang đã băng qua xứ Tây Tạng và vượt sông Dương tử, tiến vào nội địa Trung quốc. Hắn xung vào quân đội. Nhân một hôm đơn vị của hắn đóng ở bìa rừng suýt bị một đàn gấu trắng tàn sát, hắn mới có dịp trổ tài.
Hắn dùng chân trái đá chết con gấu đầu đàn. Con thứ nhì mới xấn tới đã bị hắn vung tay đánh vỡ sọ. Thành tích võ dõng này, như thường lệ được đơn vị trưởng báo cáo lên thượng cấp. Kết quả là binh nhì Tsu Kiang được triệu về thủ đô Bắc Kinh.
Khi ấy Kiang mới chẵn 15 tuổi.
Hắn được Quốc tế Tình báo Sở chiếu cố và đưa vào tổ chức. Kiang ở trong trường gần 5 năm mới biết đọc, biết viết và nói rõ tiếng Tàu. Dưới sự chỉ bảo của các võ sư hữu danh, hắn đã am tường những mánh khóe giết người thần tốc và hữu hiệu.
Ra trường, Kiang được đưa sang Âu châu thực tập và thi hành những công tác đầu tiên. Món ruột của hắn là chém bằng sống bàn tay mà nghệ thuật nhu đạo mệnh danh là atêmi. Hồi nhỏ hắn tập chém những tảng băng trên núi nên tay hắn cứng như thép. Ngọn cước của hắn cũng phi thường, có lần hắn đá xụp một bức tường kiên cố. Kiang còn có một cách giết người êm thấm khác: kẹp đối phương vào nách. Nhân viếng thăm võ đường của sở Điệp báo ở Đông Đức, Kiang gặp một huấn luyện viên có biệt tài tấn công bằng đầu, một cái đầu khổng lồ mà búa đập không vỡ. Nghe nói Kiang giỏi về môn kẹp nách, huấn luyện viên đàn anh này muốn thử tài. Kiang một mực từ chối, viện cớ dầu hắn muốn nhẹ tay hết sức, đầu của huấn luyện viên cũng có thể bị vỡ nát. Tưởng Kiang kiêu ngạo, huấn luyện viên này liền thách hắn giao đấu bằng môn kẹp nách. Không ngờ Kiang chỉ hạ cánh tay xuống là cái sọ dừa vô cùng cứng rắn của đối phương đã phọt chất óc bầy nhầy ra ngoài.
Công tác đầu tiên của Kiang sau thời gian thực tập là hạ sát một điệp viên tây phương tại Bá Linh. Điệp viên này nặng gần trăm kilô, quyền Anh cũng như nhu đạo đều thành thạo. Từ trước đến nay, điệp viên này đã triệt hạ hàng chục nhân viên ưu tú của các cơ quan gián điệp xã hội chủ nghĩa.
King chỉ thanh toán mục phiêu trong vòng 30 giây đồng hồ ngắn ngủi. Điệp viên tây phương chưa kịp phản ứng thì sống bàn tay của Tsu Kiang đã giáng xuống. Xoẹt một tiếng, óc điệp viên này bị chẻ làm đôi. Nạn nhân chết tức khắc.
Sau thành tích lỗi lạc của Kiang, Trung ương Tình báo Sở gọi hắn về Bắc Kinh để dành hắn vào các công tác đặc biệt.
Chắc hẳn những việc sắp xảy ra tại Thái Lan phải có tầm quan trọng đặc biệt cho nên Tình báo Sở mới triệu dụng đến đệ nhất tinh hoa Tsu Kiang.
Người đàn ông thứ hai được Tình báo Sở phái đến biệt vụ đêm ấy là Nêmin.
