← Quay lại trang sách

CHƯƠNG 16

Tracy rũ nước mưa khỏi chiếc áo khoác khi cô bước vào cửa chính của nhà tang lễ Thorenson. Ông già Thorenson, cái tên mà người ta vẫn gọi Arthur Thorenson từ hồi bọn cô còn nhỏ, đã mai táng tất cả những người qua đời tại Cedar Grove, kể cả cha mẹ cô. Nhưng khi Tracy gọi điện tới nhà tang lễ hồi đầu tuần thì người nghe máy lại là Darren, con trai ông. Darren học trên Tracy mấy khóa tại trường Trung học Cedar Grove, và dường như anh đã kế nghiệp gia đình.

Cô tự giới thiệu bản thân với người phụ nữ ngồi ở bàn tiếp đón trong sảnh chờ. Cô không ngồi và cũng từ chối khi được mời một tách cà phê. Những ánh đèn bên trong tòa nhà dường như sáng sủa hơn so với những gì Tracy từng nhớ. Cả màu tường và thảm cũng có vẻ sáng hơn. Duy chỉ có cái mùi ấy là không hề thay đổi. Đó là mùi hương trầm, thứ luôn làm cho Tracy liên tưởng đến cái chết.

“Tracy phải không?” Darren Thorenson tiến về phía cô, tay dang rộng. Anh đang mặc bộ com-lê tối màu và thắt cà-vạt.

Anh nắm lấy tay cô. “Thật vui vì gặp lại cô, nhưng thật đáng tiếc là cuộc gặp gỡ lại diễn ra trong hoàn cảnh như thế này.”

“Cảm ơn anh vì đã sắp xếp mọi thứ, Darren.” Bên cạnh việc hỏa táng hài cốt của Sarah, Thorenson còn báo với nhân viên của nghĩa trang và mời được một vị mục sư làm lễ. Tracy không hề muốn những thủ tục như vậy, nhưng cô cũng không hề muốn nửa đêm phải đi đào một cái hố để ném em gái mình vào đó một cách lén lút.

“Không vấn đề gì.” Anh dẫn cô vào trong căn phòng từng là phòng làm việc của cha anh, cũng là nơi Tracy và mẹ cô đã lên kế hoạch cho tang lễ của cha cô. Tracy đã quay lại căn phòng đó một lần nữa khi mẹ cô mất vì căn bệnh ung thư. Darren ngồi xuống sau cái bàn. Một bức ảnh của ông Thorenson, trông trẻ hơn Tracy từng biết, được treo bên cạnh tấm hình chụp cả gia đình. Darren đã kết hôn với Abby Becker, bạn gái của anh từ hồi còn học trung học. Họ đã có ba đứa con. Darren nhìn rất giống cha. Anh có dáng người bệ vệ, mái tóc chải ngược ra đằng sau càng làm nổi bật cái mũi lớn. Anh đeo một cặp kính có gọng dày màu đen giống như cặp kính mà Dan O’Leary từng đeo hồi còn nhỏ.

“Anh đã trang trí lại đúng không?” Tracy hỏi.

“Từng chút một.” Anh đáp. “Cũng phải mất chút thời gian để thuyết phục ông ấy rằng tôn nghiêm không đồng nghĩa với ảm đạm .”

“Bố anh thế nào rồi?”

“Thi thoảng ông ấy vẫn dọa chúng tôi rằng ông ấy không nghỉ hưu nữa. Mỗi khi ông ấy như thế, chúng tôi lại dúi vào tay ông ấy cây gậy đánh golf. Nhân tiện, Abby nhắn rằng cô ấy chuyển lời chia buồn.”

“Anh có gặp vấn đề gì với khu mộ không?”

Nghĩa trang Cedar Grove đã tồn tại lâu đời hơn cả thị trấn. Chẳng ai biết chính xác ngày tháng những ngôi mộ đầu tiên được chôn cất ở đó bởi tất cả đều vô danh. Những người tình nguyện vẫn thường sửa sang, nhổ cỏ trong nghĩa trang. Họ sẽ cùng nhau đào huyệt nếu như có ai đó trong thị trấn qua đời. Họ đều làm việc không công, ngầm hiểu với nhau rằng một ngày nào đó công sức của họ sẽ được đền đáp. Vì không gian có hạn nên Hội đồng Thành phố phải phê duyệt mỗi khi có người cần chôn cất. Một điều kiện bắt buộc là người chết phải là cư dân của Cedar Grove. Sarah đã mất khi vẫn còn ở Cedar Grove, vì vậy điều đó không phải là vấn đề. Tracy đã đề nghị để em gái cô được chôn cất cùng với cha mẹ mình, dù thực chất chỗ đó chỉ là khu mộ dành cho hai người.

