Chương năm
Cuối cùng, sau những suy nghĩ lan man chẳng đi đến đâu này, tôi đến bên kệ sách những tác giả đương đại, nam cũng như nữ; bởi ngày nay, sách của hai phái nam nữ tương đương nhau. Hoặc nếu điều đó không hẳn đúng, nếu nam giới vẫn là phái át giọng hơn thì điều khá chắc chắn là nữ giới ngày nay không phải ai cũng chỉ viết tiểu thuyết. Chúng ta có sách của Jane Harrison [75] viết về khảo cổ Hi Lạp, sách của Vernon Lee [76] về mĩ học, sách của Gertrude Bell [77] về xứ Ba Tư. Đủ mọi đề tài mà cách đây một thế hệ, đàn bà không ai đụng đến. Có cả thơ, kịch và phê bình; rồi sách lịch sử, tiểu sử, sách du lịch, sách nghiên cứu; thậm chí có cả vài cuốn về triết học, khoa học và kinh tế. Và mặc dù vẫn chiếm đa số, tiểu thuyết có một bộ cánh mới. Nó không còn sự đơn giản tự nhiên nữa, thời đại anh hùng ca của ngòi bút phụ nữ có thể đã lùi vào quá khứ. Học hỏi và phê bình đem đến cho chị cái nhìn xa rộng, tinh tế hơn nhiều. Hấp lực hướng về thể tự truyện phai nhạt. Chị viết sách như một nghệ thuật chứ không phải cách tự biểu hiện. Biết đâu, trong số những cuốn tiểu thuyết mới này, chúng ta tìm ra lời giải cho vài câu hỏi như thế.
Tôi nhắm mắt lấy đại xuống một cuốn truyện. Nó nằm gần cuối kệ sách, có nhan đề là Cuộc phiêu lưu của sự sống hay cái gì đó, tác giả là Mary Carmichael, và vừa xuất bản tháng Mười này. Dường như nó là cuốn sách đầu tay của chị, tôi tự nhủ, nhưng người ta phải đọc nó như thể nó là bộ truyện cuối cùng trong loạt sách khá dài, tiếp nối tất cả những cuốn tôi đã liếc mắt vào - thư Lady Winchilsea, kịch Aphra Behn và tiểu thuyết của bốn tiểu thuyết gia danh tiếng. Bởi mặc dù chúng ta có thói quen thẩm định sách vở một cách riêng rẽ nhưng thật ra chúng tuần tự nối tiếp nhau. Và tôi bắt buộc phải xem chị - tác giả vô danh của chúng ta - là hậu duệ của tất cả những nhà văn nữ tôi nhắc đến, để tìm xem chị thừa hưởng tính cách hay dở nào của họ. Thế rồi, với tiếng thở dài, bởi tiểu thuyết thường chỉ là liều thuốc làm dịu đau chứ không phải thuốc giải độc, thay vì sự khích động khiến tinh thần người ta trở nên phấn chấn, nó ru người ta vào giấc ngủ hôn mê, tôi ngồi xuống với cuốn sổ tay và cây bút chì để nhặt ra những gì tôi có thể lượm lặt được từ cuốn tiểu thuyết đầu tay của Mary Carmichael, Cuộc phiêu lưu của sự sống .
Trước khi bắt đầu đọc cuốn sách, tôi đưa mắt liếc nhanh trang giấy. Tôi muốn bắt được nét đặc trưng trong câu văn của chị, tôi nhủ, trước khi nhồi nhét vào bộ nhớ của mình tất cả những tình tiết về mối quan hệ giữa Chloe và Roger. Sẽ có thời gian cho chuyện đó sau khi tôi quyết định được trong tay chị là cây bút hay cái rìu. Vì thế, tôi thử đọc một hai câu. Chẳng mấy chốc tôi nhận ngay ra có cái gì không ổn. Tính liên tục từ câu này sang câu kia bị phá vỡ. Có cái gì cứ thế xé toác ra, cào nát; nơi đây một từ và ở kia nó lóe lên trong mắt tôi. Chị “buông” mình ra như người ta hay nói trong các vở kịch xưa. Chị như người bật que diêm không cháy, tôi nghĩ thế. Nhưng tại sao, tôi hỏi như thể chị đang ngồi trước mặt, hình thức những câu văn của Jane Austen không thích hợp với chị ư? Phải vứt bỏ tất cả sau khi Emma và ông Woodhouse không còn nữa? Hỡi ơi, tôi thở dài, chuyện phải như thế ư! Bởi, đọc Jane Austen chúng ta thấy bà tung hứng từ giai diệu này sang giai diệu kia như Mozart, còn đọc cuốn sách này chúng ta có cảm tưởng như đang ngồi trên con thuyền chơ vơ ngoài biển cả. Lúc nhô lên lúc thụp xuống. Sự kiệm lời, những hơi thở ngắn; dường như chị sợ hãi điều gì; có lẽ chị sợ bị gọi là “ủy mị”; hoặc chị nhớ ra văn chương phái nữ thường bị chê là hoa mĩ và chị quyết tâm đưa ra thật nhiều gai nhọn; nhưng cho đến khi đọc trọn cảnh huống trong truyện, tôi chẳng thể nào bảo chị là chị hay là người nào khác. Dù sao chăng nữa, đọc chị người ta không bị suy giảm tinh thần và sức sống. Nhưng chị chồng chất quá nhiều dữ kiện. Chị sẽ không thể nào sử dụng hết một nửa những dữ kiện đó trong cuốn sách dày chừng này. (Nó chỉ bằng nửa cuốn Jane Eyre ). Tuy thế, bằng cách nào đó, chị chất tất cả mọi người - Roger, Chloe, Olivia, Tony và ông Bigharn - lẫn chiếc ca-nô chạy ngược trên sông. Nhưng hãy khoan, tôi nghĩ trong lúc ngả lưng vào ghế tựa, tôi nên cẩn trọng xem xét lại toàn bộ câu chuyện này trước khi đi xa hơn.
