← Quay lại trang sách

Chương sáu

Sáng hôm sau, nắng tháng Mười từ cửa sổ không treo rèm chiếu vào gian phòng bụi bặm, và tiếng xe cộ qua lại từ dưới đường phố vọng lên rì rầm. London đang vươn mình thức giấc; nhà máy rục rịch tiếp tục sản xuất, máy móc lại bắt đầu chuyển động. Sau khi đọc xong chừng đó sách vở, người ta có ý muốn nhìn ra ngoài cửa sổ xem London đang làm gì vào buổi sáng ngày 26 tháng 10 năm 1928 này. Và London đang làm gì? Dường như chẳng ai buồn đọc Antony và Cleopatra . Cả London vẫn thản nhiên với kịch của Shakespeare. Chẳng ai buồn quan tâm - và tôi không trách họ được - tương lai của văn học, cái chết của thi ca, sự phát triển của văn xuôi trong giới cầm bút phái nữ với phong cách biểu hiện hoàn toàn tự do. Nếu có kẻ lấy phấn trắng viết những quan điểm này xuống hè đường phố thì cũng chẳng có ai ngừng lại cúi đầu đọc chúng. Những đôi chân vội vã và thờ ơ sẽ xóa sạch những dòng chữ đó trong nửa tiếng đồng hồ. Đây cậu bé lang thang, kia người đàn bà dắt chó đi dạo. Đường phố London mê hoặc người ta ở chỗ không bao giờ có hai kẻ giống nhau; mỗi người vẻ như đặt hết tâm trí vào công việc riêng tư của mình. Người đi làm khoác cái túi nhỏ cạnh bên; kẻ vô công rồi nghề đi luẩn quẩn, tay cầm gậy gõ lạch cạch ở khu vực có rào cản; người nhã nhặn xem đường phố như phòng họp câu lạc bộ, lúc giơ tay vẫy chào người ngồi trên xe, lúc mở miệng nói những điều không ai hỏi, không ai cần biết. Rồi lại có những đám tang đi ngang qua, người đứng trên đường giơ mũ chào bởi họ đột nhiên nhớ ra thân xác mình cũng sẽ đến lúc tiêu tan. Rồi người đàn ông ăn mặc cực kì lịch sự chậm rãi bước ra cửa và chợt khựng lại để tránh người đàn bà đang rầm rầm phóng tới, bằng cách nào đó, cái áo choàng lông thú vẫn khoác trên người và bó hoa tím trên tay bà. Ai nấy đều như chìm đắm trong thế giới riêng của mình, không màng gì đến sự việc xảy ra chung quanh, mà chỉ biết chú tâm vào chuyện riêng.

Vào thời điểm này, như vẫn thường xảy ra ở London, có giây phút mọi thứ bỗng nhiên lắng xuống và xe cộ như ngừng lại. Đường phố chợt vắng vẻ; không ai qua lại. Một chiếc lá từ cây tiêu huyền nơi cuối dường lìa cành rơi xuống giữa khoảnh khắc yên ắng, ngưng đọng. Bằng cách nào đó, nó như tín hiệu không biết từ đâu rơi xuống, một tín hiệu cho thấy sức mạnh trong sự vật mà người ta bỏ qua. Hình như nó chỉ dẫn về phía dòng sông, dòng sông chảy vô hình quanh khúc ngoặt, về phía cuối đường, và người ta bị nó cuốn trôi như dòng sông ở Oxbridge, nơi anh sinh viên chèo thuyền cùng đám lá vàng bập bềnh trôi trên dòng nước. Nó đưa cô gái đi ủng da từ bên này đường băng chéo qua bên kia, rồi đến lượt chàng thanh niên mặc áo choàng màu hạt dẻ; nó cũng làm thế với chiếc tắc xi; nó đưa cả ba vật thể đó cùng đến điểm hẹn ngay dưới cửa sổ phòng tôi; chiếc tắc xi đỗ lại; cô gái cùng chàng thanh niên chui vào và chiếc xe lướt đi như thể bị dòng nước cuốn phăng.