“Không có vấn đề gì.” Darren nói. “Mọi chuyện đều đã được giải quyết.”

“Tôi nghĩ rằng chúng ta cần giải quyết vấn đề giấy tờ nữa.”

“Tất cả cũng đều xong rồi.”

“Vậy có lẽ tôi sẽ viết cho anh một tấm séc.”

“Đừng bận tâm chuyện đó.”

“Làm ơn đi, Darren! Tôi không thể đòi hỏi anh nhiều như thế được.”

“Tôi làm thế đâu phải vì cô đòi hỏi.” Nụ cười của anh thoáng chút buồn. “Tôi không lấy tiền của cô đâu, Tracy. Cô và gia đình đã phải trải qua từng ấy chuyện rồi.”

“Tôi chẳng biết phải nói gì hơn. Tôi rất biết ơn anh. Tôi thật sự biết ơn.”

“Tôi hiểu. Ngày hôm đó, tất cả chúng ta đều đã mất đi Sarah. Mọi thứ không còn như cũ. như thể cô ấy thuộc về cả thị trấn này. Chúng ta cũng đã không còn như cũ.”

Tracy đã từng nghe những điều tương tự như thế. Cedar Grove không chết khi Christian Mattioli đóng cửa khu hầm mỏ kéo theo việc phần lớn cư dân bỏ đi. Cedar Grove chỉ chết vào cái ngày Sarah biến mất. Sau khi Sarah mất tích, người ta không còn để ngỏ những cánh cửa, không còn để cho con cái họ thoải mái dạo chơi hay đạp xe trên đường nữa. Sau khi Sarah mất tích, họ chẳng còn để cho con cái họ đi bộ tới trường hay đứng chờ xe bus mà không có người đi kèm. Sau khi Sarah mất tích, người ta không thân thiện chào đón khách lạ như trước nữa.

“Hắn ta vẫn ở trong tù chứ?” Thorenson hỏi.

“Vâng, hắn ta vẫn đang ở trong tù.”

“Tôi mong hắn ta mục rữa trong đó.”

Tracy nhìn đồng hổ. Darren đứng dậy. “Cô sẵn sàng chưa?”

Dù chưa thật sự sẵn sàng nhưng cô vẫn gật đầu. Anh dẫn cô đi vào phòng tang lễ ở bên cạnh, băng qua những hàng ghế vắng bóng người. Căn phòng này từng không đủ chỗ cho những người đến viếng cha cô. Một cây thánh giá lớn được treo trên tường. Phía bên dưới, đặt trên cái bục làm bằng đá hoa cương là một chiếc hộp dát vàng to bằng hộp đựng trang sức. Tracy tiến đến gần và đọc dòng chữ khắc trên đó.

Sarah Lynne Crosswhite

Đứa Trẻ

“Tôi hy vọng viết như thế không sao.” Darren nói. “Chúng ta đều nhớ về cô ấy như thế, đứa trẻ đã đi theo chị mình khắp thị trấn.” Tracy lau nước mắt bằng một mảnh khăn giấy. “Tôi rất vui vì Sarah đã yên nghỉ và cô có thể vượt qua mọi chuyện.” Darren tiếp tục. “Tôi mừng thay cho tất cả chúng ta.”

Đoàn xe nối đuôi nhau kéo vào cửa nghĩa trang thật sự quá sức tưởng tượng của Tracy. Cô bắt đầu nghi ngờ rằng cô biết ai để lộ thông tin này, và vì sao người đó làm như vậy. Finlay Armstrong đang đứng ở giữa đường để chỉ lối cho các phương tiện. Nước mưa nhỏ xuống từ vành mũ của anh, lăn dài trên chiếc áo mưa trong suốt anh khoác bên ngoài bộ đồng phục. Tracy hạ cửa kính xe khi cô tìm chỗ để đỗ.

“Đừng lo về chuyện đỗ xe. Cô có thể đỗ ở lòng đường.” Finlay nói.