Tôi khá chắc chắn là Mary Carmichael đang giở trò gạt gẫm chúng ta. Bởi tôi có cảm tưởng như người ta thấy toa tàu chạy đến đoạn cuối đường ray phải quay trở lại và thay vì hụp xuống như người ta chờ đợi thì nó trồi lên. Mary đang xáo trộn cái chuỗi tuần tự nối tiếp quen thuộc. Thoạt đầu, chị phá vỡ câu văn; giờ đây, chị phá vỡ cái tuần tự. Được rồi, chị có quyền làm thế nếu chị vì mục tiêu sáng tạo chứ không phải chỉ để phá cách. Tôi không chắc cái nào trong hai điều đó đúng cho đến khi bản thân chị đối diện với cảnh huống nào đó. Tôi sẽ cho chị toàn quyền tự do chọn bất kì cảnh huống nào và có thể tạo ra chúng bằng những cái bình thiếc hay những ấm trà cũ nếu thích, nhưng chị phải thuyết phục được tôi đó là một cảnh huống và chị phải đối diện với nó khi tạo ra nó. Chị phải nhẩy dựng lên. Và, với quyết tâm làm tròn bổn phận người đọc, cũng như chị làm tròn bổn phận người viết, tôi giở trang sách và bắt đầu đọc… Xin các bạn thứ lỗi cho việc tôi đột ngột ngừng lại ở đây. Có phải đàn ông không hiện diện ở nơi đây? Có phải các bạn cam đoan với tôi rằng sau tấm màn đỏ đằng kia các bạn không giấu hình bóng của Sir Chartres Biron [78] ? Tất cả chúng ta đều là đàn bà, có phải các bạn bảo tôi thế? Vậy tôi có thể bảo các bạn là ngay kế đó tôi đọc hàng chữ này - “Chloe thích Olivia…”. Đừng giật mình. Đừng đỏ mặt. Chúng ta hãy chấp nhận cùng với tính riêng tư của xã hội này rằng điều đó đôi khi xảy ra. Đôi khi đàn bà thích đàn bà.
“Chloe thích Olivia”, tôi đọc. Và tôi choáng váng khi nhận thấy sự thay đổi vô cùng to tát đang diễn ra. Chloe thích Olivia, có lẽ lần đầu tiên trong văn chương có cách diễn đạt như thế. Cleopatra không thích Octavia. Và giả như nàng không như thế, vở kịch Antony và Cleopatra chắc hẳn hoàn toàn đổi khác! Tôi lại nghĩ ngợi lan man, tôi e rằng đầu óc tôi đi chệch ra ngoài cuốn Cuộc phiêu lưu của sự sống mất rồi, tôi nghĩ truyện cũ là cái gì bị đơn giản hóa, quy ước hóa đến độ phi lí, nếu người ta có thể nói về nó. Cảm xúc của Cleopatra đối với Octavia chỉ độc nhất là sự ghen ghét.
Nàng có cao hơn tôi không? Nàng chải tóc kiểu gì? Có lẽ vở kịch không yêu cầu những chi tiết đó. Nhưng thú vị biết bao nếu quan hệ giữa phụ nữ trở nên phức tạp hơn. Tất cả các mối quan hệ giữa phụ nữ với nhau đều quá sức giản đơn, tôi nghĩ trong lúc thoáng nhớ lại hình ảnh xán lạn của những nhân vật nữ trong tiểu thuyết. Có rất nhiều điều không ai nhắc đến, không ai đem ra thử nghiệm. Và tôi cố nhớ lại xem tất cả sách vở tôi đọc có trường hợp nào hai người phụ nữ là bạn nhau không. Điều đó có trong cuốn Diana của những ngã tư đường . Dĩ nhiên, họ là những người thân thiết, trong kịch của Racine hay bi kịch Hi Lạp. Xưa cũng như nay, họ là mẹ con. Nhưng gần như không có ngoại lệ, họ luôn được biểu hiện qua quan hệ của họ với đàn ông. Thật lạ lùng khi nghĩ rằng tất cả đàn bà trong tiểu thuyết không những chỉ được nhìn bởi giới phái khác, mà còn chỉ được nhìn qua mối liên hệ của họ với người khác phái; điều này phải đợi mãi đến thời của Jane Austen mới đổi thay. Và nếu quả như thế, thì có bao nhiêu mảnh đời bé nhỏ của người phụ nữ mà gã đàn ông nhìn thấy khi gã tuỳ tiện nhìn nó qua cặp kính màu đen hoặc màu hồng nằm trên mũi gã. Có lẽ bởi lí do này, bản chất đặc trưng của người phụ nữ trong tiểu thuyết, những thái cực kì quặc, dần dà thành hình; một đằng là sắc đẹp tuyệt trần, một đằng là sự xấu xí kinh khiếp; nàng đong đưa giữa hai cực điểm, tốt lành thánh thiện và suy đồi tăm tối - và nhờ thế người tình của nàng thấy tình yêu của mình nổi lên hay chìm xuống, tươi tắn hay buồn rầu. Dĩ nhiên, điều này không đúng hẳn với tiểu thuyết thế kỷ XIX. Khi đó, đàn bà trở nên không giống nhau và phức tạp hơn nhiều. Quả thế, chính tham vọng muốn viết về đàn bà có lẽ đã là động cơ thúc đẩy đàn ông từ bỏ kịch thơ, vốn sẵn tính bạo liệt không thuận tiện cho việc diễn tả, để chọn tiểu thuyết và biến nó thành công cụ chứa đựng thích hợp hơn. Ngay cả thế, điều hiển nhiên là, trong tiểu thuyết của Proust [79] cũng thế, người đàn ông gặp phải những chướng ngại vô cùng lớn lao và thiếu hẳn tinh thần vô tư trong hiểu biết về đàn bà; ngược lại, đàn bà cũng vậy.