Cảnh tượng thật bình thường; điều lạ lùng ở đây là cái tuần tự nhịp nhàng mà trí tưởng tượng của tôi đầu tư vào nó; sự kiện một cảnh tượng bình thường như hai con người chui vào xe tắc xi lại có khả năng truyền đạt cái gì như là sự mãn nguyện riêng tư của họ. Cảnh tượng hai người bước xuống phố và gặp nhau nơi góc đường có vẻ khiến thần kinh người ta trở nên thư giãn, bớt căng thẳng, tôi nghĩ thế trong lúc nhìn theo chiếc xe chở họ rẽ vào khúc quành rồi biến mất. Có lẽ, tách bạch, đầu óc tôi lao đao với những ý tưởng này hai hôm nay, giới phái này ra khỏi giới phái kia là một nỗ lực lớn. Nó can thiệp vào sự thống nhất trong ý tưởng. Giờ đây, nỗ lực đó ngừng lại và sự thống nhất khôi phục nhờ thấy cảnh hai người, một đàn ông một đàn bà, gặp gỡ nhau và chui vào xe tắc xi. Đầu óc con người phải là một cơ quan vô cùng bí ẩn, tôi nghĩ trong lúc rụt đầu vào, chúng ta hoàn toàn phụ thuộc vào nó mặc dù chúng ta chẳng biết gì về nó. Tại sao tôi cảm thấy có sự chia cắt và đối nghịch bên trong tâm trí, như sự căng thẳng từ những nguyên cớ hiển nhiên của thân xác? “Sự thống nhất trong ý tưởng” nghĩa là gì? Bởi hiển nhiên, trí óc có năng lực tập trung ở bất cứ thời điểm nào và năng lực này phi thường đến nỗi dường như nó chẳng bao giờ tồn tại ở trạng thái đơn độc. Thí dụ, từ cửa sổ trên cao nhìn xuống, nó có thể tự tách khỏi đám đông dưới mặt đường và nghĩ mình không phải là bộ phận của đám đông. Hoặc nó có thể nghĩ nó đang cùng đám đông chờ đợi nghe ngóng một thông tin nào đó. Qua cha mẹ sinh thành ra nó, nó có thể quay ngược về quá khứ, như tôi đã nói trong lúc viết, người đàn bà suy nghĩ qua mẹ của mình. Một lần nữa, nếu là đàn bà, người ta thường kinh ngạc bởi hiện tượng ý thức đột ngột tách đôi, thí dụ trong lúc thả bộ xuống phố Whitehall, bà cảm thấy mình là kẻ thừa kế tự nhiên của nền văn minh đó, nhưng cùng lúc bà thấy mình là kẻ đứng ngoài, xa lạ và khó có thể hòa đồng. Rõ ràng, trí óc luôn luôn tìm cách biến đổi điểm tập trung và mỗi lần thay đổi là một viễn cảnh khác của thế giới hiện ra. Nhưng giữa những trạng thái ý thức khác nhau, dường như có trạng thái gây khó chịu hơn, ngay cả nếu chúng chế ngự trí óc ta cùng lúc. Để tiếp tục duy trì những trạng thái ý thức đó, người ta phải cất giữ cái gì đó một cách vô thức, dần dà sự ức chế biến thành nỗ lực. Nhưng cũng có những trạng thái ý thức người ta không cần vận dụng nổ lực để tiếp tục duy trì bởi không có điều gì phải giữ lại. Và có lẽ, đây là một trong những trạng thái ý thức đó, tôi nghĩ thế trong lúc từ cửa sổ đi vào trong nhà. Bởi chắc chắn, trong lúc nhìn đôi tình nhân chui vào xe tắc xi, trí óc tôi cảm thấy như thể, sau khi bị chia cắt, một lần nữa nó nhập lại trong trạng thái hợp nhất tự nhiên. Nó là sự kiện hiển nhiên bởi sự cộng sinh của hai giới phái là điều hoàn toàn tự nhiên. Bản năng thẳm sâu, nhưng cũng phi lí của con người là có thiện cảm với giả thuyết cho rằng sự hợp nhất của đàn ông và đàn bà là cái gì thỏa mãn nhất, đem đến hạnh phúc toàn vẹn nhất. Nhưng cảnh tượng đôi tình nhân chui vào xe tắc xi và sự mãn nguyện nó đem lại cho tôi buộc tôi phải đặt lại câu hỏi, phải chăng có hai giới tính trong trí tưởng tương ứng với hai giới tính của phần thể xác, và phải chăng chúng cũng cần được hợp nhất để đem đến sự mãn nguyện và hạnh phúc toàn vẹn? Và, một cách tài tử, tôi tiến hành phác thảo đồ án cho tâm hồn, đó là, trong mỗi chúng ta có hai năng lực chỉ huy song hành, một nam, một nữ; và trong trí óc người đàn ông, đàn ông chiếm ưu thế hơn đàn bà, trong trí óc người đàn bà, đàn bà chiếm ưu thế hơn đàn ông. Khi cả hai chung sống với sự hòa đồng, trong tinh thần hợp tác, thì trạng thái của hiện hữu là trạng thái bình thường và thoải mái. Nếu là đàn ông thì phần đàn bà trong trí óc ông ta phải có hiệu ứng; và ngược lại, người đàn bà cũng phải giao hòa với phần đàn ông trong trí óc mình. Có lẽ, Coleridge [87] muốn nói như thế khi ông nói khối óc vĩ đại là khối óc lưỡng tính. Đó là lúc sự hợp nhất xảy ra và trí óc trở nên phong phú, tận dụng tất cả khả năng của nó. Tôi nghĩ có lẽ trí óc thuần nam sẽ không đủ khả năng sáng tạo và trí óc thuần nữ cũng thế. Nhưng nam - nữ tính hoặc ngược lại nữ - nam tính nghĩa là gì? Hãy đem chúng ra kiểm nghiệm bằng cách ngưng lại và tìm đọc vài ba cuốn sách.