Darren Thorenson, lái xe đi đằng sau Tracy, đã mở sẵn một chiếc ô lớn để che mưa cho cô khi cô bước xuống xe. Họ cùng nhau đi lên đồi, hướng về phía một cái mái che màu trắng. Phần mộ của bố mẹ cô nằm trên đỉnh một con gò nhỏ nhìn về Cedar Grove. Khoảng ba mươi hay bốn mươi người đang ngồi trên những chiếc ghế trắng bên dưới mái che. Khoảng hai mươi người khác đang cầm ô đứng bên ngoài mái che. Những người đang ngồi đứng dậy khi Tracy bước đến. Cô dành ra chút thời gian để nhận mặt người quen. Họ đã già đi, nhưng cô vẫn nhận ra những người bạn của gia đình cô. Những đứa trẻ ngày trước vẫn cùng cô và Sarah tới lớp giờ đã lớn. Có cả những giáo viên về sau đã trở thành đồng nghiệp của Tracy trong khoảng thời gian ngắn ngủi cô quay lại trường Trung học Cedar Grove để dạy môn Hóa học. Sunnie Witherspoon cũng ở đó cùng với người bạn thân nhất của Sarah, Marybeth Ferguson. Vance Clark và Roy Calloway đứng phía ngoài mái che. Kins, Andrew Laub và Vic Fazzio đã lái xe suốt quãng đường từ Seattle tới đây để mang đến cho Tracy cảm giác phũ phàng của sự thật. Trở lại Cedar Grove là điều vẫn còn rất hư ảo với cô. Cô cảm thấy mình như đã mắc kẹt trong một chuyến đi trở về quá khứ hai mươi năm trước. Mọi thứ xung quanh vừa lạ vừa quen. Cô chẳng còn so sánh được những thứ cô nhìn thấy và những thứ còn lại trong kí ức. Giờ đã không còn là năm 1993 nữa. Nó đã trôi đi rất xa rồi.

Mọi người đã nhường lại hàng ghế đầu tiên, nhưng những chỗ trống bên cạnh Tracy càng làm nỗi cô quạnh của cô trở nên lớn hơn. Sau một lúc, cô cảm thấy có ai đó bước vào trong mái che để ngồi cạnh cô.

“Chỗ này có người ngồi chưa?”

Cô phải mất một lúc mới nhận ra người đó sau những thay đổi của năm tháng. Gọng kính đen ngày nào đã được thay bằng kính áp tròng, để lộ đôi mắt xanh lúc nào cũng ẩn chứa một vẻ tinh quái. Mái đầu húi cua đã được thay bằng những lọn sóng mềm mại buông xuống cổ áo khoác. Dan O’Leary cúi xuống và nhẹ nhàng hôn lên má Tracy.

“Tớ xin lỗi, Tracy.”

“Dan, suýt nữa thì tớ không nhận ra cậu.” Cô ngạc nhiên.

Anh cười, nói khe khẽ. “Đầu tớ có bạc đi đôi chút nhưng chẳng thông minh hơn tẹo nào đâu.”

“Và cao hơn xưa nữa.” Cô vừa nói vừa ngẩng lên để nhìn anh.

“Tớ là đứa lớn muộn mà. Cao thêm ba mươi phân vào hè năm nhất.”

Gia đình O’Leary chuyển nhà đi khỏi Cedar Grove sau năm học thứ hai của Dan ở trường trung học. Bố anh đã nhận việc ở nhà máy đóng hộp tại California. Đó là một ngày buồn đối với Tracy và những thành viên khác trong nhóm. Dan và Tracy vẫn giữ liên lạc trong một khoảng thời gian sau đó, nhưng hồi đó chưa phải là thời đại của email và tin nhắn. Dần dần họ cũng mất liên lạc với nhau. Tracy vẫn còn nhớ rằng Dan đã tốt nghiệp và học đại học ở khu Bờ Đông. Anh ở lại đó sau khi ra trường, còn bố mẹ anh thì trở lại Cedar Grove khi bố anh nghỉ hưu.

Thorenson tiến đến gần và giới thiệu vị mục sư, Peter Lyon. Vị mục sư có dáng người cao ráo với mái tóc dày màu đỏ và làn da trắng, mặc một bộ áo choàng trắng dài đến mắt cá chân có dây đai màu xanh buộc quanh vùng eo. Trên vai ông ta vắt một dải khăn cùng màu. Tracy và Sarah đều được nuôi dạy như những tín hữu Trưởng Nhiệm*. Sau khi Sarah mất tích, Tracy từ hoài nghi đã trở thành mất hoàn toàn niềm tin vào thần thánh. Cô chẳng hề bước chân vào nhà thờ kể từ khi mẹ cô mất.

Trưởng Nhiệm là một nhánh thuộc cộng đồng Cơ đốc giáo

Lyon gửi lời chia buồn rồi bước tới bên khu mộ và bắt đầu bằng việc ra dấu thánh giá. Ông ta cảm ơn những người đã tới rồi bắt đầu nói to để át tiếng mưa đang rơi trên mái che.

