Chương bốn
Như thế, có thể thấy chuyện tâm thức sáng tạo của người phụ nữ ở thế kỷ XVI là điều hiển nhiên không thể xảy ra. Người ta chỉ cần nghĩ đến những mộ bia thời Elizabeth với những đứa trẻ quỳ gối, hai tay siết chặt nhau; những cái chết yểu; và nhìn vào bên trong nhà cửa chúng sinh sống, những căn phòng tăm tối, chật hẹp, để thấy rằng không người phụ nữ nào sinh sống vào thời đó có khả năng làm thơ. Có lẽ, điều hoạ may tìm thấy là vào những thời kì sau, khi người phụ nữ được hưởng chút tự do tương đối và có người đàn bà xuất sắc nào đó lợi dụng cơ hội này xuất bản cái gì đó mang tên mình và chấp nhận chuyện mình bị gọi là quái vật. Dĩ nhiên, đàn ông không phải là lũ kiểu cách, hợm hĩnh, tôi tiếp tục trong lúc thận trọng né tránh, không đụng chạm đến “chủ nghĩa nữ quyền chính hiệu” của Rebecca West; nếu có bà nữ bá tước nào nổi hứng muốn trở thành thi sĩ thì chắc họ sẽ mở lòng thương hại mà gật gù tán dương. Người ta có thể nhận ra một mệnh phụ có chức tước sẽ gặp thuận lợi hơn nhiều, được khuyến khích tối đa, so vui mầm non Austen hay Brontë thời chưa nổi tiếng. Nhưng người ta cũng có thể nhận ra tâm hồn bà bị bối rối bởi những cảm xúc xa lạ như sợ hãi, thù ghét và thơ của bà cho thấy dấu vết nỗi bối rối đó. Thí dụ đây là trường hợp của Lady Winchilsea [53] , tôi nghĩ thế trong lúc lấy xuống cuốn thơ của bà. Bà sinh năm 1661 trong một gia đình thuộc giai cấp quý tộc, chồng bà cũng là người như thế; bà không con; bà làm thơ, và người ta chỉ cần giở thơ bà ra là thấy nỗi bi phẫn của bà bùng nổ như thế nào trước thân phận bèo bọt của người phụ nữ:
Cách nào chúng ta gục ngã! Gục ngã bởi những phép tắc sai lầm,
Và sự điên khùng trong giáo dục nhiều hơn là tự nhiên ;
Bị tước đoạt mọi thăng tiến trí tuệ,
Để trở nên tối tăm tôi đòi và thụ động ;
Và nếu có kẻ vượt trội bay cao,
Với tâm tưởng ấm áp và tham vọng vươn lên,
Vẫn xuất hiện phái đối nghịch mạnh mẽ đến nỗi,
Niềm hi vọng thăng hoa bị nhấn chìm bởi nỗi khiếp sợ.
Rỗ ràng, trí tuệ bà không hề “gạt đi mọi chướng ngại và cháy sáng”. Ngược lại là đằng khác, nó bị sự thù ghét và bất bình nhũng nhiễu, quấy rối. Với bà nhân loại chia tách làm hai phái. Đàn ông là “phái đối nghịch”, đàn bà thù ghét và sợ hãi đàn ông, bởi họ có quyền lực cản trở bà thực hiện điều bà mong ước - đó là viết.
Hỡi ơi! Người đàn bà thử cầm lên cây bút,
Là sinh vật nổi bật được trọng vọng
Nhưng chẳng cách nào chuộc nổi lỗi lầm.
Họ bảo chúng tôi lộn giống và lầm dường ;
Đẻ con cho tốt, chăm chút ăn mặc, khiêu vũ, quần áo, chơi đùa,
Là những thành quả chúng tôi nên hướng tới ;
Viết, đọc, nghĩ suy hay học hỏi
Chỉ làm mờ nhạt nhan sắc, chiếm hết thời gian,
Và ngăn trở bước đường chinh phục sự hoàn hảo.
Trong khi việc nhà việc cửa bề bộn
Ngưng trệ bởi cái nghệ thuật cùng tận của chúng tôi .
Quả thế, bà đã phải tự khuyến khích bằng cách nghĩ những gì bà viết sẽ không bao giờ được xuất bản; bà tự vuốt ve an ủi mình bằng những vần thơ buồn bã:
Bạn hỡi bởi nỗi buồn của bạn tôi lên tiếng hát,
Cho khu vườn nguyệt quế bạn chẳng bao giờ muốn vào
Hãy ẩn thân trong bóng tối nơi bạn tìm thấy niềm vui .
Điều hiển nhiên, phải chi bà gạt bỏ sự thù ghét và nỗi sợ hãi ra khỏi đầu óc mình, đừng chồng chất trong đó những nỗi niềm cay đắng và oán ghét thì có lẽ ngọn lửa trong bà đã có cơ hội bừng lên cháy bỏng. Thi thoảng vẫn có những dòng thuần tuý thi ca:
Cũng không sáng tạo trên dải lụa phai màu
Nhạt nhòa đóa hồng tuyệt mĩ.
Là những vần thơ Murray và Pope [54] hết lòng ca ngợi, những vần thơ người ta nghĩ đến, nhớ đến và muốn giữ làm của riêng:
Giờ đây đóa hoa trường thọ chiến thắng khối óc yếu đuối,
Chúng ta ngất đi dưới cơn đau thơm ngát mùi hương.
Thật đáng tiếc nghìn lần người đàn bà viết những vần thơ như thế, người có khả năng hòa nhịp trí tuệ mình với thiên nhiên và suy nghiệm, lại bị đẩy vào cảnh huống phải viết những dòng chữ bi phẫn, cay đắng. Nhưng bà biết làm sao hơn? Tôi hỏi, trong lúc nghe văng vẳng bên tai tiếng cười nhạo báng cay độc, tưởng tượng ra lời nịnh hót của những kẻ quen thói xu phụ, và sự nghi hoặc của những nhà thơ chuyên nghiệp. Chắc là bà tự khóa mình trong phòng riêng để làm thơ, và tâm tư bà bị giằng xé giữa nỗi niềm cay đắng và sự ngại ngùng, có lẽ bởi chồng bà là người vô cùng tử tế và cuộc sống hôn nhân của bà hoàn hảo. Tôi nói “chắc là” bởi khi đi tìm kiếm dữ kiện về Lady Winchilsea, cũng như mọi lần khác, người ta chẳng thấy điều gì nói về bà. Bà bị chứng trầm cảm nặng nề, điều này chúng ta có thể giải thích ít nhất trong phạm vi nào đó, khi chúng ta bắt gặp bà tâm sự, giữa gọng kềm của nỗi buồn bà tưởng tượng:
Người ta bóp méo chữ nghĩa tôi, tưởng tượng việc làm tôi
Và bảo đó là sự điên rồ vô bổ hoặc sai trái quá mức.
Việc bà làm bị lên án, thật ra nó vô hại, nó chỉ là chuyện bà đi lang thang ngoài cánh đồng và mơ mộng những điều không thật:
Tay tôi vui sướng vẽ ra những vật lạ thường
Và lạc khỏi con đường cũ mòn quen thuộc
Cũng không sáng tạo trên dải lụa phai màu
Nhạt nhòa đóa hồng tuyệt mĩ.