Khi phát biểu khối óc vĩ đại là khối óc lưỡng tính, Coleridge chắc chắn không ngụ ý đó là khối óc có thiện cảm với phái nữ; hoặc khối óc bênh vực cho nữ quyền; hoặc khối óc chuyên chú vào việc lí giải, xét đoán phụ nữ. Có lẽ, khối óc lưỡng tính không đủ điều kiện thực hiện những công việc phi phàm này so với khối óc đơn tính. Có thể, ông muốn nói khối óc lưỡng tính thì vang dội và dễ thẩm thấu; nó dễ truyền đạt cảm xúc mà không gặp trở ngại nào; nó sẵn tính sáng tạo tự nhiên; nó sáng tỏ và không vẹn toàn. Thật vậy, người ta có thể quay lại Shakespeare để biết thế nào là khối óc lưỡng tính, khối óc nam - nữ tính, dù không ai biết ông nghĩ gì về đàn bà. Nếu quả thực là một trong những dấu hiệu cho biết khối óc nảy nở toàn vẹn là trong quá trình suy tưởng nó không đặc biệt ngả về giới phái nào thì bây giờ vẫn là lúc khó khăn hơn bao giờ hết cho người ta đạt đến tình trạng này. Chỗ này, tôi mở những trang sách viết bởi các tác giả đương thời, chỗ kia, tôi ngưng lại và phân vân tự hỏi phải chăng sự kiện này chính là căn nguyên khiến tôi điên đầu bấy lâu nay. Không thời đại nào vấn đề ý thức giới phái lại ồn ào như thời của chúng ta; hằng hà sa số sách vở nằm trên kệ trong Viện Bảo tàng Anh quốc của đàn ông viết về đàn bà là bằng chứng. Và cuộc vận động Suffrage [88] là thủ phạm chứ không ai khác. Nó khích động đàn ông và gieo vào họ khát vọng khác thường cho sự tự khẳng định; nó khiến họ đặt nặng trọng tâm lên phái nam và những tính cách đặc trưng của giới phái này, những điều họ có lẽ chẳng buồn quan tâm nếu họ không gặp sự chống đối. Khi có kẻ chống đối, cho dù chỉ là vài cô, vài bà đội mũ đen, họ trả đũa ngay tức khắc, và nếu trước đây chưa bao giờ bị chống đối, họ sẽ trả đũa một cách thậm tệ. Có lẽ, điều đó lí giải được vài tính cách đặc trưng mà tôi nhớ mình tìm thấy ở đây, tôi nghĩ như thế trong lúc cầm xuống cuốn tiểu thuyết mới xuất bản của ông A, một nhà văn đang ở thời kì sung mãn và hiển nhiên được các nhà điểm sách đặc biệt kính trọng. Mở cuốn sách, tôi thấy vui vui khi đọc lại một tác giả nam giới. Sau khi đọc một loạt sách của các bà, tôi thấy chữ nghĩa các ông dễ hiểu, không vòng vo. Nó hàm ngụ phong cách tự do trong suy nghĩ, tự do của con người và sự tự tin vào chính mình. Người ta có cảm giác đây là trạng thái an lạc của cơ thể với sự hiện hữu của khối óc tự do từ lâu vẫn được bồi dưỡng tốt, giáo dục tốt, một khối óc chưa bao giờ vấp phải sự chống đối hay trở ngại nào, nó hoàn toàn tự do từ lúc sinh ra để vươn dài trong bất kì cách thức nào nó muốn. Tất cả những điều này đều đáng khâm phục. Nhưng sau khi đọc một hai chương, hình như có cái bóng đen nằm ngang trang sách. Nó là cái vạch thẳng màu đen thẫm, cái bóng có hình dạng như chữ “I”. Người ta bắt đầu xoay đầu này đầu kia để cố nhìn vào phong cảnh ẩn đằng sau nó. Đó là thân cây hay người đàn bà đang đi, tôi không rõ lắm. Xoay trở cách nào người ta cũng bị réo gọi về chữ “I”. Người ta bắt đầu chán chữ “I”. Không phải chữ “I” trang trọng, lương thiện và hợp lí; không phải chữ “I” cứng như vỏ hạt dẻ và được lau chùi bóng loáng hàng thế kỷ nhờ giáo dục và bồi bổ tốt. Tôi thật lòng kính phục, khâm phục chữ “I” đó lắm. Nhưng - đến đây, tôi lật một hai trang nữa, tìm kiếm cái gì đó - điều tệ nhất là bên dưới cái bóng của chữ “I”, tất cả đều như sương mù, không hình thể. Đấy là thân cây ư? Không, đấy là người đàn bà. Nhưng… cô không có khúc xương nào trong cơ thể, tôi nghĩ trong lúc quan sát Phoebe, bởi đó là tên cô, đi trên bờ biển. Thế