Lộ trình của cặp điệp viên hành động thượng thặng này được sửa soạn kỹ lưỡng để không có một kẽ hở nào làm hành tung của họ bị bại lộ. Cả hai đều từ lục địa vượt biên giới sang Hồng kông, đội lốt thương gia. Tsu Kiang đáp phi cơ từ Hồng kông đi Tân gia Ba, chờ ở đó một ngày rồi lên đường đi Vọng Các bằng thông hành do chính phủ Mã Lai cấp. Nêmin đi thẳng tới Calcutta bằng phi cơ thương mãi Swissair của Thụy Sĩ, nhưng lại rời Calcutta đi Vọng Các bằng phi cơ thương mãi Air India của Ấn Độ.
Nêmin và Tsu Kiang là hai thái cực. Khác nhau không những về vóc dáng mà còn cả về tính tình và kỹ thuật giết người nữa.
Kiang là một khối thịt tròn lẳn, nặng cân, nở nang và đều đặn như lực sĩ chuyên về thể dục thẩm mỹ. Hắn sống trên đỉnh núi nên có nước da trắng như người tây phương. Ngược lại, Nêmin là một thanh niên gày nhom, gày đến nỗi khi cởi áo ra, người ta có thể đếm được hết các xương sườn của hắn. Tay chân hắn đều dài như tay chân vượn, mỗi bước đi của hắn dài gấp hai người thường.
Kiang nóng như lửa. Trương Dực Đức tái sanh cũng vị tất nóng bằng hắn. Khi lên cơn nóng, hắn có thể xô đổ một chiếc cam-nhông chở đầy hàng hóa. Trông cặp mắt đỏ như pha máu của hắn, người bình tĩnh và gan dạ nhất cũng phải e dè. Nếu cần, hắn có thể vung bàn tay kếch sù ra, bẻ gãy cổ nạn nhân rồi nhai rau ráu như thể dân nhậu nhai xương gà.
Nêmin lại tượng trưng cho sự lạnh lùng của bộ lạc du mục Mông Cổ. Hắn là người Mông Cổ chính cống, từ đời ông cha sinh sống trên sa mạc Gôbi. Gần hắn, người ta có cảm tưởng hắn là tảng băng, không hề biết giận dữ là gì. Thật ra hắn cũng biết hỉ nộ ai lạc như mọi con người trên trái đất, nhưng hắn có biệt tài dằn ép cảm xúc.
Giọng nói của Tsu Kiang lúc nào cũng oang oang, còn Nêmin trái lại, luôn luôn dịu dàng, mềm mỏng, nhiều khi hắn phát âm ngập ngừng, và lí nhí như con gái cấm cung.
Vậy mà tài giết người của Nêmin lại hữu hiệu không kém Tsu Kiang.
Nhưng nếu Kiang giết người bằng tay thì Nêmin trái lại, giết người bằng khí giới tân tiến. Nêmin chuyên giết người bằng súng. Hồi ở nhà, lang thang trên sa mạc mênh mông, hắn dùng khẩu súng cổ lỗ sĩ chỉ bắn được một phát duy nhất. Vả lại, hắn không cần súng tự động, bắn được nhiều phát, cũng như cần mang theo nhiều đạn dự phòng. Vì từ ngày biết cầm súng, chưa bao giờ Nêmin phải bắn đến phát thứ hai mới hạ được thú dữ. Hoạt động cho Tình báo Sở, Nêmin được làm quen với mọi kiểu súng trên hoàn vũ. Về tác xạ cũng như đấu quyền, có người giỏi về xa, lại có người giỏi về gần. Vì vậy võ sĩ quyền Anh chuyên đánh gần sẽ phải bó tay trước một đấu thủ chuyên đánh xa bằng Mai hoa quyền, Thái cực quyền hoặc cước quyền. Về tác xạ, rất nhiều người bắn gần trăm phát trúng trăm lại tụt xuống mực trung bình khi phải bắn xa với ống viễn kính.
Nêmin giỏi cả về 2 môn gần cũng như xa. Nhưng về bắn xa, hắn có phần xuất sắc hơn.
