← Quay lại trang sách

CHƯƠNG 17

Tài sản của Ngân hàng Quốc gia Đệ Nhất thực chất gắn liền với tài sản của Christian Mattioli. Nó đã được thành lập để bảo vệ gia tài khổng lồ của những người đứng đầu công ty khai thác Cedar Grove, bao gồm chính Mattioli. Ngân hàng đã gần như phá sản sau khi khu mỏ đóng cửa, còn Mattioli cùng những kẻ bám gót thì rời khỏi thị trấn. Người dân còn ở lại Cedar Grove đành tụ họp với nhau, chuyển những khoản tiền tiết kiệm và những khoản séc cho ngân hàng để đổi lấy những khoản vay làm ăn nhỏ và tiền thế chấp. Tracy không rõ ngân hàng đóng cửa hẳn và rời khỏi tòa nhà này từ lúc nào. Nhìn dãy bàn đăng ký bên trong căn sảnh vắng, có thể biết rằng nơi này đã từng rất đông đúc và náo nhiệt. Tòa nhà hai tầng được chia thành nhiều khu làm việc nhỏ, hầu hết trong số chúng giờ đây vắng bóng người.

Cô leo lên những bậc cầu thang phía bên trong, nhìn xuống dưới mặt sàn khảm gốm sứ tỉ mỉ. Đó là hình một con đại bàng nước Mỹ đang quắp cành ô liu ở chân phải và mười ba mũi tên ở chân trái. Bụi đã phủ dày trên mặt sàn, đây đó điểm xuyết một vài cái thùng giấy vứt chỏng chơ và vài mảnh kính vỡ. Cô nhớ về những quầy thu ngân, những chiếc bàn làm việc của nhân viên ngân hàng và những chậu cây dương xỉ mọc um tùm. Cha cô đã dắt cô và Sarah đến đây để mở tài khoản tiết kiệm đầu tiên trong đời. Giám đốc ngân hàng, John Waters, đã kí tên và đóng dấu vào sổ của các cô.

Tracy tìm thấy văn phòng của Dan trên tầng hai. Cô bước đến quầy tiếp tân nhỏ xíu không có ai ngồi. Một tấm biển nói với cô rằng xin hãy nhấn chuông. Cô vỗ vào cái chuông bằng cả lòng bàn tay mình, tạo nên một tiếng vang đinh tai. Dan bước ra trong chiếc áo sơ-mi sọc xanh trắng, chiếc quần kaki và đôi giày da. Cô vẫn khó có thể chấp nhận rằng người đàn ông đang đứng trước mặt đã từng là cậu bé cô từng biết ở Cedar Grove.

Anh cười. “Cậu tìm được chỗ đỗ xe chứ?”

“Chẳng phải ngoài kia có rất nhiều chỗ để lựa chọn sao?”

“Hội đồng Thành phố muốn lắp đặt máy thu tiền đỗ xe tự động. Có ai đó đã tính toán và bảo rằng phải mất ít nhất mười năm mới thu hồi được vốn. Ta vào trong đi!”

Dan dẫn cô vào trong căn phòng làm việc hình bát giác được ốp ván chân tường và khuôn gỗ ép trang trí sẫm màu. “Đây từng là phòng làm việc của giám đốc ngân hàng.” Anh nói. “Tớ phải trả thêm mười lăm đô-la mỗi tháng cho nó.”

Sách luật xếp đầy trên giá, nhưng cô biết rằng chúng hầu như chỉ để trang trí. Mọi thứ giờ đây đều được truy cập trực tuyến trên mạng. Chiếc bàn được chạm trổ của Dan hướng về phía khung cửa sổ vòm nơi vẫn đang gắn những con chữ màu đỏ và vàng tùng được dùng để xếp thành dòng chữ Ngân Hàng Quốc Gia Đệ Nhất. Đứng ở cửa sổ, Tracy có thể nhìn xuống dưới Phố Chợ. “Cậu có nhớ chúng ta đã đạp xe qua con phố này bao nhiêu lần không?” Cô hỏi.

“Nhiều không đếm xuể. Cứ đến hè là ngày nào chúng ta chẳng đi qua.”

“Tớ nhớ cái hôm cậu bị xịt lốp xe.”