rồi, Alan đứng dậy và cái bóng của Alan xóa mờ hình ảnh Phoebe ngay tức khắc. Bởi Alan có những quan điểm này nọ và Phoebe bị dìm dưới cơn lũ những quan điểm đó. Và rồi tôi nghĩ Alan có những tình cảm nồng nàn; chỗ này, tôi lật thật nhanh hết trang này sang trang khác, tôi có cảm tưởng sự khủng hoảng đang đến dần, và nó thật sự xảy ra. Nó xảy ra trên bờ biển, dưới ánh mặt trời. Ngòi bút không che đậy, giấu giếm điều gì. Ngòi bút viết về nó thật bạo liệt. Chẳng có gì có thể sỗ sàng, khiếm nhã hơn. Nhưng… tôi dùng chữ “nhưng” hơi nhiều. Người ta chẳng thể nào cứ nói “nhưng” mãi. Bằng cách nào đó, người ta phải viết xong câu văn chứ, tôi tự khiển trách mình như thế. Tôi có nên viết cho xong không? “Nhưng - tôi thấy chán!” Nhưng tại sao tôi lại chán? Một phần bởi sự bao trùm của chữ “I” và sự khô khan, vô vị như cây dẻ khổng lồ phủ trùm mọi thứ khác trong bóng đen của nó. Không thứ gì có thể mọc lên ở đó. Và phần khác bởi những lí do không hiển nhiên. Hình như trong đầu ông A có cái gì cản trở, không cho bầu năng lượng sáng tạo bùng lên, nó bị chặn bên trong những giới hạn hẹp hòi. Và nhớ lại bữa tiệc trưa tại Oxbridge, tàn thuốc lá và chú mèo cụt đuôi, Tennyson và Christina Rossetti, tất cả tụ lại, rất có thể điều ngăn trở nằm ở nơi đó. Bởi anh không còn thì thầm với cô câu “Lăn xuống giọt nước mắt tuyệt mĩ, Từ cổng hoa nồng nàn” , nên khi Phoebe bước xuống bờ biển, cô không đáp lại anh với câu nói “Lòng tôi như con chim đang hót, Tổ nó trên máng nước” ; khi Alan đến gần, anh phải làm gì? vốn chân thật như ban ngày và hợp quy luật như mặt trời, anh chỉ có thể làm được một chuyện. Đó là chuyện anh làm, anh làm cho công lí của chính anh, và cứ thế (tôi vừa nói vừa lật trang sách) anh lặp đi lặp lại. Tôi nói thêm, nhận thức về bản chất đáng sợ của sự thú tội xem ra có phần tẻ nhạt. Cái khiếm nhã của Shakespeare bật lên cả nghìn thứ khác trong trí tưởng và nó chẳng tẻ nhạt tí nào. Nhưng Shakespeare làm thế chỉ để mua vui; trong khi ông A làm có mục đích. Mục đích của ông là phản đối. Ông đang chống đối sự bình đằng nam nữ bằng cách khẳng định sự vượt trội của chính mình. Bởi thế, ông bị ngăn trở, bị chặn đứng và ý thức về bản thân của ông chắc y như Shakespeare nếu Shakespeare cũng biết các cô Clough và Davies. Văn học thời Elizabeth chắc khác lạ lắm nếu phong trào nữ quyền khởi đi từ thế kỷ XVI thay vì XIX.

Và nếu giả thuyết khối óc hai mặt này đúng thì điều đó có nghĩa là cái nam tính mạnh mẽ kia giờ đây biến thành ý thức về bản thân mất rồi - tức là, đàn ông ngày nay viết văn chỉ với phần nam trong bộ óc họ mà thôi. Thật sai lầm nếu đàn bà đọc sách của phái nam, bởi tất nhiên chị sẽ chẳng bao giờ tìm thấy điều chị muốn tìm. Cái người ta tiếc nuối nhất là khả năng gợi mở, tôi nghĩ thế trong lúc cầm lên cuốn sách của nhà phê bình B, đọc nó với sự thận trọng và kính cẩn tối đa, đó là những lời bình phẩm của ông về nghệ thuật thi ca. Rất cao cấp, rất sắc bén và đầy trí tuệ; nhưng vấn đề là những cảm xúc của ông không còn khả năng truyền đạt nữa; trí óc ông hình như bị chia thành nhiều phần, mỗi phần trong một gian phòng; và không có sự truyền thanh từ phòng này sang phòng kia. Do đó, khi người ta cầm lên câu văn của ông B để đưa vào trí não mình, nó rơi đánh bịch xuống mặt đất - chết cứng; nhưng khi người ta cầm lên câu văn của Coleridge để cài vào trí não mình, nó bùng nổ và sản sinh không biết bao nhiêu ý tưởng khác, đó là thứ văn chương duy nhất người ta có thể bảo nó sở hữu bí ẩn của sự sống vĩnh cửu.