Tự nhiên thôi, nếu đó là đam mê của bà, cái bà yêu thích, bà sẽ bị cười chê vào mặt; và quả thế, Pope hoặc Gay [55] là người giễu cợt bà, gọi bà là “cái tất dài màu xanh với bàn tay ngứa ngáy viết nhăng viết cuội”. Người ta cũng bảo bà bày tỏ những lời lẽ có ý xúc xiểm chế nhạo Gay. Bà tuyên bố tác phẩm Trivia của Gay chứng tỏ “ông là người đi trước mũi cái xe ngựa chứ không ngồi trên xe”. Murray bảo đây là những điều “đàm tiếu tầm phào đáng ngờ, chẳng có gì thú vị”. Nhưng tôi không đồng ý với ông, bởi tôi muốn có thêm nhiều điều tầm phào đáng ngờ hơn thế nữa để có thể tìm lại hoặc vẽ ra hình ảnh nào đó về nữ sĩ sầu muộn này, người thích đi lang thang ngoài đồng nội và nghĩ ngợi những điều lạ thường, người khinh ghét, một cách hấp tấp và khờ dại, “việc nhà cửa buồn chán, hầu hạ kẻ trên người dưới”. Murray bảo bà trở nên tan loãng. Tài năng của bà mọc lên và tăng trưởng như cỏ cây ngoài đồng nội. Cho dù nó là tài năng hiếm quý thật đấy nhưng nó chẳng bao giờ có cơ hội phơi bày. Thế là, tôi đặt bà nằm lại kệ sách rồi chuyển sang nữ sĩ khác, một công nương mà Lamb rất yêu quý, công nương Margaret của vùng Newcastle, người đàn bà lập dị ngông nghênh, lại còn nghễnh ngãng, quên trước quên sau, nhiều tuổi hơn Lady Winchilsea nhưng sống cùng thời. Hai người khác nhau nhiều lắm nhưng giống nhau ở một điểm, đó là cả hai đều thuộc giai cấp quý tộc và không có con, cả hai đều có những người chồng đức độ bậc nhất. Cả hai đều say mê thi ca và đều bị nó xé rách tả tơi. Giở trang sách của công nương, người ta tìm thấy những phẫn nộ bùng nổ tương tự. “Đàn bà sinh sống như loài dơi, loài cú, lao lực như loài vật, và chết như loài giun dế…” Margaret có lẽ cũng là thi sĩ; ở thời đại chúng ta, tất cả những hoạt động đó có lẽ đủ sức vận chuyển cái bánh xe nào đó. Còn về phần bà, làm sao có thể làm loá mắt, chế ngự, giáo hóa cho ích lợi nhân quần cái trí tuệ phong phú nhưng nguyên sơ, hoang dại kia? Tự nó cứ thế tuôn trào, hỗn độn bừa bãi, hết đợt này đến đợt kia, nhịp điệu và lời văn, thơ và triết lí, tất cả nằm im lìm đông cứng trong những mảnh giấy gấp tư gấp hai, chẳng bao giờ có người mở ra đọc. Lẽ ra, bà phải có kính hiển vi trong tay. Lẽ ra, bà phải được dạy quan sát trăng sao và lí luận khoa học. Trí tuệ minh mẫn của bà bị bỏ rơi và đơn độc tự do phát triển. Không ai kiểm soát bà. Không ai dạy dỗ bà. Các ông giáo sư thì nịnh nọt bà. Nhưng họ chế nhạo bà ở cung điện. Sir Egerton Brydges [56] than thở về phong cách thô lậu của bà - “một công nương cao quý sinh trưởng giữa chốn triều đình. Thế là bà về Welbeck và tự giam mình giữa bốn bức tường, chọn kiếp sống cô độc.
Thật là hình ảnh khiếp hãi gieo vào đầu óc khi tưởng tượng ra sự cô độc và những ý tưởng nổi loạn chống phá của Margaret Cavendish [57] , như thể có quả dưa chuột khổng lồ nào đó rơi xuống đè bẹp dí những khóm hồng và cẩm chướng. Thật là uổng phí khi người đàn bà viết câu “người phụ nữ tiết hạnh nhất là người có đầu óc lễ độ nhất” lại đi phí phạm thời gian viết những điều tầm phào lăng nhăng và càng lúc càng chìm sâu vào quên lãng, cho đến một hôm, bà ra khỏi nhà và người ta bu đen quanh xe ngựa của bà. Hiển nhiên, bà công nương điên loạn biến thành ngáo ộp để cha mẹ các cô gái ngoan hiền đem ra dọa nạt con mình. Đến đây, tôi nhớ tôi tạm cất đi bà công nương và giở những lá thư của Dorothy Osborne [58] viết cho Temple về cuốn sách mới in của công nương Margaret. “Chắc tâm trí người đàn bà đáng thương này khá rối loạn nên bà ta mới cả gan viết sách mà còn viết bằng thể thơ, nếu bị mất ngủ cả nửa tháng trời tôi cũng chẳng làm vậy”.
Đàn bà tiết hạnh không đời nào viết sách, và bởi thế, Dorothy, con người nhạy cảm và sầu muộn, đối nghịch với tính tình công nương Margaret, không hề viết dòng chữ nào. Không thể coi thư từ là tác phẩm được. Người đàn bà có thể viết thư trong lúc ngồi bên giường bệnh của cha mình. Bà có thể viết bên đống lửa trong lúc đám đàn ông trò chuyện và không quấy nhiễu mình. Điều lạ lùng là, tôi nghĩ trong lúc lật những trang văn của Dorothy, một cô gái sống cô độc và không được đến trường lại có tài sắp xếp câu văn và tạo hình cho phong cảnh. Chúng ta hãy nghe cô tung tẩy:
“Sau bữa ăn tối, chúng tôi ngồi nói chuyện văn cho đến lúc có người đặt câu hỏi về ông B. thì tôi bỏ đi. Suốt ngày trời tôi đọc sách và làm lụng đến sáu bảy giờ tối mới ngưng tay, tôi bước chân ra ngoài đến chỗ bãi đất chung gần nhà, nơi có nhiều thiếu nữ trẻ đang chăn cừu, bò, họ ngồi dưới bóng mát, và hát những bài ca trữ tình nhẹ nhàng; tôi đến gần họ so sánh tiếng hát và nhan sắc của họ với cô gái chăn cừu thời cổ tôi đọc được trong sách vở, thì thấy khác biệt nhiều lắm, nhưng tin tôi đi, tôi nghĩ họ là những người hoàn toàn ngây thơ, trong trắng. Tôi bắt chuyện với họ và họ bảo tôi chẳng có gì khiến họ trở thành người hạnh phúc nhất thế gian, nhưng kiến thức họ chẳng có bao nhiêu, trong câu chuyện họ chỉ biết những điều tầm thường nhất. Một cô nhìn quanh quất thấy chú bò của mình xổng chạy xuống ruộng ngô, thế là tất cả đứng lên ùa chạy theo, như thể gót chân họ có gắn đôi cánh. Đầu óc tôi cũng chẳng được lanh lợi gì và khi thấy họ lùa bò về chuồng, tôi nghĩ cũng đến lúc tôi ra về, tôi ra vườn nơi có dòng sông nhỏ và tôi đến ngồi bên bờ sông ước gì có anh ngồi kề bên…”
Đọc qua, người ta không thể không nghĩ cô có phong cách một nhà văn. Nhưng “nếu bị mất ngủ cả nửa tháng trời tôi cũng chẳng làm vậy” - người ta có thể đo lường được những đối lực cản trở người đàn bà viết văn khi người ta nhận ra rằng ngay cả người đàn bà có năng khiếu viết cũng phải buộc mình tin rằng viết sách đồng nghĩa với sự lố bịch, thậm chí nó đồng nghĩa với tình trạng rối loạn tâm thần. Bởi thế, tôi tiếp tục nghĩ trong lúc trả lại tập sách mỏng in những lá thư của Dorothy Osborne lên kệ sách, đã đến lúc chúng ta tìm đến bà Behn [59] .