“Chúng ta rủ nhau đi lên núi để trèo dây đu.” Anh nói. “Sarah đã mua cho tớ ống săm và giúp tớ sửa xe.”

“Tớ nhớ chứ, con bé đã dùng tiền của chính mình.” Tracy vừa nói vừa quay đi khỏi cửa sổ. “Tớ rất lấy làm ngạc nhiên khi cậu lại quay về đây sinh sống.”

“Đến chính tớ còn phải ngạc nhiên.”

“Cậu nói đó là một câu chuyện dài?”

“Rất dài. Và không hề thú vị. Cậu dùng cà phê chứ?”

“Cảm ơn. Tớ đang phải hạn chế uống cà phê.”

“Tớ tưởng cà phê là điều kiện tiên quyết để trở thành cớm?”

“Đó là bánh vòng. Thế còn luật sư các cậu ăn gì?”

“Ăn thịt lẫn nhau.”

Họ ngồi xuống bên cái bàn tròn cạnh cửa sổ. Một cuốn sách được chèn vào khung kính trượt của ô cửa sổ bên dưới để không khí trong lành có thể thổi vào trong căn phòng.

“Thật vui khi gặp lại cậu, Tracy. Với cả, trông cậu tuyệt lắm!”

“Tớ nghĩ cậu nên sắm vài bộ kính áp tròng mới. Tớ trông như một thảm họa vậy, nhưng dẫu sao cũng cảm ơn cậu vì đã nói thế.” Nhận xét của anh càng khiến cô thêm tự ti về ngoại hình của mình. Việc ở lại thêm một đêm không có trong kế hoạch của cô nên cô cũng chẳng mang theo nhiều đồ để thay.

Trước khi rời Seattle, cô đã ném một cái quần bò, một đôi giày, một chiếc áo cánh và cái áo khoác nhung kẻ vào trong xe để thay sau tang lễ của Sarah. Cô phải mặc lại bộ đồ đó vào sáng hôm nay. Trước khi rời khỏi phòng khách sạn, cô đã đứng trước gương phân vân xem có nên buộc tóc đuôi ngựa hay không, nhưng sau khi nhận ra kiểu tóc đó chỉ làm lộ rõ những vết chân chim trên mặt mình, cô đã để tóc xòa.

“Vì sao cậu lại trở về đây?” Cô hỏi

“Đó là sự kết hợp của rất nhiều lý do. Tớ đã phát ngán khi phải làm việc trong công ty luật ở Boston. Ngày nào cũng phải làm quần quật, cậu biết đây. Tớ đã tích cóp được đủ tiền nên muốn thử một việc gì đó hoàn toàn mới. Vợ tớ có vẻ cũng chung ý tưởng với tớ, muốn thử một người đàn ông mới.”

Tracy nhăn mặt. “Tớ rất lấy làm tiếc.”

“Ừ, tớ cũng vậy.” Dan nhún vai. “Khi tớ ngỏ ý thôi không làm luật sư nữa, cô ấy cũng bảo rằng chúng tớ nên thôi ở bên nhau. Cô ấy đã ngủ với một trong những người cộng sự của tớ suốt một năm trời. Cô ấy đã quen với lối sống của một người năng tham gia các câu lạc bộ thể thao ngoài trời và sợ phải từ giã nó.”

Dan có vẻ đã vượt qua được nỗi đau khổ, hoặc anh đang che giấu nó một cách rất tài tình. Tracy biết rằng có những nỗi đau chăng bao giờ hàn gắn được. Người ta chỉ kìm hãm nó dưới một lớp ngụy trang có vẻ bình thường mà thôi.

“Hai người đã kết hôn bao lâu?”

“Mười hai năm.”

“Cậu có con chứ?”

“Không.”

Cô ngồi lùi lại. “Vậy tại sao cậu lại chọn Cedar Grove? Tại sao không phải là chỗ nào khác.