Thêm nữa, tôi tiếp tục nghĩ ngợi trong lúc nhìn xuống trang sách, sự kiện đang trở nên hiển nhiên là đàn bà cũng như đàn ông muốn biết nhiều điều khác nữa bên cạnh cái biết muôn đời quen thuộc luẩn quẩn trong xó nhà. “Chloe thích Olivia. Hai người làm việc chung trong phòng thí nghiệm…” Tôi đọc tiếp và biết hai người đàn bà trẻ này đang băm gan, hình như để bào chế môn thuốc chữa bệnh thiếu máu nguy hại gì đó; một trong hai người đã có gia đình và hai con nhỏ - tôi nghĩ mình nói đúng. Dĩ nhiên, tất cả những chi tiết đó xưa kia không ai dám đem vào, và do đó chân dung xán lạn của người phụ nữ trong tác phẩm văn học thuở ấy hết sức giản dị và đơn điệu. Giả thử người đàn ông được biểu đạt trong văn chương chỉ là người tình của đàn bà, họ không bao giờ làm bạn với đàn ông khác, không anh lính, triết nhân, kẻ mộng mơ nào là bạn họ; nếu thế các vở kịch của Shakespeare có được bao nhiêu vai cho đàn ông; văn học sẽ phải chịu thiệt thòi biết bao! Có lẽ chúng ta vẫn còn khá nguyên vẹn Othello; khá nhiều Anthony; nhưng sẽ không còn Caesar, không Brutus, không Hamlet, không Lear, không Jaques - văn học trở nên nghèo nàn vô cùng, như nó đã quả thật nghèo nàn hơn cả việc chúng ta đếm có bao nhiêu cánh cửa đóng sầm vào mặt người phụ nữ viết văn. Bị ép duyên, chỉ có một căn phòng, một công việc duy nhất, bằng cách nào nhà soạn kịch có thể diễn đạt đầy đủ, trung thực và thú vị về họ đây? Chỉ có cách nói về tình yêu. Thi sĩ buộc chọn lựa giữa hai thái độ hoặc sôi nổi đam mê hoặc đắng cay chua xót, trừ khi ông ta thật tình “giết dần bà”, nhưng điều đó thường có nghĩa là với đàn bà, ông chẳng có gì quyến rũ.
Giờ đây nếu Chloe thích Olivia và hai người làm việc chung trong phòng thí nghiệm, điều này khiến tình bạn giữa hai người càng thêm khăng khít và phong phú bởi nó ít va chạm đời sống cá nhân hơn; nếu Mary Carmichael biết viết, và tôi bắt đầu thấy thích văn chương chị; nếu chị có căn phòng riêng, điều này tôi không chắc lắm; nếu chị có năm trăm bảng mỗi năm - điều này phải đợi bằng chứng đã - thì tôi nghĩ có cái gì đó hết sức trọng đại đang diễn ra.
Bởi nếu Chloe thích Olivia và Mary Carmichael biết cách diễn tả chị sẽ thắp lên ngọn đuốc trong gian phòng rộng mênh mông đó, nơi chưa hề có ai đặt chân vào. Nó tranh tối tranh sáng như những hang động quanh co, người đi bên trong với ngọn nến chập chờn không biết mình giẫm chân lên đâu. Và tôi tiếp tục đọc đến đoạn Chloe nhìn Olivia cất cái lọ lên kệ và bảo Olivia đã đến giờ cô về nhà với các con. Đó là cảnh tượng chưa từng thấy bao giờ từ khi khai thiên lập địa, tôi thốt lên. Và tôi quan sát một cách vô cùng tò mò. Bởi tôi muốn thấy bằng cách nào Mary Carmichael đem chữ nghĩa ra chụp bắt những cử chỉ, những hành vi chưa ghi xuống mặt giấy bao giờ, những từ ngữ chưa bao giờ thốt ra hoặc chỉ thốt ra nửa vời, mà hình thể của chúng có lẽ không rõ rệt hơn hình bóng con bướm đêm đậu trên trần nhà, đó là lúc người đàn bà đối diện với chính mình, không ai kề bên, không bị luồng ánh sáng màu lúc tắt lúc sáng của kẻ khác phái chiếu lên mặt. Chị sẽ phải nín thở nếu chị làm, tôi nói trong lúc đọc tiếp; bởi với đàn bà bất kì quan tâm nào không kèm theo đằng sau vài ý đồ đều đáng nghi ngờ, họ quá quen với cảnh che đậy, nhẫn nhục và chỉ trong chớp mắt họ ngoan ngoãn cúi đầu quay sang hướng đi khác. Cách duy nhất chị có thể làm, tôi nghĩ trong lúc gật gù với chị như thể chị đang ngồi trước mặt, là nói về chuyện khác, nhìn chăm chú ra ngoài cửa sổ và ghi lại, không phải với cây bút chì và cuốn sổ tay mà bằng những kí hiệu nhanh hơn tốc kí, những từ ngữ chưa thành vần thành âm, chuyện gì xảy ra khi Olivia - những tế bào hữu cơ này nằm yên dưới đáy tảng đá cả triệu năm - cảm thấy luồng sáng phả xuống và đang đến với chị là món ăn lạ lùng - kiến thức, phiêu lưu, nghệ thuật. Chị đưa tay đón nhận nó, tôi nghĩ trong lúc nhướng đôi mắt nhìn vào trang sách, và phải nghĩ ra sự phối hợp hoàn toàn mới mẻ bao gồm những chất liệu chị dùng, chị phải khai triển nó tối đa cho những mục tiêu khác để cái mới thẩm thấu vào cái cũ mà không gây xáo trộn cho cái phức hợp vô hạn, cái thăng bằng chi li của tổng thể.