Với bà Behn, chúng ta đi đến bước ngoặt quan trọng. Chúng ta bỏ lại đằng sau những nữ sĩ không người đọc, không người phê bình; họ viết làm vui cho chính họ mà thôi; hãy nhốt kín họ trong khu vườn chơi riêng với chữ nghĩa sách vở của riêng họ. Chúng ta xuống phố, chen vai thích cánh với dân tình ngoài đường. Bà Behn là người đàn bà tầng lớp trung lưu với tất cả những tính cách hấp dẫn người bình dân như tính trào lộng, sự tràn trề sinh lực và lòng can trường; một người đàn bà do cái chết của người chồng cộng thêm những thất bại riêng đã phải vận hết tâm trí ra kiếm sống. Bà phải làm việc ngang hàng với đàn ông. Và làm việc thật cực nhọc, bà đủ sống. Sức nặng của dữ kiện đó lấn lướt bất kì tác phẩm nào của bà, ngay cả những cuốn tuyệt hay như Một nghìn kẻ tuẫn tiết từ tôi ra hoặc Tình yêu trong chiến thắng huyền thoại , bởi nơi đây là khởi đầu cho tự do suy nghĩ, hay nói cách khác, nó là khả năng mà theo thời gian trí óc sẽ tự do viết những điều nó muốn viết. Bởi nhờ có Aphra Behn, người thiếu nữ có thể bảo cha mẹ cô là, cha mẹ không cần cho con tiền túi nữa; con có thể làm ra tiền bằng ngòi bút của con. Dĩ nhiên, nhiều năm sau đó, câu trả lời vẫn là, ừ, sống cuộc đời như Aphra Behn hả? Chết còn hơn! Và cánh cửa đóng sầm lại nhanh hơn bao giờ. Cái đề tài vô cùng thú vị, giá trị người đàn ông áp đặt lên trinh tiết người đàn bà và ảnh hưởng của nó đến giáo dục, tại đây chính nó gợi ý cho những thảo luận đứng đắn và có thể trở thành chất liệu cho cuốn sách thú vị do bất kì sinh viên hai trường Girton hoặc Newnham muốn đi sâu vào vấn đề này. Hình ảnh Lady Dudley, tay đeo kim cương ngồi giữa muỗi mòng đầm lầy Scotland, có thể đem dùng làm bìa sách. Hôm bà qua đời, tờ Thời báo có đăng mẩu tin và nhắc đến chồng bà, Lord Dudley; ông là “người có nhiều thành công rực rỡ và trình độ thưởng ngoạn cao; ông cũng nhân từ và rộng lượng, nhưng chuyên quyền, độc đoán một cách kì quặc. Ông bắt bà lúc nào cũng phải ăn mặc tề chỉnh, áo dài đủ bộ lệ, ngay cả khi chồng vợ lên cao nguyên săn bắn và trú ngụ nơi căn nhà trọ đèo heo hút gió trên đó; ông mua nhiều nữ trang đẹp cho bà”, tờ báo nói tiếp, “ông cho bà mọi thứ - ngoại trừ tinh thần trách nhiệm”. Thế rồi, Lord Dudley bị đột quỵ và bà phải xắn tay áo cùng lúc chăm sóc ông và quản trị gia sản đất đai. Bà làm công việc đó thật giỏi giang cho đến cuối đời. Sang thế kỷ XIX, chủ nghĩa gia trưởng chuyên quyền kì quặc như thế vẫn tồn tai.
Nhưng hãy trở lại với Aphra Behn. Việc bà làm chứng tỏ, đàn bà kiếm tiền bằng ngòi bút có lẽ chỉ phải hi sinh ở mức độ nào đó; và đàn bà viết văn không hẳn chỉ đơn thuần là dấu hiệu của điên khùng và rối loạn tâm thần; ngược lại là đằng khác, nó có tầm quan trọng thiết thực. Người chồng có thể qua đời hoặc tai hoạ nào đó có thể đột ngột xảy đến cho gia đình. Sang thế kỷ XVIII, có hàng trăm phụ nữ bắt đầu kiếm thêm tiền túi hoặc cứu giúp gia đình bằng cách viết hay dịch tiểu thuyết; đây là những cuốn sách không giá trị, không sách giáo khoa nào nhắc đến chúng nữa nhưng người ta vẫn có thể nhặt lên ở ngã tư Charing với giá bốn xu. Cái hoạt động cực cao của trí tuệ mà sang nửa sau thế kỷ XVIII xuất hiện trong giới phụ nữ - trò chuyện, hội thảo, soạn luận văn về Shakespeare, chuyển ngữ những tác phẩm cổ - hoàn toàn dựa trên dữ kiện vững chắc: đàn bà có thể làm ra tiền bằng viết lách. Chuyện phù phiếm tầm phào, nhờ đồng tiền, trở nên đáng giá. Có thể vẫn có người cười nhạo, châm biếm “cái tất dài màu xanh với bàn tay ngứa ngáy viết nhăng viết cuội”, nhưng không ai chối cãi giờ đây họ có tiền bỏ vào ví. Do đó, vào những năm tháng cuối thế kỷ XVIII, bước tiến thay đổi rõ rệt mà nếu viết lại lịch sử tôi sẽ miêu tả nó đầy đủ hơn và cho nó có tầm quan trọng hơn cả Cuộc viễn chinh của Thập tự quân hay Chiến tranh hoa hồng.
Người đàn bà tầng lớp trung lưu bắt đầu viết văn. Bởi, nếu những tác phẩm như Kiêu hãnh và định kiến, Middlemarch, Villette, Đồi gió hú là cái gì hệ trọng thì còn hệ trọng hơn nhiều là những gì tôi có thể chứng minh sau một giờ đồng hồ thuyết giảng; đó là, người phụ nữ nói chung, chứ không riêng gì các mệnh phụ trong giới quý tộc tự giam mình trong ngôi nhà miền quê giữa giấy tờ và những kẻ xu nịnh, từ lâu đã dùng ngòi bút cống hiến những áng thơ văn. Không có những người đi trước này không có Jane Austen, không có chị em nhà Brontë, không có George Eliot; cũng thế, không có Shakespeare nếu không có Marlowe [60] , không có Marlowe nếu không có Chaucer, và không có Chaucer nếu không có biết bao thi sĩ bị lãng quên đã mở đường, thuần hóa cái hoang dại tự nhiên của ngôn ngữ và biến nó thành nghệ thuật. Bởi, tác phẩm bất hủ không phải là cái gì được khai sinh từ cá thể lẻ loi, duy nhất; nó là kết quả của rất nhiều năm tháng suy nghiệm của cả một tập thể người cộng lại, để từ đó trải nghiệm của số đông ẩn đằng sau tiếng nói cá thể. Đáng lẽ, Jane Austen phải đặt vòng hoa lên mộ Fanny Bumey và George Eliot phải tưởng mộ cái bóng sừng sững của Eliza Carter [61] - người đàn bà lớn tuổi nhưng vô cùng nghị lực, người buộc dây chuông bên thành giường ngủ để có thể dậy sớm học tiếng Hi Lạp. Và tất cả đàn bà, không chừa một ai, nên ra mộ Aphra Behn nằm ở tu viện Westminster, nơi xứng đáng chôn cất bà mặc dù chuyện đó gây xôn xao dư luận không ít, và ném những đóa hoa tươi lên mộ bà, bởi nhờ có bà họ mới được quyền nói ra những gì nung nấu bên trong tâm trí. Nhờ bà - người phụ nữ ẩn khuất và lụy tình - nên tối nay tôi mới có thể đứng đây khuyên các bạn một cách rạch ròi là: Hãy dùng trí tuệ của mình xoay xở năm trăm bảng mỗi năm!