“Ngày hôm nay, chúng ta tới đây để cùng chôn cất hài cốt của người em, người chị của chúng ta, Sarah Lynne Crosswhite. Đây là một sự mất mát lớn của chúng ta và trái tim chúng ta nặng trĩu. Những khi muộn phiền, những khi đau khổ, chúng ta tìm đến với Kinh thánh, những lời của Chúa, để tìm sự bình an và cứu rỗi.” Vị mục sư mở cuốn Kinh thánh và bắt đầu đọc.

Sau khi kết thúc, ông nói tiếp: “Ta là Sự Sống Lại và là Sự Sống, lời Đức ngài nói. Những ai tin vào ta sẽ sống mãi, kể cả khi kẻ đó chết đi; và những ai sống và tin vào ta sẽ không bao giờ chết.” Ông kết thúc bài diễn văn của mình. “Xin mời chị của Sarah, Tracy, lên phát biểu.”

Tracy bước lên bậc thềm của ngôi mộ và hít một hơi thật sâu. Darren Thorenson đưa cho cô chiếc hộp dát vàng rồi đỡ tay cô khi cô quỳ lên một mảnh vải trải trên đất. Cô vẫn có thể cảm thấy sự ẩm ướt thâm qua lớp nilon. Cô đặt hài cốt của Sarah xuống huyệt mộ, nắm một nắm đất ẩm. Tracy nhắm mắt và tưởng tượng thấy Sarah đang nằm bên cạnh cô trên giường, như con bé vân hay làm thế lúc còn nhỏ, hay như khi họ nằm chung giường tại khách sạn mỗi lần thi bắn súng.

Chị Tracy, em sợ!

Đừng sợ! Hãy nhắm mắt vào! Giờ thì hít một hơi thật sâu rồi thả lỏng.

Lồng ngực Tracy căng lên. Mắt cô ướt đẫm nước.

“Tôi không…” Cô thì thầm, cố gắng không òa khóc khi xòe tay để nắm đất rơi xuống chiếc hộp.

Tôi không…

“Tôi không sợ…”

Tôi không sợ…

“Tôi không sợ bóng tối.”

Một con gió chợt thổi qua làm mái che rung rinh. Cơn gió hất tung những lọn tóc trên mặt Tracy. Cô mỉm cười trước những kí ức ấy, rồi lấy tay cài lọn tóc ra sau tai.

“Ngủ đi em!” Tracy thì thầm, gạt giọt nước mắt đang lăn xuống gò má.

Những người có mặt lần lượt thả hoa và đất xuống huyệt mộ để bày tỏ lời chia buồn. Fred Digasparro, ông chủ tiệm cắt tóc, đang được một cô gái trẻ dìu bên cạnh. Bàn tay đã tùng cầm dao cạo râu cho biết bao người giờ đang run rẩy khi nắm lấy tay Tracy. “Bác phải đến.” Ông nói với chất giọng Ý. “Vì cha con. Vì cả gia đình con.”

Sunnie sụt sịt ôm lấy Tracy. Họ đã từng là những người bạn không thể tách rời ở trường tiểu học và trường trung học, nhưng Tracy chẳng thể giữ được liên lạc với cô ấy. Giờ đây, cái ôm của Sunnie dường như không hề dễ chịu, và nước mắt trào ra một cách gượng ép. Sunnie và Sarah chưa bao giờ thân thiết với nhau. Sunnie lúc nào cũng ghen tị với tình chị em của Tracy và Sarah.

“Tớ rất tiếc.” Sunnie nói, lau nước mắt rồi giới thiệu chồng mình, Gary. “Chắc cậu sẽ ở lại đây vài ngày chứ?”

“Tớ không thể.” Tracy nói.

“Vậy thì cùng uống một tách cà phê trước khi đi nhé? Cậu có dư vài phút chứ?”

“Cũng có thể.”

Sunnie đưa cho cô một mảnh giấy. “Số di động của tớ đấy. Nếu cậu có cần gì, bất cứ điều gì.” Sunnie nắm lấy tay Tracy. “Tớ nhớ cậu lắm, Tracy.”

Tracy nhận ra hầu hết những khuôn mặt ở đó, tuy rằng không phải tất cả. Cũng giống như đối với Dan, cô đã phải tìm kiếm dưới những lớp năm tháng để thấy được người mà cô từng biết. Ở cuối đoàn khách viếng, có một người đàn ông mặc vest đi tới, bên cạnh là một người phụ nữ mang bầu. Tracy nhận ra anh ta nhưng không thể nào nhớ nổi tên.

“Chào Tracy! Tôi là Peter Kaufman.”