Nhưng hỡi ơi, tôi đã làm chuyện tôi chủ tâm không làm; tôi đã vô tâm đến nỗi buột miệng ca ngợi giới phái của chính tôi. “Khai triển tối đa” - “cái phức hợp vô hạn” - những cụm từ ca ngợi không chối cãi vào đâu được, và ca ngợi chính giới phái mình luôn luôn là điều đáng ngờ, thông thường là xuẩn ngốc; hơn nữa, trong trường hợp này, làm sao lời biện giải của chính mình có thể bào chữa được? Người ta chẳng thể nào bước đến bức bản đồ và bảo rằng Columbus khám phá ra Mĩ châu và Columbus là đàn bà; hoặc cầm quả táo phát biểu Newton khám phá ra định luật vạn vật hấp dẫn và Newton là đàn bà; hoặc nhìn lên trời bảo phi cơ đang bay trên trời và phi cơ do đàn bà sáng chế. Trên tường không có nét vạch đo chiều cao chính xác của đàn bà. Không có thước đo chuẩn xác đến từng phân li cho người ta đem ra đo lường phẩm giá người mẹ hiền, sự tận tụy của cô con gái, lòng chung thủy của người chị hay khả năng bà quản gia. Thậm chí, tại các trường đại học ngày nay, ít có phụ nữ nào được cho điểm; những sự thử thách lớn của những ngành nghề chuyên môn, quân đội, thương mại, chính trị, ngoại giao rất hiếm dành chỗ đứng cho họ. Họ gần như không được xếp hạng. Nhưng chẳng hạn nếu cần biết tất cả những gì con người có thể biết về Sir Hawley Butts, tôi chỉ việc giở sách của Burke [80] hay Debrett [81] là có ngay mọi chi tiết về ông như ông đỗ bằng này bằng kia; làm chủ một tòa dinh thự; thừa kế một gia sản không nhỏ; từng làm thư kí của ủy ban; từng làm đại sứ Anh quốc ở Canada; tôi cũng biết rõ giấy khen thưởng, bằng tưởng lục và huân chương nào ghi nhớ muôn đời công trạng của ông. Chỉ có Thượng đế mới biết về Sir Hawley Butts nhiều hơn thế.
Bởi thế, khi tôi gán ghép những cụm từ “khai triển tối đa”, “cái phức tạp vô hạn” lên người phụ nữ, tôi chẳng thể nào kiểm chứng những điều đó trong sách của Whitaker [82] , Debrett hoặc Niên mục đại học. Trong tình trạng khó xử này tôi phải làm gì? Và tôi lại nhìn lên kệ sách. Hết cuốn này sang cuốn kia tiểu sử của Johnson, Goethe, Carlyle, Sterne, Cowper [83] , Shelley [84] , Voltaire [85] , Browning và nhiều nhân tài khác. Đầu óc tôi lại nghĩ đến tất cả những vĩ nhân này, họ là người, và bởi những duyên do khác nhau, một hôm có người đàn bà hâm mộ tìm đến chung sống với họ, giao phó cả cuộc đời mình cho họ, làm tình với họ, viết về họ, đặt hết lòng tin vào họ; vậy mà những tình cảm sâu đậm như thế chỉ được miêu tả như là sự phụ thuộc qua lại nào đó. Tôi không khẳng định tất cả những quan hệ này là những mối tình tuyệt đối cao thượng, và Sir William Joynson Hicks [86] có lẽ sẽ phản đối. Nhưng chúng ta sẽ hiểu sai các vĩ nhân này nhiều lắm nếu khăng khăng bảo họ chẳng được gì từ những mối tình đó ngoài giây phút êm đềm, sự tự ái được vuốt ve bởi những lời tâng bốc hoặc khoái cảm thể xác. Hiển nhiên, kẻ cùng giới chẳng thể nào đem đến cho họ những điều này; và có lẽ chẳng có gì hấp tấp nếu chúng ta định nghĩa xa hơn nữa mà không cần trích dẫn những từ ngữ kêu như chuông đồng của thi sĩ, đó là, năng lực sáng tạo được kích thích và đổi mới hay không là do món quà tặng của người khác phái đem đến. Tôi hình dung ông mở cửa phòng khách hoặc nhà trẻ và bắt gặp nàng cùng bầy con hay với tấm vải thêu trên đùi - và dù là gì chăng nữa thì trọng tâm sự khác biệt giữa hai hệ đời sống, sự tương phản giữa thế giới này và thế giới của riêng ông, có thể là tòa án hay Thứ dân Nghị viện, ngay lập tức làm mới và tiếp thêm cái năng lực sáng tạo trong ông; tiếp theo đó, thậm chí chỉ cần trao đổi vài câu nói bâng quơ, những quan điểm tự nhiên khác nhau như những ý tưởng khô hạn bỗng một lần nữa trở nên mỡ màu; và sự kiến tạo hình ảnh nàng trong môi trường khác, thôi thúc năng lực sáng tạo trong ông tiếp tục viết tiếp truyện dở dang, và đầu ông bỗng bật lên câu văn hay cảnh tượng ông không nghĩ ra lúc đội mũ vào thăm nàng. Mỗi ông Johnson đều có một nàng Thrale, ông không muốn mất nàng bởi những lí do này, rồi khi Thrale lập gia đình với thầy dạy nhạc người Ý, Johnson tức giận và chán chường đến cuồng điên, chẳng phải bởi ông tiếc nhớ những buổi tối êm ả ở Streatham mà chỉ vì ngọn lửa đời sống của ông “tắt ngấm” mất rồi.