Đến đây, người ta bước sang đầu thế kỷ XIX. Và đây, lần đầu tiên tôi nhìn thấy cả mấy kệ sách dành riêng cho tác phẩm của những cây viết nữ. Nhưng tôi không thể không đặt câu hỏi trong lúc đưa mắt lướt nhanh qua các gáy sách, tại sao tất cả những cuốn sách đó, với rất ít ngoại lệ, đều là tiểu thuyết? Động lực nguyên thủy là thi ca. “Cái đầu tối thượng của bài hát” là một nữ thi sĩ. Ở Pháp cũng như ở Anh quốc, nữ thi sĩ có trước rồi mới đến nữ tiểu thuyết gia. Vả lại, tôi nghĩ trong lúc nhìn lên bốn tên tuổi lẫy lừng, cái gì là điểm tương đồng giữa George Eliot và Emily Brontë? Charlotte Brontë có hiểu rõ Jane Austen không? Ngoại trừ dữ kiện khá xác đáng là cả bốn người không người nào có con, còn lại bốn cá tính tương phản như thế không thể nào gặp gỡ nhau trong cùng căn phòng - mặc dù người ta rất thèm bịa ra buổi gặp gỡ như vậy và tưởng tượng câu chuyện trao đổi giữa họ ra sao. Tuy thế, bởi một động lực lạ lùng nào đó, khi viết, tất cả đều chọn tiểu thuyết làm môi trường sáng tạo. Tôi tự hỏi lí do phải chăng liên quan đến gia cảnh, bởi cả bốn người đều xuất thân từ tầng lớp trung lưu; và với sự kiện mà cô Emily Davies chốc nữa đây sẽ cho chúng ta cái nhìn thật rõ rệt, căn hộ một gia đình trung lưu ở đầu thế kỷ XIX chỉ có duy nhất một căn phòng dùng làm nơi sinh hoạt chung. Nếu người phụ nữ viết văn, cô phải viết ở căn phòng chung này. Và như cô Nightingale phàn nàn dữ dội - “đàn bà chẳng bao giờ có được nửa giờ… gọi là thời gian riêng tư” - cô luôn luôn bị người này người kia ngắt ngang. Dù sao chăng nữa, viết văn xuôi hay tiểu thuyết vẫn dễ dàng hơn làm thơ hay viết kịch. Ít phải tập trung tư tưởng hơn. Jane Austen viết như thế cho đến hết đời. Người cháu trai của bà viết trong tập hồi kí của ông, “Tôi thật ngạc nhiên tự hỏi cách nào bà có thể thực hiện được tất cả những điều này, bởi bà không có phòng học riêng để lui vào, và hầu hết tác phẩm của bà chắc được viết ngay tại căn phòng chung trong nhà, nơi bất cứ người nào cũng có thể vô tình làm bà gián đoạn. Bà cẩn thận không để người hầu kẻ hạ trong nhà, hoặc khách khứa, hoặc bất cứ người nào không phải trong gia đình biết bà đang làm gì” [62] . Jane Austen giấu kín bản thảo, có khi bà còn bọc nó bằng miếng giấy thấm. Rồi nữa, tất cả những cố gắng học hỏi văn chương của người phụ nữ đầu thế kỷ XIX nằm trong hành vi quan sát nhân vật và phân tích tâm lí. Tri giác của chị được giáo dục hàng thế kỷ nhờ ảnh hưởng của căn phòng chung. Cảm xúc của người đời gây ấn tượng nơi chị; những liên hệ cá nhân luôn luôn hiện ra trước mắt. Bởi thế, khi người phụ nữ tầng lớp trung lưu viết văn, chị viết tiểu thuyết như cái gì tự nhiên toát ra từ con người chị, mặc dù, bằng chứng cho thấy, hai trong số bốn nữ nhân vật lẫy lừng tôi nhắc đây, không phải là tiểu thuyết gia tự bản chất. Emily Brontë lẽ ra phải viết kịch thơ; sự trào dâng của bầu trời trí tuệ bao la ở George Eliot lẽ ra chính nó phải tỏa rộng khi động lực sáng tạo du hành trên những biến cố lịch sử hay khắc họa tiểu sử. Tuy vậy, họ đều viết tiểu thuyết; thậm chí người ta có thể đi xa hơn, tôi bảo thế trong lúc cầm xuống cuốn Kiêu hãnh và định kiến từ kệ sách, và kết luận họ viết được những cuốn tiểu thuyết hay. Không kiêu hãnh cũng không gieo nỗi đau cho kẻ khác phái, người ta có thể bảo Kiêu hãnh và định kiến là cuốn sách hay. Dù sao, nếu bị bắt gặp quả tang đang viết Kiêu hãnh và định kiến thì người ta chẳng nên xấu hổ làm gì. Nhưng Jane Austen đã vui sướng vì tiếng kêu cọt kẹt của cái bản lề cửa ra vào và bà kịp giấu bản thảo đang viết dở trước khi có kẻ lạ bước vào phòng. Đối với Jane Austen, có cái gì đó đáng ngờ khi bà viết Kiêu hãnh và định kiến . Và tôi tự hỏi, già sử Jane Austen không phải giấu giếm bản thảo mỗi khi có khách khứa đến nhà thì Kiêu hãnh và định kiến có là cuốn tiểu thuyết hay hơn không? Tôi lật một vài trang sách ra đọc nhưng tuyệt nhiên không thấy dấu hiệu nhỏ nào chứng tỏ hoàn cảnh sinh sống của bà phương hại đến tác phẩm. Có lẽ đó là phép màu lớn nhất. Người đàn bà này sống vào khoảng năm 1800, nhưng trong văn chương của bà không hề thấy sự thù ghét, không cay đắng, không sợ hãi, không chống đối, không rao giảng. Đó là cách mà Shakespear viết, tôi nghĩ trong lúc nhìn lên bộ Anthony và Cleopatra ; và khi người ta so sánh Shakespeare với Jane Austen, có thể người ta muốn nói trí tuệ cả hai người đều có khả năng hóa giải mọi chướng ngại; và bởi lí do đó, chúng ta không hiểu Jane Austen, không hiểu Shakespeare; nhưng cũng bởi chính lí do đó, Jane Austen nhập thân vào từng con chữ bà viết ra, và Shakespeare cũng thế. Nếu Jane Austen phải chịu đựng nỗi khổ do hoàn cảnh đưa đến, thì chẳng qua, đó chỉ là sự hạn hẹp của kiếp sống trói chặt bà mà thôi. Đàn bà thời đó chẳng thể đi đâu một mình. Bà không bao giờ đi du lịch; bà không bao giờ bắt xe buýt ngao du xuyên London hoặc một mình ngồi ăn trưa trong quán. Nhưng có lẽ do bản chất con người bà chẳng bao giờ đòi hỏi điều mình không có. Thiên tư và cảnh ngộ của bà hoàn toàn phù hợp nhau. Nhưng với Charlotte Brontë thì tôi đồ không phải thế, tôi nói trong lúc giở cuốn Jane Eyre trước mặt và đặt nó nằm cạnh cuốn Kiêu hãnh và định kiến .