Hắn chỉ mắc một tật mà nhiều nhà thiện xạ thường có: tật chơi súng thật tốt, và kỵ bắn súng lạ. Bởi vậy, mỗi khi hoạt động ở hải ngoại, Nêmin phải tìm đủ mọi cách mang súng theo.
Súng hắn dùng thuộc loại 600 Nitro-express, do một xí nghiệp ở Bỉ chế tạo riêng cho công ty Võ khí Lục địa « Continental Arms » ở Nữu Ước. Loại súng dài này được liệt vào loại tốt nhất thế giới và đắt tiền nhất thế giới. Rẻ ra cũng phải 1.000 đô la một khẩu, trong khi giá trung bình trên thị trường của súng dài bắn xa là 200 đô la.
Loại súng nặng này chỉ được dùng để bắn thú lớn như voi, sư tử, cọp dữ. Giới thiện xạ quốc tế chỉ dám bỏ tiền mua khẩu Magnum 378 hoặc 375 là cùng, vì Magnum đã là súng săn đắt kinh khủng. Tại Hoa Kỳ, chỉ độ vài ba trăm thợ săn nhà giàu dám héo lánh đến Nitro-express.
Tuy nhiên, Nêmin vẫn chưa hài lòng với khẩu Nitro. Tình báo Sở còm-măng một lúc 10 khẩu Nitro, và Nêmin mang súng sang tận Anh quốc, giao cho xưởng Purdey làm lại.
Trong kỹ nghệ xe hơi, xe Rolls Royce là loại đắt nhất. Đắt đến nỗi người ta không thể tưởng tượng được. Xe Cadilắc dài hơn 6 thước là xe cừ khôi nhất của Mỹ mà giá bán có 6, 7 ngàn đô la, trong khi xe Rolls vọt lên tới 50 hoặc 100 ngàn đô la một chiếc. Do đó xe Rolls được tôn lên làm ông vua của triều đình xe tự động. Purdey cũng vậy. Purdey là ông vua của triều đình súng săn. Súng săn ở mọi nơi đều làm bằng máy, nhưng súng săn Purdey được làm bằng tay. Tiền công mài rũa và cẩn chạm một khẩu súng săn tại xưởng Purdey rẻ ra cũng từ một đến hai ngàn đô la Mỹ.
Khẩu súng của Nêmin lại đắt hơn nữa vì được chế biến lại theo một thể thức điệp báo. Súng Nitro-express bắn đạn ghém, son Nêmin lại dùng để bắn đạn viên, chỉ bắn hai viên mà thôi. Khẩu Nitro của hắn lại gồm nhiều bộ phận tháo rời và toàn khẩu súng được đựng vừa một cạc-táp nhỏ.
Với khẩu Nitro-express 600, Nêmin có thể bắn trúng địch trong vòng ba, bốn trăm mét nhờ ống viễn kính cực tốt. Trong một vụ thanh toán do Tình báo Sở chủ trương, hắn đã bắn trúng cánh quạt của chiếc trực thăng chở một yếu nhân tình báo Sô Viết. Một lần khác hắn phục trên đỉnh núi bắn hạ một người trượt tuyết ở dưới chân núi.
Nêmin giết người một cách thản nhiên như thể người đánh răng buổi sáng. Hắn không cần biết nạn nhân là ai, và tại sao phải giết. Hễ Tình báo Sở ra lệnh là hắn giết, thế thôi.
Trong quá khứ, ít khi Nêmin cùng hoạt động với Tsu Kiang. Lần này, cả hai được gọi đến văn phòng tổng giám đốc cùng một lúc, và cùng được chở bằng phi cơ riêng đến vùng biên giới Hồng kông.