Anh nở một nụ cười cam chịu. “Tớ cũng đã nghĩ tới việc đi San Francisco hay dời đến Seattle, nhưng rồi bố tớ mất còn mẹ tớ thì ốm nên cần phải có ai đó chăm sóc cho bà. Vì vậy tớ về nhà, nghĩ rằng việc này cũng chỉ là tạm thời. Sau một tháng, tớ nghĩ rằng tớ sẽ chết vì buồn chán nếu không làm việc gì khác, thế nên tớ kiếm một tấm biển để treo lên. Những chuyện mà tớ giải quyết chủ yếu là lập di chúc, phân chia tài sản thừa kế, một vài vụ lái xe khi đã uống rượu bia cùng những chuyện nhàm chán khác mà người ta sẵn sàng trả một ngàn năm trăm đô-la.”

“Thế còn mẹ cậu?”

“Bà ấy đã qua đời sáu tháng trước.”

“Tớ rất lấy làm tiếc.”

“Tớ rất nhớ bà, nhưng tớ và mẹ cũng đã có thời gian để hiểu về nhau hơn. Tớ rất biết ơn điều đó.”

“Tớ thật ghen tị với cậu.”

Lông mày của anh cau lại. “Sao cậu lại nói thế?”

“Khi Sarah mất tích, mối quan hệ giữa mẹ tớ và tớ chẳng còn như trước, và rồi đến lúc bố tớ…” Cô bỏ ngỏ câu nói và Dan cũng không hề thúc giục cô nói nốt. Điều đó làm cô thắc mắc về việc anh đã biết những gì.

“Đó quả là một thời gian kinh khủng với cậu.”

“Đúng vậy.” Cô nói. “Nó thật tệ.”

“Tớ hy vọng ngày hôm qua có thể đem lại một cái kết cho câu chuyện.”

“Cũng một phần.” Cô nói.

Dan đứng dậy. “Cậu có chắc là không muốn uống cà phê không?”

Cô nhịn cười, nhìn anh trở lại với hình ảnh cậu bé không thích nói nhiều và thường chuyển chủ đề nhanh chóng. “Tớ nói thật mà, tớ ổn. Hãy kể cho tớ nghe cậu đã làm những gì từ khi theo đuổi ngành luật?”

Dan lại ngồi xuống và đặt tay lên đùi. “Ban đầu, tớ hoạt động ở bên chống độc quyền. Rồi tớ nhận thấy rằng mình thật sự có thể chết vì buồn chán. Sau đó, một người cộng sự mời tớ tham gia một vụ cổ cồn trắng* và tớ thấy khá là thích nó. Tớ cũng tự nhận thấy mình rất hợp để đứng trước tòa.” Anh vẫn đang nở nụ cười trẻ con.

Cổ cồn trắng là loại vụ án có liên quan đến kinh tế, tham nhũng.

“Tớ cá rằng bồi thẩm đoàn yêu cậu lắm.”

“Yêu là một từ hơi mạnh.” Anh nói. “Tôn sùng thì có thể.” Anh tiếp tục cười và cô lại nhìn thấy hình bóng cậu bé trong đó. “Tớ đã bào chữa cho CEO của một tập đoàn lớn. Tớ đã giành được một lời tuyên án có lợi cho thân chủ. Sau đó, tất cả các luật sư khác trong công ty có khách hàng ‘lỡ tay ăn vụng’ hay uống quá chén trong tiệc Giáng sinh đều tìm đến gặp tớ. Dần dần, những vụ án cần tớ bào chữa ngày một lớn hơn. Đến khi tớ kịp nhận ra thì tớ đã quen với công việc đó tự bao giờ.” Nói rồi, anh nghiêng đầu như thể dò xét cô. “Giờ tới lượt cậu. Điều tra viên án mạng ư? Chà chà! Thế chuyện gì đã xảy ra với việc dạy học?”

Cô xua tay. “Chắc cậu không muốn nghe về chuyện đó đâu.”

“Thôi nào! Cậu bảo cái gì người ta làm được mình cũng làm được. Chẳng phải trở thành giáo viên ở trường Trung học Cedar Grove rồi nuôi dạy con mình ở đó là ước mơ của cậu sao?”

“Đừng đùa như vậy.”

Anh tỏ vẻ chê trách. “Này, giờ tớ sống ở đây rồi. Lúc nào cậu cũng nói cậu sẽ đi dạy học, rồi cậu và Sarah sẽ sống cạnh nhau.”

“Tớ có đi dạy học trong một năm.”