Tôi giở chương mười hai và mắt tôi bắt gặp câu “Bất cứ ai cũng có thể đổ lỗi lên tôi nếu muốn”. Họ đổ lên đầu Charlotte Brontë tội lỗi gì? Tôi thắc mắc. Và tôi đọc tiếp, Jane Eyre thường trèo lên mái nhà lúc bà Fairfax nấu thạch đông và phóng tầm mắt nhìn ra phía cánh đồng xa xa. Rồi cô mơ ước - và đây là lí do tại sao người ta trách mắng cô - “thế rồi tôi ước gì mình có quyền năng vượt qua cái hữu hạn đó để đi đến những chân trời xa lạ, những thành thị đông đúc, những miền đất đầy sức sống mà tôi chỉ nghe nói chứ chưa bao giờ ghé chân tận mắt nhìn: lúc đó tôi muốn sống cuộc đời thực mà tôi có thể chiếm hữu, muốn hòa nhập vào những kẻ đồng loại, muốn quen biết thật nhiều nhân vật khác nhau. Tôi biết bà Fairfax là người nhân hậu, Adèle cũng thế; nhưng tôi tin tưởng vào sự tồn tại của kẻ khác với cái tốt đẹp muôn màu muôn dạng, và tôi mong có ngày trông thấy cái tôi vẫn tin tưởng.”
“Ai đổ lỗi lên tôi? Nhiều lắm, rành rành ra đó, và tôi sẽ bị gọi là kẻ bất mãn. Nhưng tôi làm gì được: vận động là bản chất của tôi, đôi lúc nó còn quấy rầy tôi đến đau đớn…”
“Thật hoài công thuyết phục con người nén hài lòng với sự yên bình: họ phải làm cái gì đó, và nếu không tìm ra cái để làm, họ phải tạo ra việc làm. Cả triệu người chịu tội đón nhận cái chết yên ổn hơn tôi, nhưng cả triệu người khác nổi loạn. Không ai biết có bao nhiêu kẻ nổi loạn đang sôi sục trong tập thể con người trên mặt đất. Nhìn chung, đàn bà là người bình thản: nhưng cảm xúc của họ thì cũng như đàn ông; họ cần chỗ để phơi bày cảm nghĩ và năng lực như anh trai em trai họ cần; bóp nghẹt quá, tù hãm quá, họ sẽ khổ sở y như đàn ông; và thật hẹp hòi khi giới phái kia bảo họ nên tự khép mình vào những công việc như làm bánh, đan tất, đàn piano và thêu thùa. Lên án hay cười chỏ họ đều là thái độ ngu xuẩn, bởi họ chỉ muốn tìm cách hoạt động nhiều hơn và cải thiện tri thức mình cho cao hơn những gì tập quán xác định là thiết yếu cho giới phái họ.”
“Bởi thế, khi ngồi một mình tôi vẫn nghe tiếng cười của Grace Poole…”
Tôi nghĩ đấy là khúc quành gượng gạo. Tự nhiên chẳng biết từ đâu Grace Poole thình lình xuất hiện. Sự liên tục bị gián đoạn. Người ta có thể bảo, tôi nghĩ trong lúc đặt cuốn sách xuống bên cạnh cuốn Kiêu hãnh và định kiến , người đàn bà viết những dòng này là người có thiên tư hơn Jane Austen; nhưng nếu đọc lại đoạn văn và ghi nhận giọng điệu phẫn nộ thúc mạnh trong đó, người ta sẽ thấy tài năng của bà chẳng bao giờ hiển lộ toàn vẹn. Tác phẩm của bà bị bóp méo, vặn vẹo. Thay vì viết bình thản, bà viết trong giận dữ. Thay vì viết cho minh triết, bà viết trong điên rồ. Thay vì viết về các nhân vật của mình, bà viết về chính bà. Bà gây chiến với chính con người bà. Biết sao hơn, bà đành chết trẻ và chết trong muộn sầu, thất vọng.
Người ta không thể không đùa giỡn với ý tưởng chuyện gì có thể xảy ra nếu Charlotte Brontë mỗi năm có ba trăm bỏ túi - nhưng người đàn bà rồ dại đó bán bản quyền toàn bộ tiểu thuyết của mình cho nhà xuất bản với giá một nghìn năm trăm bảng; nếu bà hiểu biết nhiều hơn về những thành thị đông đúc, những miền đất đầy sức sống; nếu bà sống hòa nhập cùng đồng loại và quảng giao rộng rãi. Với những dòng chữ này, bà chỉ ngón tay vào điểm yếu không hẳn của riêng bà với tư cách một tiểu thuyết gia, mà của cả thế hệ phụ nữ thời đó. Hơn ai hết, bà biết rõ thiên tài bà phát lộ rạng rỡ như thế nào nếu nó không bị giam hãm tù túng trong cô độc và chỉ biết phóng tầm mắt nhìn về phía cánh đồng xa xa; nếu bà sống cuộc đời đầy trải nghiệm, nếu bà giao hòa với nhân thế và đi đây đi đó. Nhưng bà không được hưởng chút nào những điều bà mong ước; và bắt buộc chúng ta phải chấp nhận sự thật là tất cả những cuốn tiểu thuyết hay đó, Villette, Emma, Đồi gió hú, Middlemarch , được viết bởi những người đàn bà mà trải nghiệm đời sống không quá buổi viếng thăm nhà một giáo sĩ khả kính. trong gian phòng sinh hoạt chung của gia đình; và họ là những kẻ nghèo nàn đến độ không đủ tiền mỗi lần mua quá vài xấp giấy, những xấp giấy trên đó họ viết “Đồi gió hú” hoặc “Jane Eyre”. Một người trong họ, quả đúng như thế, George Eliot, vượt thoát nhiều nghịch cảnh, nhưng lại phải sống gần như cách li trong ngôi biệt thự ở St. John’s Wood. Tại đó, bà sống dưới cái bóng của thế gian quay lưng với mình. Bà viết, “Tôi ước gì người ta hiểu tôi sẽ chẳng bao giờ mời mọc ai đến thăm tôi, những người không muốn được mời”; bởi không phải bà đang sống trong tội lỗi với người đàn ông có vợ đấy ư? Và phải chăng, bà cũng không nhìn thấy tai hại gây nên cho bà Smith nào đó? Người ta bắt buộc phải tuân thủ quy ước xã hội, và chấp nhận bị “cách li khỏi cái gọi là thế gian”. Cũng thời điểm đó, phía bên kia châu Âu, có người trai trẻ sống tự do với người đàn bà gypsy hoặc bà mệnh phụ nào đó; ông cầm súng ra chiến trường, sống cuộc đời tung hoành, nếm trải không biết bao nhiêu mùi đời mà sau này ông dùng để viết sách. Giả như Tolstoi [63] sống cuộc đời đơn độc trong tu viện với người đàn bà có chồng và bị “cách li khỏi cái gọi là thế gian”, thì cho dù bài học đạo đức cảm động đến đâu chăng nữa, ông cũng chẳng thể nào cho ra đời nổi tác phẩm Chiến tranh và hòa hình , tôi nghĩ thế.