Nhưng dẫu lí do là gì chăng nữa, nó là sự kiện đáng buồn. Bởi điều đó có nghĩa là - đến đây tôi đến bên dãy sách của hai ông Galsworthy [89] và Kipling [90] - có những tác phẩm hay nhất viết bởi những nhà văn lớn nhất của chúng ta lại rơi vào khoảng chân không vô định. Với đàn bà, dù cố gắng cách nào chăng nữa, chị vẫn không tìm ra suối nguồn của sự sống vĩnh cửu mà các nhà phê bình đảm bảo với chị nó có hiện hữu ở đấy. Chẳng phải bởi nó chỉ ngợi ca những mẫu mực đạo đức của phái nam, chẳng phải bởi nó bắt người ta tuân thủ giá trị của phái nam và miêu tả thế giới phái nam; mà chính cái cảm xúc những cuốn sách này tìm cách thẩm thấu, với người đàn bà, là cái gì không hiểu nổi. Nó đang đến, đang tụ hội, sắp sửa bùng nổ trong đầu người ta, và nó vội vàng nói ra quá sớm trước khi đến đoạn kết. Hình ảnh đó rơi xuống đầu ông già Jolyon; già sẽ chết vì sốc; lão thư kí già phát biểu đôi ba câu tang điếu chia buồn trên xác ông; tất cả thiên nga sống trên sông Thames đồng thanh cất tiếng hát vang. Nhưng trước khi chuyện đó xảy ra, người ta đã vội vàng chạy nấp sau bụi hoa phúc bồn tử mất rồi, bởi cái cảm xúc thật sâu, thật tinh tế, thật biểu trưng đối với đàn ông chỉ khiến đàn bà băn khoăn nghĩ ngợi. Đó là những sĩ quan của Kipling, Lưng họ đưa ra; những tay thợ Cấy gieo Hạt Giống; những người Đàn Ông âm thầm Làm Lụng; và lá Cờ - người ta chắc đến đỏ mặt xấu hố với tất cả những chữ viết hoa này thôi, như thể bị bắt gặp quả tang nhìn trộm đám đàn ông chè chén say sưa, dâm ô đồi bại. Sự thật là cả Galsworthy lẫn Kipling đều không có tí nào chất đàn bà trong trí óc. Do đó, tất cả những đặc tính của họ đối với đàn bà, nếu người ta có thể tổng quát hóa, đều có vẻ thô sơ và non yếu. Nó thiếu hẳn khả lực gợi mở. Và khi cuốn sách thiếu khả lực gợi mở thì cho dù nó đánh vào bề mặt trí óc mạnh bạo đến đâu chăng nữa, cũng sẽ chẳng bao giờ có khả năng thâm nhập vào bề sâu.

Và trong tâm trạng đứng ngồi không yên, lấy sách ra rồi lại cất vào mà chẳng buồn ghé mắt đọc, tôi bắt đầu hình dung ra thời đại trong đó phái nam độc chiếm và thao túng toàn diện, như văn chương các vị giáo sư (thí dụ Sir Walter Raleigh) báo trước, và nó quả đã trở thành hiện thực dưới sự lãnh đạo của các nhà cai trị Ý. Người ta không thể không rung động bởi bầu khí cuốn trong đó đàn ông giữ thế chủ động toàn diện ở Roma; và bất kì ích lợi nào do tình trạng này đem đến cho nhà nước, người ta vẫn có thể đặt ra nghi vấn về tác động của nó đến nghệ thuật thi ca. Dẫu là gì chăng nữa, theo tin tức đăng trên báo chí, có sự quan ngại về tương lai văn học Ý. Các nhà hàn lâm đã họp nhau lại với chủ đề “tìm ra đường lối phát triển tiểu thuyết Ý”. “Các nhân sĩ tiếng tăm, hoặc sinh trưởng từ các gia đình quyền thế, hoặc trong giới tài chính, công kĩ nghệ, hoặc trong các tập đoàn Phátxít”, hôm kia đã quy tụ lại trong buổi họp và thảo luận vấn đề này; sau buổi họp, họ gửi công văn hỏa tốc lên nhà lãnh đạo đất nước bày tỏ hi vọng “kỉ nguyên Phátxít chẳng bao lâu nữa sẽ sản sinh những thi sĩ sáng giá, xứng tầm thời đại”. Tất cả chúng ta có thể cùng nhau chia sẻ niềm hi vọng thành kính đó, nhưng thơ ca từ cái lò ấp trứng chui ra ư, điều đó đáng ngờ lắm. Thơ phải có mẹ, có cha. Người ta sợ thơ Phátxít sẽ là cái quái thai kinh khiếp như người ta thấy nó nằm trong bình thủy tinh trong viện bảo tàng ở tỉnh lẻ. Người ta bảo những con quái vật như thế chẳng bao giờ sống lâu; chẳng ai thấy bao giờ thần đồng loại đó cắt cỏ ngoài đồng ruộng. Một thân xác mà có đến hai cái đầu, nó sẽ chẳng đi đến đâu trong cuộc sống này.

Tuy thế, nếu người ta nóng lòng muốn đổ lỗi cho ai đấy thì lỗi lầm gây nên tất cả những cảnh huống này không thuộc về riêng giới phái nào. Tất cả những kẻ xu phụ và kẻ muốn cải cách đều chịu trách nhiệm như nhau: lỗi ở Lady Bessborough khi bà nói dối Lord Granville; ở cô Davies khi cô nói thật với ông Greg. Lỗi ở tất cả những ai đưa đến tình trạng tự ý thức về giới phái, và họ chính là lí do khiến tôi phải vận dụng mọi tinh lực đọc sách, và tìm hiểu trong thời đại vui sướng đó, thời đại trước khi các cô Davies và Clough ra đời, khi nào thì nhà văn sử dụng quân bình cả hai mặt nam - nữ trong trí óc mình. Người ta đành quay về với Shakespeare thôi bởi Shakespeare là kẻ lưỡng tính và Keats, Sterne, Cowper, Lamb và Coleridge cũng thế. Shelley có lẽ phi giới tính. Milton và Ben Jonson hơi nhiều chất nam tính. Wordsworth và Tolstoi cũng vậy. Ở thời chúng ta, Proust là người hoàn toàn lưỡng tính nếu không muốn nói hơi nhiều chất nữ tính. Nhưng khuyết điểm đó quả là hiếm hoi để người ta phải lên tiếng phàn nàn, bởi nếu không có sự pha trộn giữa nhiều tính cách khác nhau, trí tuệ vẻ như có phần lấn lướt và các năng lực tinh thần khác trở nên cứng nhắc, thui chột dần. Tuy nhiên, tôi tự an ủi mình với ý nghĩ đây có lẽ chỉ là giai đoạn chuyển tiếp; tôi cố giữ lời hứa của mình, đó là tôi sẽ chia sẻ với các bạn những ý nghĩ của tôi trong lúc này, tuy nhiên đa phần những gì tôi nói lại có vẻ như đã cũ, không hợp thời; ánh lửa trong mắt tôi dường như chỉ là cái gì mù mờ tăm tối đối với các bạn trẻ chưa đến tuổi trưởng thành.