Không khí ban đêm ở phi trường Don Muong làm Nêmin dễ chịu. Hồi trưa, hắn suýt ngộp thở vì sức nóng của thị trấn Calcutta. Hắn không mang khí giới vì cặp súng Purdey của hắn đã nhập cảnh Thái Lan bằng một đường riêng. Con đường này ra sao, hắn không biết. Lần nào cũng vậy, sau khi đặt chân xuống vùng hoạt động hắn đã thấy cặp súng săn thân yêu ngoan ngoãn chờ hắn trong trụ sở bí mật của Tình báo Sở.
Nửa giờ trước, một chiếc taxi đã chở Tsu Kiang từ Don Muong về trung tâm thành.
Một taxi khác mở cửa đợi Nêmin. Hắn khoan thai xách va-li ra sân đậu taxi. Tài xế, một thanh niên lực lưỡng, chặn Nêmin lại, lễ phép hỏi bằng tiếng Quảng Đông:
-Ông là bang trưởng, phải không?
Nêmin đứng lại:
-Phải. Nếu tôi không lầm, ông bạn ở đường Chakrapet đã thuê taxi này cho tôi?
Gã tài xế gật đầu.
Nêmin trèo lên taxi. Tài xế rồ máy, lái khỏi phi trường. Trên đường vào thành phố, tài xế không hề bắt chuyện với Nêmin. Nêmin cũng không hỏi tài xế. Theo chỉ thị thượng cấp, họ phải giữ tuyệt đối im lặng, ngoại trừ mật khẩu trao tại phi trường.
Hai tinh hoa giết người của mật vụ quốc ngoại Trung cộng đã có mặt tại Vọng Các.
Vậy mà Văn Bình, Z.28, tinh hoa của mật vụ Nam Việt lại miệt mài trong cuộc truy hoan.
Văn Bình là người không bao giờ biết chán, không bao giờ biết mệt, nhưng đại tá Pit không thể nào chịu đựng cái cảnh ngang tai chướng mắt trên xe hơi mãi. Vì thế, chốc chốc Pit lại giục bạn:
-Tôi lái về khách sạn được chưa?
Thoạt đầu nghe đại tá Pit hỏi, Văn Bình giả vờ không nghe tiếng. Đại tá Pit đằng hắng rồi cất tiếng thật lớn. Văn Bình không viện cớ nghễnh ngãng được nữa nên đành khất bạn:
-Một lát nữa thôi. Gớm, trên thế gian, anh là người đàn ông duy nhất không biết…
Đại tá Pit bực bội:
-Công việc là công việc, không thể lẫn lộn công việc với du hí được. Tôi chỉ cho anh 5 phút, đúng 5 phút nữa thôi. Như vậy là gần nửa giờ rồi.
-Khiếp, nửa giờ sao mà nhanh thế!
-Trong cuộc vui, thời gian bao giờ cũng trôi qua rất nhanh.
-Tôi không tin. Chắc đồng hồ anh hỏng.
-Đồng hồ Rolex là loại đắt tiền nhất thế giới, tôi dùng hơn 6 năm mà chưa hề trục trặc. Anh đừng ngụy biện nữa. Thế nào, anh có định nghĩ đến công việc không? Hay là anh muốn tôi…
-Tôi van anh. Cổ nhân có câu « trời đánh còn tránh bữa ăn », lẽ nào anh lại…
-Đây không phải là bữa ăn mà là một cuộc du hí bất lợi và không đúng lúc. Sau 3 phút, nếu anh cứ tiếp tục vui thú, bắt buộc tôi phải đậu xe tại ngã tư, gần trục đèn lưu thông và gọi cảnh sát.
Văn Bình thở dài:
-Vâng, tôi xin chịu thua. Trên đời tôi chưa thấy ai khô khan và độc ác như anh.
Đại tá Pit cười khảy:
-Cám ơn, anh cứ tiếp tục chửi tôi nữa đi. Nghe anh chửi còn khoái hơn nghe bản nhạc Giòng sông xanh.
Văn Bình nín lặng không đáp vì lữ quán Thái Hotel đã hiện ra trước mắt.