Nhưng có lẽ người ta có thể đi sâu hơn tí nữa vào câu hỏi thế nào là viết tiểu thuyết và ảnh hưởng của phái tính với tiểu thuyết gia. Nếu người ta nhắm mắt và nghĩ tiểu thuyết là cái gì nguyên thể thì có vẻ nó là sự sáng tạo vay mượn đời sống phản chiếu trong gương, dĩ nhiên là đơn giản hơn nhiều và bóp méo sự thật. Dù sao chăng nữa, nó là một cấu trúc và cấu trúc này để lại hình thể trong cái nhìn của trí tưởng, lúc hình vuông, lúc hình cái chùa, lúc tua tủa cánh và đường mái vòm, lúc gọn ghẽ, tròn trịa như tòa giáo đường thánh Sofia ở Constantinople. Hình thể này, tôi nghĩ trong lúc nhớ đến một vài cuốn tiểu thuyết nổi tiếng, bắt nguồn từ loại cảm xúc nào đó nó thấy phù hợp. Nhưng chính cảm xúc đó lập tức hòa lẫn với những cảm xúc khác, bởi cái “hình thể” này không hình thành do liên hệ giữa các tảng đá với nhau mà bởi cảm xúc giữa con người với con người. Do đó, tiểu thuyết gieo vào chúng ta đủ dạng thức cảm xúc tương phản, chống đối nhau. Đời sống xung đột với cái không phải là đời sống. Bởi thế, thật khó đi đến sự đồng thuận nào về tiểu thuyết, và những định kiến khiến chúng ta đi chệch đường nhiều lắm. Một mặt chúng ta nghĩ “Anh” - người anh hùng John - phải sống, nếu không tôi sẽ chìm sâu trong tuyệt vọng. Mặt khác, chúng ta cũng tin, Hỡi ơi, John, anh phải chết bởi hình thức cuốn sách yêu cầu như vậy. Đời sống xung đột với cái không phải là đời sống. Thế rồi, bởi đời sống có nhiều mặt, và tuỳ cách thẩm định chúng ta xem mặt nào là đời sống. James là hạng người tôi ghét nhất, người ta có thể bảo như thế. Hoặc, ôi thôi, đây là mớ bòng bong toàn những điều phi lí. Tôi sẽ chẳng bao giờ có cảm giác cho bất kì chuyện gì. Hiển nhiên, toàn bộ cấu trúc, đầu óc tôi đang nghĩ đến cuốn tiểu thuyết danh tiếng nào đó, là cái gì phức tạp đến vô hạn, bởi nó được cấu thành bởi không biết bao nhiêu thẩm định, không biết bao nhiêu dạng cảm xúc khác nhau. Điều đáng kinh ngạc là bất cứ cuốn sách nào ra đời do sáng tạo như vậy chỉ đứng vững được một hai năm, hoặc cùng cuốn sách nhưng ý nghĩa của nó đối với người Anh, người Nga hay người Tàu đều không giống nhau. Tuy thế, thi thoảng vẫn có cuốn đứng vững thật bền lâu. Và giúp trụ vững nó ở những trường hợp hiếm hoi này (tôi đang nghĩ đến cuốn Chiến tranh và hòa bình ) là cái người ta gọi là liêm sỉ, dù nó chẳng dính dáng gì đến chuyện người ta trả nợ hoặc bảo tồn danh dự trong trường hợp nguy cấp. Liêm sỉ của nhà văn là niềm xác tín điều anh ta cống hiến là sự thật. Vâng, người ta có cảm giác, tôi chẳng bao giờ nghĩ nó có thể như vậy; tôi chưa bao giờ biết người ta ứng xử như thế; nhưng ông thuyết phục tôi, và nó xảy ra như thế. Người ta đưa từng câu văn, từng cảnh sắc ra trước ngọn đèn trong lúc đọc - bởi thật lạ lùng, thiên nhiên dường như cung cấp cho chúng ta ngọn đèn nội tâm để thẩm định ngòi bút của nhà văn có liêm sỉ hay không. Hoặc có lẽ đúng hơn là thiên nhiên, ở trạng thái phi lí nhất, nhúng bút vào lọ mực vô hình rồi vẽ lên mặt tường tâm trí những dự cảm mà các nghệ sĩ tài hoa này chứng thực; nó là bức phác họa mà chỉ qua ngọn lửa của tài năng mới hiện nguyên hình rõ rệt. Khi phơi bày nó ra như thế và thấy nó nghiệm vào đời sống, người ta phải ngây ngất kêu lên, Đây chính là cảm giác trong lòng tôi, tôi biết nó và tôi khao khát nó! Người ta như sôi lên với nỗi khích động và đóng cuốn sách lại với sự tôn kính, như thể nó là báu vật, là cái gì nằm chờ người ta quay lại khi nào họ còn sống, người ta cất nó lên kệ sách, tôi nói trong lúc trả bộ Chiến tranh và hòa hình về chỗ của nó. Mặt khác, những câu văn nghèo nàn người ta đem ra thử nghiệm, thoạt tiên có vẻ lóe lên sắc màu tươi sáng và phong cách lạ lẫm, nhưng nó chợt ngừng ngay đó: có cái gì chặn lại, không cho nó phát triển thêm nữa, hay nó chỉ le lói nơi góc tường và lem lấm ở chỗ kia, chẳng có gì nguyên thể trọn vẹn hiện lên, thế rồi người ta thở dài thất vọng và nói, “Lại một thất bại khác. Cuốn tiểu thuyết này thất bại ở nơi nào đó”.
Dĩ nhiên, nói chung, tiểu thuyết đều đi đến thất bại ở nơi nào đó. Dưới độ căng khủng khiếp, óc tưởng tượng chùng lại. Sự sáng suốt bị rối loạn; nó không phân biệt nỗi đâu là thật và đâu là giả, nó không đủ sức tiếp tục công việc nặng nề mỗi lúc một yêu cầu phải vận dụng vô vàn những khả năng khác nhau. Nhưng phái tính của tiểu thuyết gia ảnh hưởng như thế nào lên tất cả những điều này, tôi tự hỏi trong lúc nhìn vào Jane Eyre và những cuốn sách khác. Liêm sỉ người cầm bút - mà tôi cho là cốt tủy - của nhà văn phái nữ liệu có bị phôi phai cách này hay cách khác bởi chuyện họ là đàn bà? Qua đoạn văn tôi trích dẫn từ cuốn Jane Eyre , rõ ràng sự phẫn nộ đã len lỏi vào phá hoại liêm sỉ của Charlotte Brontë nhà văn. Bà bỏ lửng câu chuyện đang kể, cái mà lẽ ra bà phải tập trung toàn bộ tâm trí, để quay sang than vãn thân phận buồn chán của mình. Bà nhớ ra kinh nghiệm sống của mình sao quá nghèo nàn - đôi chân bà như bị trói trong đôi tất dài vá víu trong khi bà khao khát tự do bay nhảy khắp thế giới bên ngoài. Do cơn phẫn nộ, trí tưởng tượng của bà dao động mạnh và chúng ta cảm nhận được nó dao động như thế nào. Nhưng ngoài sự phẫn nộ, còn có nhiều ảnh hưởng khác trì kéo trí tưởng tượng của bà và đẩy nó đi chệch đường. Sự dại khờ chẳng hạn. Bức chân dung của Rochester được vẽ trong bóng tối. Chúng ta thấy ảnh hưởng của nỗi khiếp sợ trong đó; y như chúng ta thường xuyên cảm thấy vị chua chát, kết quả của sự áp bức; nó là sự đè nén nỗi khổ sở tan loãng bên dưới lòng đam mê, nó là nỗi oán hờn làm co rút những cuốn sách này, những tác phẩm tuyệt hay, với cơn đau quặn thắt.