Ngay cả thế, câu văn đầu tiên tôi viết ra đây, tôi nói trong lúc bước sang bàn viết và cầm lên trang giấy có tiêu đề Phụ nữ và Văn học, là bất cứ ai cầm bút mà còn nghĩ đến giới tính của mình thì kẻ đó sẽ vấp phải sai lầm vô cùng tai hại. Tai hại nếu chỉ đơn thuần và giản dị là đàn ông hoặc đàn bà; người ta bắt buộc phải có nữ - nam tính hoặc nam - nữ tính trong cách nghĩ. Tai hại nếu người đàn bà chỉ thổ lộ nỗi khổ của mình bằng những lời trách cứ nhẹ nhàng; tai hại nếu bà biện hộ cho bất kì chính nghĩa nào ngay cả khi điều đó phù hợp với công lí; tại hại nếu ý thức khiến bà nói chuyện, bất kể bằng cung cách nào, như một người đàn bà. Và tai hại nếu không có hình tượng trong ngôn từ; bởi bất cứ thứ gì viết ra với sự thiên lệch có chủ ý đều sẽ chết ngúm. Nó ngưng thụ hình. Xuất chúng và có hiệu quả, mạnh mẽ và tài tình, nó có thể hiện hữu một hai hôm nhưng rồi lập tức héo tàn khi màn đêm buông xuống; nó không thể lớn lên bên trong trí não của người khác. Phải có sự hợp tác nào đó trong trí tưởng giữa đàn ông và đàn bà trước khi sự sáng tạo nghệ thuật có thể hoàn thành. Phải hoàn tất cuộc hôn phối giữa hai tác thể đối nghịch. Toàn bộ trí não phải rộng mở nếu chúng ta muốn có cảm giác nhà văn đang truyền đạt trọn vẹn tư tưởng và trải nghiệm của mình. Phải có tự do, phải có thanh bình. Bánh xe không được cọt kẹt, không cả ngọn đèn le lói. Màn cửa phải buông xuống. Nhà văn, sau khi hoàn tất tác phẩm, phải nằm ngả ra để đầu óc mình ăn mừng cuộc hôn phối trong bóng tối. Hắn không được ngắm nhìn hay hỏi han cái đang thành hình. Thay vào đó, hắn chỉ nên đi ngắt một cánh hoa hồng hoặc nhìn ngắm đàn thiên nga trôi bình thản dưới dòng sông. Và trước mắt tôi lại hiện ra hình ảnh cậu sinh viên chèo thuyền cùng đám lá vàng; và chiếc tắc xi chờ cặp tình nhân, tôi nghĩ thế trong lúc nhìn họ gặp nhau trên phố và con nước cuốn họ trôi đi, tiếng xe cộ dưới lòng đường phố London từ xa rền rỉ vọng lại, quyện lẫn vào dòng chảy dữ dội đó.

Thế rồi, đến đây, Mary Beton ngừng nói. Chị bảo các bạn bằng cách nào chị đi đến kết luận - cái kết luận tầm thường - là nếu bạn muốn viết văn hoặc làm thơ bạn cần có năm trăm bảng mỗi năm và căn phòng riêng cánh cửa có khóa. Chị cố phơi bày mọi suy tưởng và ấn tượng dẫn chị đi đến ý nghĩ này. Chị kêu gọi các bạn đi theo bước chân của chị, bay vào vòng tay ông giám thị trường, ăn trưa nơi này, ăn tối chỗ kia, vẽ tranh ở Viện Bảo tàng Anh quốc, lấy sách trên kệ xuống đọc, nhìn ra ngoài cửa sổ. Trong lúc chị làm những việc này, hiển nhiên các bạn quan sát và nhìn ra những thất bại cùng nhược điểm của chị, các bạn phán xét tác động nào ảnh hưởng đến quan điểm của chị. Hẳn các bạn phải có những ý nghĩ tương phản với chị và các bạn tuỳ tiện thêm bớt chỗ này, chỗ kia những gì tốt cho các bạn. Đó là điều nên làm bởi từ câu hỏi như thế, chúng ta chỉ có thể tìm ra chân lí bằng cách gom lại nhiều sai lầm khác nhau. Và bây giờ, tôi sẽ kết thúc bằng cách đưa ra hai lời tiên đoán, đó là những gì hiển nhiên đến nỗi nếu các bạn đưa ra thì cũng không mấy khó khăn.