Tuy không phải là bậc kì tài như Johnson, Goethe, Carlyle, hay Voltaire, nhưng người ta vẫn có thể cảm thấy bản chất của tính phức tạp và năng lực sáng tạo phát triển đến mức cao độ ở phụ nữ, mặc dù so với các vĩ nhân kia nó khác xa. Người ta đặt chân vào căn phòng - vốn liếng tiếng Anh người ta phải kéo dài ra, những từ ngữ cần đôi cánh bất chấp mọi chướng ngại vật bay vút lên, hiện hình trước khi người đàn bà có thể nói điều gì xảy ra khi chị bước vào căn phòng. Những căn phòng hoàn toàn khác nhau; căn này yên ắng, căn kia ồn ào; căn này nhìn ra biển cả bao la, căn kia nhìn vào khoảng sân nhà tù; căn này treo đầy quần áo, căn kia ngồn ngộn đá quý và lụa là; căn này cứng như bờm ngựa, căn kia mềm tựa lông chim - người ta chỉ cần bước vào bất cứ căn phòng nào, nằm trên bất cứ con phố nào là bắt gặp toàn bộ cái năng lực nữ phái cực kì phức tạp kia bay ra đập vào mặt. Có cách nào khác không? Bởi cả triệu năm nay, phụ nữ ngồi yên lặng giữa bốn bức tường, vì thế giờ đây, chính những bức tường này là nơi thẩm thấu năng lực sáng tạo của họ, và quả thế, mỗi viên gạch, mỗi tấc vữa tường như căng cứng những khả năng cần thiết để liên kết ngòi bút với thế giới bên ngoài, kinh tế, chính trị. Nhưng năng lực sáng tạo này của đàn bà khác xa năng lực sáng tạo của đàn ông. Và người ta phải kết luận là thật ngàn lần đáng tiếc nếu năng lực này bị cản trở hoặc phí hoài, vì ngày nay người ta có nó là nhờ những cố gắng kiên tâm vượt bực trong nhiều thế kỷ và chẳng gì thay thế nó được. Cũng nghìn lần đáng tiếc nếu đàn bà viết như đàn ông, sống như đàn ông hay bộ dạng như đàn ông, bởi nếu hai giới phái đều có những khiếm khuyết thì làm thế nào chúng ta xoay xở trong cái thế giới bao la và muôn vẻ này chỉ với một giới phái? Phải chăng nền giáo dục nên đưa ra và vun đắp cái khác biệt thay vì cái giống nhau giữa hai giới phái? Vì chúng ta đã có quá nhiều điểm giống nhau, và nếu nhà thám hiểm quay về mang theo tiếng nói của giới phái kia nhìn từ cành cây khác trong bầu trời khác thì ông ta quả đã làm được điều thật tốt đẹp cho nhân loại; và chúng ta cũng cảm thấy vô cùng hài lòng khi nhìn giáo sư X hấp tấp đi tìm bó thước đo của ông để chứng tỏ ông là “người vượt trội”.
Sẽ phải tách rời tác phẩm của Mary Carmichael ra khỏi chị, tôi nghĩ trong lúc vẫn lượn lờ ở khoảng cách khá xa trang sách, để chị chỉ có tư cách người quan sát mà thôi. Tôi e là chị nghe theo cám dỗ, đi vào con đường trở thành tiểu thuyết gia kiêm nhà tự nhiên học, nhánh sáng tác mà tôi cho là kém thú vị hơn, chứ không phải nhà văn viết với suy nghiệm. Chị có quá nhiều sự kiện mới mẻ để quan sát. Chị sẽ không cần tự giam mình trong căn hộ khang trang của tầng lớp trên trung lưu. Không cần hạ cố, cũng chẳng việc gì phải tử tế, nhưng với tinh thần đồng cảm, chị sẽ thâm nhập vào những căn phòng chật hẹp, sặc mùi nước hoa, nơi cô gái giang hồ, cô gái điếm và người đàn bà với con chó ngồi chờ. Nơi đó, họ ngồi im lìm với áo quần thô lậu mà nhà văn nam khoác lên họ như một sự tất yếu. Nhưng Mary Carmichael sẽ lôi ra cái kéo của chị và sẽ cắt xén áo xống họ cho đến khi nào thật vừa vặn mới thôi. Cảnh tượng khi những người đàn bà này lột xác chắc là lạ lùng lắm, nhưng hãy khoan, bởi Mary Carmichael vẫn còn đang bị vướng víu với ý thức về bản thể, sự hiện hữu của “tội lỗi” bắt nguồn từ căn tính tàn bạo giữa giới phái với nhau. Chân chị vẫn tròng trong cái gông cùm xấu xí, hoen rỉ của giai tầng.