“Chào Peter!” Cô nói, giờ đã nhận ra cậu bé phải nghỉ học một năm ở trường Tiểu học Cedar Grove vì bệnh bạch cầu. “Dạo này anh thế nào?”

“Tôi ổn.” Kaufman giới thiệu vợ mình. “Chúng tôi sống ở Yakima, nhưng Tony Swanson đã gọi điện và nói cho tôi biết về tang lễ. Chúng tôi đã lái xe tới đây sáng nay.” Anh nói.

“Cảm ơn vì anh đã tới tận đây.” Tracy nói. Yakima ở cách đây những bốn tiếng lái xe.

“Cô đùa đấy ư? Sao tôi có thể không tới? Cuối tuần nào cô ấy cũng tới bệnh viện tặng tôi kẹo cùng sách tô màu hay một cuốn sách để đọc.”

“Tôi nhớ chứ. Giờ anh thế nào rồi?”

“Tôi đã vượt qua bệnh ung thư hơn ba mươi năm. Tôi không thể quên được những gì cô ấy đã làm. Tôi mong chờ cô ấy hằng tuần. Cô ấy đã làm tôi yêu đời. Cô ấy luôn như thế. Cô ấy quả là người đặc biệt.” Nước mắt chực trào ra trong mắt Kaufman. “Tôi rất mừng vì họ đã tìm thấy cô ấy, Tracy. Tôi cảm kích vì cô đã cho chúng tôi cơ hội để nói lời tạm biệt cô ấy.”

Họ nói chuyện với nhau thêm vài phút. Khi Peter Kaufman rời đi, Tracy đã nước mắt lưng tròng. Dan, người đang giữ một khoảng cách đủ tôn trọng với Tracy khi cô tiếp đón khách viếng, liền bước tới và đưa cho cô một chiếc khăn tay.

Tracy nén lại cảm xúc của mình và chấm nước mắt. Khi đã bình tĩnh lại một chút, cô mới quay về phía anh.

“Tớ chưa hiểu, tớ nghĩ cậu sống ở miền Đông. Sao cậu biết mà tới?”

“Đúng là tớ từng sống ở miền Đông, ngay phía ngoài Boston. Nhưng tớ đã quay lại đây. Giờ tớ sống ở đây – thêm một lần nữa.”

“Ở Cedar Grove?”

“Đó là cả một câu chuyện dài. Tớ nghĩ cậu nên nghỉ ngơi một chút, đừng nghĩ về quá khứ nữa.” Dan đưa cho cô một tấm danh thiếp rồi ôm lấy cô. “Tớ sẽ kể cho cậu nghe khi nào cậu cảm thấy muốn. Hãy nhớ rằng tớ rất lấy làm tiếc, Tracy. Tớ rất yêu quý Sarah. Tớ thật lòng đấy!”

“Khăn tay của cậu này.” Cô định trả lại chiếc khăn.

“Cậu có thể giữ nó.” Dan nói.

Cô nhìn thấy trên chiếc khăn được thêu những chữ cái đầu trong tên anh, DMO. Nó làm cô chú ý hơn tới những đường may trên bộ đồ và chất lượng chiếc cà-vạt của anh. Từng làm việc với nhiều luật sư, cô biết rằng cả hai thứ đó đều rất đắt tiền. Nó chẳng hề hợp với hình ảnh cậu bé mà cô biết, một đứa trẻ vẫn hay mặc đổ cũ của người khác. Cô liếc xuống tấm danh thiếp của anh. “Cậu là một luật sư.” Cô nói.

Anh nháy mắt với cô. “Đang trở lại.”

Trên tấm thiếp có ghi địa chỉ của tòa nhà Ngân hàng Quốc gia Đệ Nhất trên Phố Chợ ở Cedar Grove.

“Tớ sẽ muốn nghe kể về chuyện này đây, Dan.”

“Hãy gọi điện cho tớ.” Anh mỉm cười nhẹ nhàng trước khi mở một chiếc ô rồi bước từ mái che ra ngoài cơn mưa.

Kins cùng Laub và Faz tiến đến gần. “Cô có muốn chúng tôi lái xe về cùng không?”

“Tôi biết có một quán ăn rất ngon trên đường về.” Faz nói.

“Cảm ơn các anh.” Cô nói. “Nhưng tôi sẽ ở lại đây thêm một đêm.”

Kins thắc mắc: “Tôi tưởng cô muốn quay về Seattle luôn?”

Cô nhìn về hướng Dan. Anh đang đi tới chiếc SUV, mở cửa xe, cất cái ô rồi bước vào trong.

“Kế hoạch của tôi vừa thay đổi.”