Các bạn có thể nói vẫn chưa thấy quan điểm nào được đưa ra để so sánh thực chất giữa hai giới phái cầm bút, nam và nữ. Đó là điều cố ý, bởi ngay cả đã đến lúc phải thực hiện việc đánh giá đó - nhưng vào lúc này, chuyện người đàn bà có bao nhiêu tiền, có phòng riêng hay không, quan trọng hơn nhiều so với chuyện đưa ra giả thuyết này nọ về khả năng của họ - tôi cũng không tin người ta có thể cân đong tài năng thiên phú, dù nó là trí tuệ hay tính cách, như cân túi đường hay miếng bơ, ngay cả Cambridge, nơi người ta rất thành thạo trong việc đưa người vào lớp học, đội mũ két lên đầu và ghim bảng tên lên ngực, cũng không thể làm nổi. Tôi cũng không tin Bảng thứ bậc mà các bạn tìm thấy trong sách niên lịch của Whilaker là biểu trưng cho trật tự cuối cùng của bậc thang giá trị. Tất cả những xung đột giữa giới phái này với giới phái kia, giữa những giá trị của hai bên; tất cả những hành vi tự nhận mình là vượt trội còn kẻ kia thua kém, tất cả chẳng qua chỉ là cái gì thuộc về giai đoạn “Trường tư” trong tiến trình hiện hữu của con người, giai đoạn những “phe phái” vẫn tồn tại và “phe” này cần phải dẹp tan “phe” kia, với họ điều tối quan trọng là bước lên sân khấu, giơ tay nhận cái cúp chạm trổ hoa mĩ do chính tay ông hiệu trưởng trao tặng. Khi con người trưởng thành hơn, họ hết tin tưởng vào phe phái, vào ông hiệu trưởng hoặc cái cúp chạm trổ hoa mĩ. Dù sao, khi nói đến sách vở, dán cái nhãn hiệu thực chất lên cuốn sách để cái nhãn không rơi ra là việc làm thật khó khăn. Phải chăng nền phê bình văn học đương đại là minh họa vô tận cho sự khó khăn này? “Cuốn sách này tuyệt hay”, “cuốn sách này thật vô bổ”, cùng cuốn sách có hai tên gọi khác nhau. Ca ngợi hoặc chê bai đều chẳng có ý nghĩa gì. Không, phê bình là trò tiêu khiển vui thích đấy, nhưng nó là cái nghề vô dụng nhất, và nhà phê bình là kẻ có sẵn thái độ và tư tưởng nô dịch, tôi đòi nhất. Điều quan trọng là khi cầm bút bạn viết điều bạn muốn viết, ngoài ra chẳng có gì khác; nó sẽ hệ trọng từ thời đại này sang thời đại khác hay chỉ trong vài giờ? Chẳng ai nói được. Nhưng hi sinh một sợi tóc, một mảng màu trong cái nhìn của bạn chỉ để tỏ lòng ngưỡng mộ ông hiệu trưởng nào đó với cái cúp bạc trên tay hoặc ông giáo sư với cái thước đo là hành vi phản bội hèn hạ và đáng khinh nhất. Người ta bảo tai họa lớn nhất có thể xảy ra với con người là sự hi sinh tiền của và lòng trinh bạch, nhưng nếu đem so với sự hi sinh trên của bạn thì nó chỉ là nốt muỗi đốt. Tiếp theo, tôi nghĩ các bạn có thể phản đối tôi đã chú trọng quá nhiều đến vật chất qua những biện luận của mình. Ngay cả nếu tôi dành ra sai sót đáng kể cho những biểu tượng, năm trăm bảng mỗi năm tượng trưng cho năng lực suy nghiệm, cái khóa cửa tượng trưng cho năng lực tự vận dụng trí óc, thì các bạn vẫn có thể bảo tôi rằng trí óc con người nên ở trên những điều vụn vặt, tầm thường đó; và các thi sĩ vĩ đại nhất thường là những người nghèo khó. Các bạn hãy cho tôi trích dẫn lời của chính giáo sư văn chương của chúng ta, người hiểu biết hơn tôi nhiều về cái gì làm nên nhà thơ. Sir Arthur Quiller-Couch [91] viết như sau:

“Những thi sĩ lớn trên dưới một trăm năm qua là những ai? Coleridge, Wordsworth, Byron, Shelley, Landor, Keats, Tennyson, Browning, Arnold, Morris, Rossetti, Swinburne - chúng ta có thể ngưng ở đấy. Tất cả những thi sĩ này, ngoại trừ Keats, Browning và Rossetti, còn lại đều là người của trường ốc; và trong số ba người không có giáo dục đại học này, Keats chết trẻ, sự nghiệp đứt đoạn khi đang ở đỉnh cao và là người duy nhất không giàu có. Nói ra điều này nghe có vẻ tàn ác, thậm chí buồn bã: giả thuyết cho rằng thiên tài thi ca nở rộ bất kì nơi nào nó muốn và có sự bình đẳng giữa