Tuy thế, đa phần đàn bà không là gái điếm; mà cũng chẳng mấy ai ngồi giữ chó bằng sợi vải nhung bụi bặm suốt buổi chiều hè. Nhưng nếu không thế thì họ làm gì đây? Dưới con mắt của trí tưởng tượng, tôi thấy họ bước trên con lộ dài chạy dọc phía nam bờ sông, nơi nhà cửa chen chúc san sát nhau, dân cư đông vô số kể. Với con mắt của trí tưởng tượng, tôi thấy bà cụ già đang băng qua đường trong vòng tay của người phụ nữ trung niên, có lẽ là con gái bà. Cả hai đều ăn mặc lịch sự, giày ống cao và áo choàng lông thú, bộ áo dài họ mặc chiều nay là trang phục cho buổi lễ nào đó, bộ áo suốt mùa hè, năm này qua năm khác, nằm yên trong tủ bên cạnh những tảng băng phiến. Họ băng qua đường khi đèn đường bất đầu le lói (bởi lúc chập tối là thời khắc thú vị nhất với họ) như mọi lần khác, năm này qua năm nọ. Bà cụ dễ chừng đã gần tám mươi; nhưng nếu có người hỏi cuộc sống của cụ có ý nghĩa gì thì cụ sẽ trả lời là cụ nhớ hôm đèn đường rực sáng ghi dấu trận Balaclava, cụ cũng nhớ hôm tiếng súng từ công viên Hype nổ rền mừng ngày sinh vua Edward Đệ thất. Nhưng nếu có kẻ cắc cớ muốn phân định biến cố xảy ra vào ngày nào, mùa nào hỏi rằng thế ngày mùng năm tháng Tư năm 1868 hoặc mùng hai tháng Mười một năm 1875 cụ đang làm gì, thì cụ sẽ nhìn lên ngơ ngác và bảo là cụ chẳng nhớ gì cả. Cụ nấu không biết bao nhiêu bữa ăn; rửa không biết bao nhiêu bát đĩa; con cái đi học rồi bước vào đời. Chẳng còn gì ở lại. Tất cả tan biến. Không sách tiểu sử hay lịch sử nào có một câu, một từ về chuyện đó. Và tiểu thuyết, dẫu không chủ ý, chỉ là mớ chữ xảo ngôn, lừa mị.
Tất cả những kiếp sống mờ tối này vẫn chưa có ai đem ra khai thác, tôi bảo Mary Carmichael như thể chị đang ngồi trước mặt, rồi tôi lại cho ý nghĩ mình đi xuyên qua đường phố London để cảm nhận trong tưởng tượng ra cái ẩn ức của sự câm nín, của những kiếp đời chất chồng tối tăm từ những người đàn bà ở nơi góc đường hai tay chống nạnh, ngón tay mập mạp đeo nhẫn, khoa tay múa chân nói như giọng điệu bay bổng của câu văn Shakespeare; hoặc từ cô gái bán hoa, cô gái bán diêm, từ mụ già trụ dưới lối ra vào; từ cô gái qua lại trên đường mà sắc mặt cô, như lớp sóng dưới trời mây, là dấu hiệu có người đang đến và là ánh đèn chớp lóe từ ô cửa sổ cửa hàng. Chị sẽ phải khai thác tất cả những mẩu chuyện đó, trong lúc cầm chắc ngọn đuốc trong tay, tôi bảo Mary Carmichael như thế. Trên hết, chị phải thắp sáng tâm hồn mình với tất cả những bề thâm sâu cũng như nông cạn, tính khoa trương cũng như tính khiêm nhường của nó, và nói cho mọi người cùng nghe đối với chị cái đẹp, cái vô vị có ý nghĩa nào đáng kể và mối tương quan nào giữa chị và thế giới không ngừng biến thiên, quay cuồng ngoài kia, thế giới của giày dép, găng tay và các đồ vật tạp nham đu đưa lên xuống lẫn trong mùi hóa chất nồng nặc bay lên từ mái vòm của những cửa hàng vải vóc, từ trên nền gạch giả đá hoa cương. Bởi trong lúc tưởng tượng, tôi đặt chân vào một cửa hàng như thế; sàn nhà lát gạch hai màu đen trắng, những dải băng đủ màu sắc trông thật đẹp mắt giăng khắp nơi. Mary Carmichael chắc phải trông thấy nó nếu chị tình cờ ngang qua, tôi đồ thế, và nó là cảnh sắc phù hợp tuyệt hảo với ngòi bút của chị, chẳng kém gì đỉnh tuyết hay gờ đá của rặng núi Andes. Và sau quầy bán hàng cũng có một cô gái - chẳng mấy chốc tôi thấu được “bản lai diện mục” cô, cô là đời sống thứ một trăm năm mươi của Napoleon, cô là bài học thứ bảy mươi về Keats và là phép đảo nghịch thơ mà giáo sư Z cùng những đồng nghiệp đang làm. Thế rồi, tôi dè dặt tiếp lời, tôi nhón gót bước đi thật khẽ (tôi nhát nhúa lắm, tôi vẫn còn khiếp ngọn roi suýt nữa quất lên vai mình), để thì thầm rằng chị cũng nên học cách cười nữa, nhưng không phải nụ cười cay đắng lên cái tự cao tự đại - đúng hơn cái đặc dị, vì từ này ít xúc phạm hơn - của người khác phái. Bởi có cái bớt to bằng đồng xu nằm sau gáy người ta chẳng bao giờ tự nhìn thấy. Một trong những việc tốt giới phái này làm được cho giới phái kia là miêu tả cái bớt to bằng đồng xu nằm sau gáy đó. Hãy nghĩ, sẽ có biết bao điều lợi ích cho giới phụ nữ với những bình luận của Juvenal; hay phê bình của Strindberg. Hãy nghĩ, phải chi nhân loại và những nhà bác học uyên bác từ những kỉ nguyên xa xưa chỉ ra cho đàn bà thấy cái bớt đen to bằng đồng xu nằm sau gáy họ! Và nếu Mary là người can đảm và lương thiện, chị sẽ luồn ra sau lưng giới phái kia và kể lại cho chúng ta nghe chị trông thấy gì. Hình ảnh thật và trọn vẹn của người đàn ông sẽ chẳng bao giờ được khắc họa một cách hoàn chỉnh cho đến khi nào người đàn bà miêu tả cái bớt to bằng đồng xu nằm sau gáy họ. Ông Woodhouse, ông Casaubon đều là những cái bớt cỡ như thế. Dĩ nhiên, không ai là người có chút nhận thức lại khuyên chị đem chuyện đó ra miệt thị và biến mục tiêu của mình thành trò tào lao - văn học cho thấy sự vô bổ, chẳng đi đến đâu của những tác phẩm viết trên tinh thần đó. Hãy tôn trọng sự thật, có lẽ người ta bảo thế, và kết quả sẽ bật ra vô cùng ngoạn mục. Hài kịch sẽ phong phú hơn nhiều. Sẽ khám phá ra nhiều sự kiện mới lạ.