Và bởi tiểu thuyết có sự tương ứng như vậy với đời sống, giá trị của nó, ở giới hạn nào đó, là giá trị đời sống thật. Nhưng điều hiển nhiên là, rất thông thường, giá trị nơi đàn bà hoàn toàn không giống cái đàn ông gán ghép cho họ; tự nhiên như thế thôi. Tuy vậy, chính giá trị của phái nam mới là cái gì thắng thế. Nói nôm na, bóng đá và thể thao là “trọng đại” còn sự say mê thời trang, mua sắm áo quần là “tầm thường”. Và những giá trị này chắc chắn được di chuyển từ đời sống vào tiểu thuyết. Đây là cuốn sách quan trọng, nhà phê bình bảo thế, bởi nó nói về chiến tranh. Còn đây là cuốn tầm phào bởi nó nói về cảm xúc của phụ nữ trong phòng khách. Cảnh tượng bãi chiến trường thì trọng đại hơn nhiều so với cảnh nơi cửa tiệm - chỗ nào cũng có sự phân biệt như thế, tuy đôi khi ẩn giấu, không rõ ràng. Do đó, toàn thể cấu trúc cuốn tiểu thuyết của phái nữ đầu thế kỷ XIX đều bị trí óc trì kéo khiến nó đi chệch khỏi đường thẳng và cái nhìn trong suốt của nó trở nên lệch lạc bởi nó phải đóng vai trò trọng nể quyền lực bên ngoài. Người ta chỉ cần lướt qua những tiểu thuyết cũ bị lãng quên và lắng nghe âm điệu giọng nói giữa những trang sách là có thể trực giác rằng tác giả đang phải đương đầu với những phê phán gay gắt; bà nói điều này do áp lực thô bạo, điều kia bởi thái độ quy thuận hòa hoãn. Bà thú nhận mình “chỉ là người đàn bà”, hoặc phản đối là bà cũng “tài giỏi như đàn ông”. Tùy vào tính khí, bà đón nhận những phê phán đó theo cách khác nhau; có khi bà ngoan ngoãn, rụt rè; có khi bà phẫn nộ, bướng bỉnh. Nhưng đó không phải là điều quan trọng; cái quan trọng là bà bị phân tâm, phải suy nghĩ cái gì khác chứ không phải điều mình muốn nghĩ. Thế rồi tác phẩm của bà đi vào đầu óc chúng ta. Tì vết nằm ở ngay trung tâm cuốn sách. Tôi nghĩ đến tác phẩm của những tác giả nữ nằm rải rác trong các tiệm sách cũ của London như những quả táo rỗ rơi vãi bừa bãi trong vườn. Chính cái tì vết nằm ngay trung tâm cuốn sách khiến nó bị mục nát. Bà đã sửa đổi giá trị của mình cho phù hợp luận điệu của kẻ khác.
Nhưng chẳng thể nào họ không nhích một chút bên phải, một chút bên trái. Bên trong cái xã hội gia trưởng và phải đối diện với tất cả những phê phán gay gắt đó, tài năng nào, liêm sỉ nào họ phải có để giữ vững cái riêng của mình mà không bóp nghẹt nó. Chỉ có hai người làm được là Jane Austen và Emily Brontë. Có lẽ chiếc lông chim đẹp nhất cài trên mũ họ. Họ viết như đàn bà viết chứ không phải như đàn ông. Chỉ mình họ trong số cả nghìn người viết nữ thời đó là có thể bỏ mặc ngoài tai những lời răn dạy bất tận của nhà mô phạm bất diệt - viết cái này, nghĩ cái kia. Chỉ mình họ có đôi tai điếc bên cạnh giọng nói lè nhè dai dẳng, lúc lầm bầm, lúc lên lớp, lúc áp chế, lúc rầu rĩ, lúc khiếp hãi, lúc phẫn nộ, lúc kẻ cả, cái giọng nói không để yên cho đàn bà mà cứ chĩa vào họ như nữ gia sư quá sức tận tâm, khẩn khoản yêu cầu họ vâng lời, như Sir Egerton Brydges [64] , con người tinh anh vượt bậc, mà vẫn bị lôi kéo vào vòng tranh cãi chung quanh vấn đề phê bình thi ca phái tính [65] ; hắng giọng lên lớp khuyên răn nếu họ tỏ ra khá có tài và đoạt được giải thưởng vinh dự nào đó, nhưng cũng vẫn cái giọng đó bảo họ nên ở yên bên trong giới hạn của mình chứ đừng thò đầu ra ngoài: “… nhà văn nữ chỉ nên mang hoài bão đạt đến sự tuyệt đích bằng cách can đảm công nhận sự yếu kém của giới phái mình” [66] . Thế là, vấn đề bị nhét vào vỏ hột và khi tôi nói với các bạn, các bạn sẽ ngạc nhiên lắm, câu nói này được viết ra không phải vào tháng 8 năm 1828 mà tháng 8 năm 1928, các bạn sẽ đồng ý với tôi mặc dù điều đó đối với chúng ta bây giờ chỉ là cái gì vui vui, nhưng nó đại diện cho quan niệm của số đông - Tôi sẽ không quấy đục lên hồ nước xưa cũ đó, tôi chỉ vớt lên những gì tình cờ trôi dạt đến chân tôi - cách đây một thế kỷ, nó mạnh mẽ và ồn ào hơn nhiều. Người đàn bà của năm 1828 phải mạnh mẽ lắm mới có thể bất chấp, bỏ ngoài tai những điều sỉ nhục, quở trách mình và chẳng màng gì đến những lời hứa hẹn hão huyền. Người ta phải cứng cỏi lắm mới có thể tự nói với chính mình, ồ, nhưng các người đâu mua văn chương được. Văn chương là cánh cửa mở ra cho mọi người. Tôi không cho phép ông, dù ông là giám thị trong trường, đuổi tôi khỏi bãi cỏ xanh. Khóa cửa thư viện lại nếu ông muốn, nhưng không cánh cổng, không ổ khóa, không then cài nào ông có thể dùng để giam giữ tự do trong tâm tưởng tôi.