“Ở trường Trung học Cedar Grove?”

“Người Sói Chiến Đấu.” Cô nói và khum tay thành hình móng vuốt.

“Đê tớ đoán, dạy môn Hóa phải không?”

Tracy gật đầu. “Giỏi lắm!”

“Chúa ơi, cậu quả là đồ mọt sách!” Anh nói.

Cô giả vờ xấu hổ. “Tớ là mọt sách à? Thế còn cậu là gì?”

“Tớ là thằng ngốc. Mọt sách thì thông minh. Hai kiểu người khác biệt. Cậu đã kết hôn chưa? Có con không?”

“Tớ đã li hôn rồi.” Cô nói. “Cũng không có con.”

“Tớ hy vọng cuộc hôn nhân của cậu có cái kết tốt đẹp hơn của tớ.”

“Tớ cũng không chắc lắm, nhưng ít nhất cuộc hôn nhân của tớ rất chóng vánh. Anh ấy cảm thấy như thể tớ đang ngoại tình.”

“Cảm thấy?”

“Vì Sarah.”

Dan ném về phía cô một ánh mắt đây thắc mắc.

Cảm thấy đã đúng thời điểm để nói, cô tiếp tục: “Tớ rời bỏ nghề giáo để gia nhập Học viện Cảnh sát, Dan. Tớ đã điều tra vụ án của Sarah trong hơn mười năm.”

“Ồ!” Anh nói.

Cô với lấy chiếc cặp tài liệu của mình rồi bày những thứ mà cô đem theo lên bàn. “Tớ có những chiếc thùng giấy chứa đầy lời khai của nhân chứng, biên bản phiên tòa, báo cáo của cảnh sát, báo cáo bằng chứng, tất cả mọi thứ. Cái duy nhất mà tớ thiếu là bản giám định hiện trường nơi chôn xác. Giờ tớ đã có nó.”

“Tớ vẫn chưa hiểu. Họ đã kết án một kẻ nào đó, đúng không?”

“Edmund House.” Cô nói. “Một gã có tiền án cưỡng dâm đã được ân xá. Hắn sống cùng người chú của mình tại vùng núi bên ngoài thị trấn. Kết tội House là một chuyện dễ dàng, Dan. Hắn đã phải ngồi tù sáu năm ở nhà tù Walla Walla sau khi nhận tội quan hệ tình dục với một học sinh trung học mười sáu tuổi. Lúc đó hắn mới mười tám. Ban đầu, hắn đã bị buộc tội cưỡng dâm cấp độ một, bắt cóc và hành hung. Tuy nhiên, một tranh cãi pháp lý đã dấy lên xung quanh tính xác thực của một vài bằng chứng cụ thể tìm thấy trong cái lán nơi hắn giam giữ cô gái.”

“Nó không xác đáng à?”

“Tòa án nói rằng cái lán cũng là một phần của căn nhà, và cảnh sát cần phải có giấy phép để được khám nhà. Vậy nên bằng chứng bị mất hiệu lực và một thẩm phán đã bác bỏ nó. Công tố viên nói rằng ông ấy không có lựa chọn nào khác ngoài việc đưa ra lời xin lỗi. Sau khi Sarah biến mất, Calloway đã nhắm vào House ngay từ đầu. Nhưng ông ấy không có bằng chứng cụ thể nào để bác bỏ chứng cứ ngoại phạm của House. Hắn nói hắn đang ngủ trong nhà vào cái đêm Sarah mất tích. Chú của hắn thì đang làm ca đêm ở xưởng.”

“Vậy điều gì đã khiến cho cục diện thay đổi?” Dan hỏi.

Đã bảy tuần trôi qua kể từ khi Sarah mất tích. Tracy mở cửa và nhìn thấy Roy Calloway đang đứng ở ngoài với vẻ mặt lo lắng.

“Bác cần nói chuyện với bố cháu.” Ông nói, bước qua mặt Tracy và gõ cửa phòng làm việc của James Crosswhite. Không thấy ai trả lời, ông đẩy cánh cửa qua một bên. Cha cô ngẩng đầu dậy khỏi bàn làm việc, hai mắt đỏ ngầu và lờ đờ. Tracy bước vào, dọn cái cốc cùng chai Scotch đang mở trên bàn của ông.