Tuy nhiên, đã đến lúc tôi nên hạ cái nhìn xuống trang sách. Thay vì phỏng đoán những gì Mary Carmichael viết hoặc nên viết như thế nào trong sách của chị, tốt hơn là tôi nên ghé mắt vào đọc xem chị đã viết gì. Thế là, tôi tiếp tục đọc. Tôi nhớ tôi không bằng lòng lắm với một số điều trong văn phong chị. Chị phá vỡ cấu trúc câu văn của Jane Austen, và bởi thế chị không cho tôi cơ hội tự phô diễn thị hiếu hoàn hảo và lỗ tai khó tính của tôi. Thật vô ích nếu tôi bảo, “Vâng, vâng, chị viết hay lắm; nhưng Jane Austen viết hay hơn chị nhiều”, đến đây tôi phải thú nhận là giữa hai người không có điểm giống nhau nào. Rồi chị còn đi xa hơn thế, chị phá vỡ luôn cái trật tự cũ trong câu văn. Có lẽ, chị không chủ ý làm như thế, mà chỉ đơn thuần cho nó cái tuần tự tự nhiên, viết như một phụ nữ viết, nếu quả thật chị viết như một phụ nữ. Nhưng hiệu ứng của nó, bởi nguyên do nào đó, khiến tôi chưng hửng; người ta không thấy những đợt sóng xô nhau, không thấy những tai biến sắp đổ xuống ở góc ngoặt sắp tới. Bởi thế, tôi không tài nào tự phô diễn được chiều sâu của cảm xúc trong tôi và hiểu biết sâu sắc của tôi về trái tim con người. Lần nào cũng thế, hễ tôi sắp cảm thấy những sự vật thông thường ở những nơi chốn thông thường, về tình yêu, về cái chết, thì con quái thú khó ưa đó lại kéo phăng tôi ra chỗ khác như thể vẫn còn xa chút nữa mới đến trọng tâm. Và vì thế, chẳng có cách nào cho tôi thốt ra những lời lẽ kêu vang về “những cảm xúc cơ bản”, về “những phẩm chất chung của nhân loại”, về “chiều sâu của trái tim con người”, và tất cả những cụm từ khác hỗ trợ cho lòng tin của chúng ta, đó là, dẫu trên tầng cao, chúng ta có thông minh, xuất chúng như thế nào chăng nữa thì dưới tầng thấp, chúng ta vẫn nghiêm túc, sâu sắc và nhân bản. Ở đây, chị khiến tôi có cảm giác ngược lại, thay vì nghiêm túc, sâu sắc và nhân bản, người ta chỉ cảm thấy - và ý nghĩ này chẳng hấp dẫn chút nào - lười nhác trong suy nghĩ và sẵn sàng chấp nhận hòa giải.
Nhưng tôi đọc tiếp và ghi nhận được một số những dữ kiện khác. Hiển nhiên chị không là “thiên tài”. Chẳng hạn, chị không có tình yêu thiên nhiên; chị không có trí tưởng tượng bốc lửa, không có chất thơ hoang dại, không có mưu trí tài tình, không có cái minh triết ưu tư của những người đi trước như Lady Winchilsea, Charlotte Brontë, Emily Brontë, Jane Austen and George Eliot; chị cũng không có biệt tài viết với nhạc điệu và phẩm chất của Dorothy Osborne - quả vậy, chị chỉ là cô gái khéo léo và sách của chị chắc chắn sẽ bị các nhà xuất bản nghiền nát trong thời gian không quá mười năm. Nhưng dẫu thế, chị có một số lợi thế mà những ngòi bút nữ có tài hơn chị nhiều, sống trước chị chưa đầy nửa thế kỷ không có. Với chị, đàn ông không còn là “phe cánh đối nghịch” nữa; chị không cần phí phạm thời gian chửi rủa họ; chị không cần phải trèo lên nóc nhà và khuấy động sự bình yên trong tâm trí mình với những khao khát đi đây đi đó, những khao khát nếm trải cuộc đời, hiểu biết về thế giới mà chị không bao giờ có. Sự khiếp hãi và lòng thù ghét gần như tan biến, hoặc giả dấu vết của nó chỉ thấy xuất hiện khi chị hơi cường điệu trong cung cách bộc lộ nỗi vui sướng được tự do, một khuynh hướng ứng xử với người khác phái có tính cách châm biếm sâu cay và nhạo báng nhiều hơn là lãng mạn. Và rồi, với tư cách tiểu thuyết gia, không có gì đáng ngờ là chị được hưởng nhiều lợi thế tự nhiên. Sự nhạy cảm của tâm hồn chị thật là sâu rộng, tha thiết và phóng khoáng. Chỉ cần một va chạm nhẹ, gần như vô hình, nó đã phản ứng lại rồi. Nó say mê, thích thú thưởng lãm đời sống như nhánh cây non đứng giữa trời nghe ngóng bất cứ hình ảnh, âm thanh nào dội đến. Nó cũng len lỏi một cách rất tinh tế và hiếu kì vào những sự vật gần như chưa ai biết đến hoặc ghi chép lại bao giờ; nó soi sáng lên những vật bé nhỏ và cho thấy chưa chắc chúng đã bé nhỏ. Nó đào bới lên những thứ bị chôn vùi và làm người ta phải băn khoăn tự hỏi cái gì đã khiến nó bị chôn vùi. Vụng về và không phải là người kế tục cái di sản quý báu của người đi trước, những người như Thackeray hoặc Lamb mà ngòi bút tạo cảm khoái cho người đọc, tuy thế, chị đã - và tôi bắt đầu nghĩ ngợi - học thuộc bài học lớn thứ nhất; chị viết như phụ nữ, nhưng là một phụ nữ đã quên đi mình là phụ nữ, khiến những trang sách của chị tràn đầy những phẩm chất giới tính lạ lùng mà chỉ xuất hiện khi vấn đề giới tính nằm trong vô thức.