Nhưng ảnh hưởng của những lời phê bình và chỉ trích bất lợi lên ngòi bút nhà văn nữ dẫu thế nào chăng nữa - và tôi tin ảnh hưởng đó rất lớn - cũng chẳng đáng gì nếu đem so sánh với khó khăn họ phải đương đầu (tôi vẫn đang đề cập đến những nhà văn nữ sống vào đầu thế kỷ XIX) khi họ viết xuống trang giấy những suy nghĩ của mình - sau lưng họ vắng bóng một truyền thống viết văn, hoặc nếu có thì vô cùng ngắn ngủi và thiếu vô tư, và chẳng giúp ích gì. Bởi nếu là phụ nữ, chúng ta nghĩ về quá khứ qua bà mẹ chúng ta chứ không ai khác. Chỉ vô ích nếu chúng ta tìm kiếm sự trợ giúp từ những nhà văn phái nam lẫy lừng, dù chúng ta có thể đọc họ nhiều để tiêu khiển. Lamb, Browne [67] , Thackeray [68] , Newman [69] , Sterne [70] , Dickens [71] , De Quincey [72] - bất kì người nào - chưa hề thấy ai là người ra tay trợ giúp phái nữ, cho dù có thể qua họ, nhà văn nữ của chúng ta học hỏi được đôi ba kĩ xảo nào đó đem áp dụng vào văn chương của mình.
Sức nặng cũng như độ nhạy, bước tiến của trí óc người đàn ông khác xa đàn bà và thật khó cho chị học hỏi được điều gì đáng kể. Loài vượn đã quá xa xôi trong quá khứ. Có lẽ, điều thứ nhất chị nhận biết lúc đặt bút xuống viết là không hề có sẵn câu văn chung chung nào cho chị dùng. Tất cả những tiểu thuyết gia danh tiếng như Thackeray, Dickens và Balzac [73] đều có giọng văn tự nhiên; văn của họ trôi chảy nhưng không luộm thuộm, diễn cảm nhưng không kiểu cách, họ có sắc thái riêng nhưng không để mất tính cách chung. Họ dựa trên câu văn thịnh hành của thời đại họ. Thịnh hành vào đầu thế kỷ XIX có lẽ là kiểu câu văn như sau: “Với họ, sự lớn lao của tác phẩm nằm ở chỗ nó cho họ cơ hội tranh luận, không khựng lại mà tiến tới. Không nỗi khích động nào, không sự thỏa mãn nào có thể khiến họ tận tình phô diễn nghệ thuật của mình và chấm dứt cống hiến chân lí cùng cái đẹp cho cuộc đời. Càng thành công, càng cố gắng, và thói quen giúp họ thành công hơn.” Đó là câu văn do đàn ông viết, đằng sau nó người ta có thể nhìn ra Johnson, Gibbon [74] và những người khác. Nó là câu văn không thích hợp với đàn bà. Charlotte Brontë, người có văn tài xuất chúng, vấp ngã với thứ vũ khí kềnh càng đó trong tay. George Eliot với nó trở nên tàn nhẫn không sao tả nổi. Chỉ có Jane Austen nhìn nó rồi nở nụ cười, bà tự chế biến cho mình một thứ ngôn ngữ tự nhiên giàu tính tạo hình thích hợp cho văn chương của bà và không bao giờ tách lìa nó. Do đó, mặc dù văn tài không bằng Charlotte Brontë, nhưng bà đã nói được nhiều hơn điều muốn mình nói. Quả vậy, bởi hai yếu tố cơ bản của nghệ thuật là sự tự do và sự phong phú trong phong cách biểu hiện; vắng bóng một truyền thống, phương tiện trong tay cũng không, phải nói đó là rào cản, chông gai cực kì khó khăn cho người phụ nữ muốn trở thành nhà văn. Vả lại, cuốn sách không phải là những câu văn tuần tự nối đuôi nhau cho đến hết, nó là sự kiến tạo của những câu văn và những câu văn này, với sự trợ giúp của hình tượng, kiến tạo nên đền đài miếu mạo. Đó cũng là hình thức các nhà văn phái nam tạo dựng từ nhu cầu của họ và trở thành công cụ cho họ sử dụng. Không có lí do nào để nghĩ các thể loại văn học cổ như anh hùng ca hoặc kịch thơ thích hợp cho người viết phái nữ. Tất cả những thể loại văn học cổ đó đến thời phụ nữ bắt đầu viết văn đã có nền tảng vững chắc và định hình rõ rệt. Chỉ có tiểu thuyết là thể loại tương đối mới mẻ, có thể mềm mại ngả vào đôi tay chị - có lẽ, đó là một lí do chị viết tiểu thuyết. Tuy nhiên, ngay bây giờ, ai là người bảo “Tiểu thuyết” (tôi cho nó nằm giữa hai dấu nháy để nhấn mạnh quan điểm của tôi vẻ sự thiếu thốn của từ ngữ), thể loại văn học mềm dẻo nhất này, là hình thức phù hợp nhất với chị trên con đường văn nghiệp? Chắc chắn, chúng ta sẽ nhìn thấy chị đẽo đục cái hình thức đó, nếu chị có tự do sử dụng bàn tay mình, đến khi nào nó phù hợp con người chị; và lúc đó chị sẽ trình làng phương tiện biểu hiện mới có thể cho thơ của chị, không nhất thiết phải là văn xuôi. Bởi thơ vẫn chối bỏ chị. Và tôi thắc mắc giả sử có chị thời nay viết vở kịch thơ năm màn thì chị sẽ dùng thể văn nào - chị sẽ dùng văn vần - chị sẽ không dùng văn xuôi?
Nhưng đây là những câu hỏi khó trả lời, chúng nằm ở khoảng tranh tối tranh sáng của tương lai. Tôi phải bỏ chúng lại, chỉ vì chúng kích thích tôi khiến tôi lan man đi lạc đề và chui vào khu rừng u ám không lối ra, nơi tôi lạc mất lối về và rất có thể bị bầy thú hoang ăn thịt. Tôi không muốn, và tôi chắc các bạn cũng không muốn tôi nêu ra đề tài vô cùng u ám đó, tương lai của văn học, và bởi thế tôi chỉ tạm ngưng tại đây để thu hút sự chú ý của các bạn vào bình diện to tát khác, đó là quan hệ của phụ nữ với hoàn cảnh vật chất, một bình diện sẽ phải đóng vai trò quan trọng trong tương lai. Sách, bằng cách này hay cách khác, thích ứng với cơ thế con người và một cách liều lĩnh, người ta có thể bảo sách viết bởi phụ nữ nên ngắn gọn hơn, cô đọng hơn sách của phái nam, và nên được cấu tạo như thế nào để không phải tốn nhiều thời gian viết liên tục. Bởi, sẽ không bao giờ tránh được sự gián đoạn. Một lần nữa, những sợi dây thần kinh dẫn lên não bộ đàn ông và đàn bà không giống nhau, và nếu các bạn định bắt chúng làm việc cật lực với hiệu quả cực cao thì các bạn phải tìm ra cách biện giải nào thích hợp với chúng - thí dụ, những giờ giảng văn này, do các thầy tu soạn thảo và đề xuất cách đây hàng mấy trăm năm, có thích hợp cho chúng hay không - có cần thay đổi đường lối, cần nghỉ ngơi hay không, nghỉ ngơi ở đây không có nghĩa là không làm gì mà là làm cái gì khác; và cái khác đó là gì? Phải đem tất cả những điều này ra thảo luận và tìm hiểu; tất cả là một phần của câu hỏi quan hệ giữa phụ nữ và văn học là gì. Tuy thế, tôi tiếp tục suy nghĩ trong lúc lại gần bên kệ sách, tôi sẽ tìm thấy ở đâu một công trình nghiên cứu tỉ mỉ về tâm lí phụ nữ do một phụ nữ biên soạn? Vì phụ nữ không đủ sức chơi bóng đá nên họ không được phép hành nghề thầy thuốc.
Đến đây, suy nghĩ của tôi hân hoan rẽ sang khúc quành khác.