“Bác Roy đang ở đây, bố ơi!”

Cha cô phải mất một lúc mới đeo được cặp kính lên. Ông nheo mắt trước ánh nắng đang xuyên qua khung cửa sổ kính mờ. Ông đã không cạo râu nhiều ngày liền. Mái tóc của ông rối bời và mọc dài quá cổ chiếc áo sơ-mi nhăn nhúm và hoen ố ông đang mặc. “Mấy giờ rồi?”

“Có lẽ chúng ta sẽ có tiến triển.” Calloway nói. “Một nhân chứng.”

Cha cô đứng phắt dậy, loạng choạng chống tay vào mép bàn để giữ thăng bằng. “Ai?”

“Một người bán hàng đã lái xe về Seattle vào cái đêm Sarah mất tích.”

“Anh ta đã nhìn thấy con bé?” James Crosswhite hỏi.

“Anh ta nói đã thấy một chiếc xe tải màu đỏ trên xa lộ quận. Một chiếc xe tải Chevy mui trần. Anh ta cũng nói rằng đã nhìn thấy một chiếc xe tải màu xanh đỗ bên sườn đồi.”

“Tại sao anh ta không ra mặt sớm hơn?” Tracy thắc mắc. Những dòng tin vắn về Sarah đã bị gỡ xuống từ lâu.

“Anh ta không biết về nó. Anh ta đi công tác hai mươi lăm ngày mỗi tháng, đợt này nối tiếp đợt khác. Anh ta nói rằng đã nhìn thấy bản tin về cuộc điều tra và nó đã giúp anh ta gợi lại trí nhớ. Anh ta bèn gọi điện đến đồn cảnh sát để báo cáo.”

Tracy lắc đầu. Cô đã theo dõi tất cả các bản tin trong vòng bảy tuần và không hề thấy có điều gì mới. “Bản tin nào?”

Calloway liếc nhanh về phía cô. “Chỉ là một tin vắn.”

“Ở kênh nào?”

“Làm ơn, Tracy!” Cha cô xua tay. “Như thế cũng đủ, phải không? Sẽ có căn cứ để nghi ngờ bằng chứng ngoại phạm của hắn.”

“Vance đang gửi lại yêu cầu xin được khám nhà và chiếc xe. Phòng Nghiên cứu tội phạm Sở Cảnh sát Bang Washington đang trực sẵn ờ Seattle rồi.”

“Bao lâu thì chúng ta biết kết quả?” Cha cô hỏi.

“Chỉ tầm một tiếng.”

“Làm thế nào mà tới tận bây giờ tay bán hàng đó mới biết về vụ này?” Tracy vẫn thắc mắc. “Chuyện này đã được phát đi trên khắp các bản tin trong vùng. Chúng ta đã dán tờ rơi. Anh ta còn chẳng để ý đến bảng thông báo treo thưởng mười ngàn dô la của chúng ta sao?”

“Anh ta đi công tác.” Calloway nói. “Anh ta không ở nhà.”

“Tới tận bảy tuần?” Cô quay sang nói với cha. “Chuyện này thật vô lí! Chắc hắn ta chỉ đang muốn vòi tiền.” Cha cô cùng vài người khác trong thị trấn đã treo thưởng mười ngàn đô-la cho bất kỳ ai cung cấp thông tin giúp bắt giữ và kết tội kẻ đã hãm hại Sarah.

“Tracy, con hãy về nhà và đợi.” Cha cô chưa từng coi căn phòng trọ mà cô thuê khi bắt đầu đi dạy ở trường Cedar Grove là nhà của cô. “Bố sẽ gọi cho con khi chúng ta có thêm thông tin.”

“Con không muốn đi đâu hết. Con muốn ở lại đây.”

Ông kéo cô ra phía cánh cửa. Sự cứng rắn của cha khi nắm tay cô cho cô biết rằng đây không phải là một quyết định có thể cãi lại được. “Bố sẽ gọi điện ngay khi bố biết thêm bất kỳ điều gì.” Nói rồi, ông đóng sập cánh cửa đằng sau cô. Cô nghe thấy tiếng bấm khóa kêu ‘tách’ một cái.