Tất cả những điều này đều hướng về sự tốt đẹp. Nhưng sẽ không nhiều cảm giác hoặc tri giác tinh tế, thâm thúy có giá trị, trừ phi với vốn liếng riêng, chị có thể xây dựng tòa nhà lâu bền, không bị sụp đổ qua thử thách. Tôi có nói là tôi chờ đến khi nào chị tự đối mặt với một “cảnh huống”. Nói như thế có nghĩa là chị phải chứng tỏ bằng cách tập hợp mọi trí năng để đào sâu bên trong của vấn đề chứ không chỉ chờn vờn qua quýt trên bề mặt. Lúc nào đó, chị sẽ nhủ với chính mình rằng bây giờ là thời điểm tôi có thể chỉ ra ý nghĩa của tất cả những điều này mà không cần dùng đến phương tiện mạnh bạo nào. Và chị bắt đầu - sự hăng hái đó hiển nhiên biết bao! - tập hợp mọi khả năng, biểu đạt mọi dấu hiệu, và nơi đó nó hiện lên trong trí tưởng, nửa nhớ nửa quên, và có thể nhân tiện gạt bỏ những điều khá tầm thường. Trong lúc có người đang khâu vá hoặc hút tẩu, chị cho chúng ta thấy sự có mặt của họ thật tự nhiên, càng tự nhiên càng hay, và người ta có cảm tưởng, trong lúc ngòi bút chị dàn trải ý tưởng trên mặt giấy, như thể mình đứng trên đỉnh đầu thế giới và thấy nó trải ra vô cùng uy nghi bên dưới.
Dù sao chăng nữa, chị có nỗ lực. Và trong lúc quan sát chị duỗi dài người với cuộc thử nghiệm, tôi trông thấy, nhưng hi vọng chị không thấy, các ngài giám mục, trưởng khoa, các bác sĩ, giáo sư, các tộc trưởng và nhà mô phạm, tất cả đang gân cổ hét lên cảnh báo và chỉ bảo chị. Chị không được làm thế này, chị không được làm thế kia! Chỉ những học giả mới được phép đi trên bãi cỏ! Đàn bà không được phép vào nếu không có thư giới thiệu! Đây mới là phương hướng cho những nữ tiểu thuyết gia khả ái và có hoài bão! Họ hò hét bên cạnh chị như đám đông bên hàng rào trường đua ngựa, và đó là cuộc xét xử dành cho chị mà chị không được quyền nhìn phải, nhìn trái. Nếu chị ngưng nguyền rủa lúc này, chị sẽ là kẻ thua cuộc, tôi bảo chị như thế; nếu chị ngưng tiếng cười, chị cũng thua. Ngập ngừng hay vấp ngã, chị sẽ bị đào thải ngay. Hãy nghĩ đến cú nhảy, chỉ có cách nhảy lên, tôi van nài chị như thể tôi đặt tất cả tiền bạc của tôi trên lưng chị; và chị bay bổng qua chướng ngại vật như loài chim. Nhưng xa chút nữa, có cái rào chắn và cái nữa cứ thế liên tiếp cản đường chị. Chị giữ mãi được năng lực cần thiết để tiếp tục con đường đó hay không, tôi không chắc lắm, bởi tiếng vỗ tay, tiếng hò hét như xoáy vào thần kinh. Nhưng chị cố gắng hết sức mình. Mary Carmichael không phải là thiên tài, chị chỉ là có gái vô danh bình thường viết cuốn tiểu thuyết đầu tay của mình trong phòng ngủ, trong lúc không có đầy đủ những điều thiết yếu như thời gian, tiền bạc và sự nhàn rỗi, tôi nghĩ là chị không đến nỗi tệ.
Cho chị một trăm năm nữa, tôi kết luận trong lúc đọc nốt chương cuối cuốn sách - mũi và những bờ vai trần của con người hiện lên trần trụi dưới bầu trời sao, bởi có người giật mạnh tấm màn cửa trong phòng khách - hãy cho chị căn phòng riêng và năm trăm bảng mỗi năm, hãy để chị nói lên ý nghĩ trong đầu mình, gạt bớt phân nửa những gì chị nói bây giờ, rồi ngày nào đó chị sẽ có tác phẩm hay hơn. Một trăm năm nữa chị sẽ là thi sĩ, tôi nghĩ thế trong lúc cầm lên cuốn Cuộc phiêu lưu của sự sống của Mary Carmichael, và trả nó về cuối kệ sách.