Đại tá Pit hỏi bạn:
-Đậu bên ngoài hay chạy thẳng vào trong sân?
Văn Bình nhăn nhó:
-Không nên. Dừng lại ở góc đường tiện hơn.
-Anh sợ họ bắn lén.
-Chắc chắn họ đang rình tôi trước khách sạn. Thôi, anh đậu đây được rồi.
Văn Bình mở cửa xe nhảy xuống. Đại tá Pit tỏ vẻ sửng sốt khi thấy Văn Bình giơ tay chào:
-Còn tôi nữa. Anh định về Thái Hotel một mình sao?
Văn Bình khoát tay:
-Như anh đã biết, tôi có hẹn với một cô bạn gái.
-Bạn gái, lúc nào anh cũng nghĩa đến bạn gái. Vâng, tôi xin về một mình. Nhưng tôi…
-Vô ích. Tôi không thể nào cho Ximai đi theo. Địch sẽ hạ sát nàng.
Đại tá Pit quay lại băng sau, lớn tiếng:
-Ximai, cô nghĩ sao? Cô muốn đi theo Văn Bình hay với tôi?
Văn Bình đỡ lời:
-Dĩ nhiên là nàng muốn đi với anh. Anh là người đàn ông đứng đắn, lại…
-Ximai không cần anh làm phát ngôn viên. Xin anh yên lặng để tôi hỏi nàng.
-Anh hỏi nàng cũng như không vì nàng không còn nghe được giọng nói êm ái của anh nữa.
-Trời ơi, Ximai đã chết? Tôi mới thấy nàng cựa quậy cái đầu và cười duyên với tôi kia mà.
-Phải, chuyện đó đã xảy ra cách đây một phút. Nhưng anh đừng sợ, nàng không chết đâu. Nàng vẫn sống nhăn như anh và tôi. Nàng chỉ ngủ quên đi một lát mà thôi.
-Anh đã điểm huyệt cho nàng mê man?
-Phải.
-Tại sao anh lại làm thế?
-Thứ nhất, để nàng không bám sát tôi vào khách sạn Thái Hotel. Thứ hai, để anh săn sóc nàng. Tôi đã tính kỹ: độ 10 phút sau, nàng sẽ tỉnh dậy. Chào anh nhé!
Đại tá Pit không chào lại. Chàng rủa trong miệng « đồ trời đánh thánh vật » rồi rồ máy phóng một mạch.
Văn Bình vòng ra bên hông lữ quán Thái Hotel. Trước lữ quán, xe cộ đã vắng. Một chiếc xe chở hàng sơn đen đậu chềnh ềnh dưới cây bàng, đối diện cổng ra vào. Văn Bình thấy một gã đàn ông béo phục phịch đội mũ rơm dựa lưng vào vè xe ; điềm nhiên hút thuốc lá. Vì đứng xa, chàng không nhận được rõ ràng nét mặt của hắn. Tuy nhiên, căn cứ vào thái độ nghênh ngang của hắn, chàng đoán hắn là nhân viên của tướng Phathom.
Câu hỏi hồi nãy lại ám ảnh tâm trí của chàng:
-Quái, tướng Phathom phá rối mình để làm gì? Không lẽ tình báo đồng minh Thái Lan lại đi đôi với địch?
Văn Bình nhảy qua hàng rào thấp và lẻn lên lầu một cách nhanh nhẹn và kín đáo. Đến trước cửa phòng 218, phòng của chàng, chàng quay lại quan sát sau lưng.
Đã quá nửa đêm. Ngoại trừ ánh điện sáng xanh, hành lang không có một ai. Trước khi mở cửa, chàng khựng lại. Chàng biết trong phòng có người.
Chàng đã hẹn với Mỹ Linh, chắc nàng đang chờ chàng. Chàng bèn đẩy cửa. Cánh cửa không khóa mở vào êm ru.
Trên nền phòng, chàng thấy một xác chết.