người giàu kẻ nghèo, quả tình không đứng vững mấy. Sự thật là, trong số mười hai người kể trên thì chín người có trình độ đại học, nghĩa là bằng cách này hay cách khác, họ hưởng chế độ giáo dục tốt nhất mà nước Anh có thế cung cấp. Sự thật là, trong số ba người còn lại, chắc bạn biết Browning là người giàu có, và tôi thách bạn điều này, giả sử ông không có tiền của, chưa chắc ông đã viết nổi những tác phẩm như Saul hoặc Chiếc nhẫn và quyển sách , cũng như Ruskin chẳng thể nào viết nổi Những họa sĩ hiện đại nếu cha ông không buôn bán phát đạt. Rossetti có riêng nguồn thu nhập nhỏ; và, thêm nữa, ông vẽ tranh. Chỉ còn lại Keats, người bị Atropos giết chết khi còn trẻ, cũng như John Clare chết trong ngôi nhà điên, và James Thomson chết vì thuốc phiện. Đây là những sự kiện khiếp đảm, những chúng ta hãy đối diện với chúng. Có thể, nó làm nhục quốc thể, những điều chắc chắn là do sai lầm nào đó trong khối cộng đồng chung của chúng ta, một thi sĩ nghèo sống giữa thời đại này hay đến hai trăm năm nữa cũng chẳng bao giờ có cơ hội ngóc đầu lên nổi. Hãy đồng ý, tại sao bà quá coi trọng chuyện đàn bà viết sách, trong khi theo bà, nó đòi hỏi biết bao nỗ lực, suýt nữa gây án mạng giết bà dì, nửa buổi mới có mặt tại bữa tiệc trưa, và gây hấn trầm trọng với những nhân vật khả kính? Hãy cho tôi thú nhận một điều, nguyên cớ một phần bởi tôi vị kỉ. Như hầu hết những người đàn bà Anh không được giáo dục khác, tôi mê đọc sách - tôi đọc cả đống sách. Gần đây, “thực đơn” ưa thích của tôi là những cuốn tầm phào buồn tẻ; sách lịch sử nói quá nhiều về chiến tranh; sách tiểu sử toàn ca tụng các đấng mày râu; thi ca thì tôi nghĩ bộc lộ xu hướng cạn kiệt, và tiểu thuyết - nhưng tôi đã lộ chân tướng là kẻ không có khả năng phê bình tiểu thuyết hiện đại và tôi sẽ không nói gì thêm về nó. Vì thế, tôi yêu cầu các bạn cứ việc viết đủ loại sách, không ngập ngừng trước bất cứ đề tài nào cho dù nó tầm thường hoặc rộng lớn đến đâu chăng nữa. Không bằng cách này thì bằng cách khác, tôi hi vọng các bạn có tiền đi du lịch, không phải làm gì cả, chỉ ngồi suy ngẫm về tương lai hay quá khứ của thế giới này, mơ tưởng về sách vở, và thơ thẩn nơi góc đường, buông thả dòng tư tưởng chìm xuống thật sâu dưới dòng nước. Bởi, tôi không hề có ý muốn ép buộc các bạn phải đi vào con đường sáng tác văn chương. Tôi sẽ vui thích lắm - và có hàng nghìn người như tôi - nếu các bạn viết sách về du lịch hay truyện kí phiêu lưu, bạn cũng có thể viết sách chuyên đề hoặc khảo cứu, lịch sử, tiểu sử, phê bình, triết học, khoa học. Chắc chắn, các bạn sẽ góp phần vun xới làm tốt đẹp thêm cho nghệ thuật văn chương. Vì sách vở luôn tác động, hỗ trợ lẫn nhau. Tiểu thuyết sẽ tốt đẹp hơn nhiều nếu đứng kề vai sát cánh với thi ca và triết học. Hơn nữa, nếu nhìn lại bất kì tên tuổi lẫy lừng nào trong quá khứ, Sappho [92] , Lady Murasaki [93] , Emily Brontë, các bạn sẽ thấy một điều rằng họ vừa là người kế tục vừa là người khởi đầu, họ được nhìn nhận vì họ có thói quen viết tự nhiên; bởi thế, thậm chí chỉ là khúc dạo đầu cho thơ, những thao tác như thế của các bạn quả là vô giá.

Nhưng khi xem lại những ghi chép này và tự phê phán những suy nghiệm của chính mình, tôi thấy nguyên cớ không hẳn chỉ là sự vị kỉ của tôi. Từ những lời bình phẩm và suy luận này nảy sinh ra niềm tin tưởng - hay đó là bản năng? - là người ta vẫn ưa chuộng sách hay và nhà văn tốt lành, ngay cả nếu có phơi bày tất cả những sự đồi bại, trụy lạc của nhân loại thì họ vẫn là những con người tốt đẹp. Do đó, khi kêu gọi các bạn viết sách, tôi khuyến khích các bạn làm cái gì đó tốt đẹp cho chính bản thân và cho thế giới nói chung. Tôi không biết làm thế nào biện minh cho bản năng hoặc lòng tin này, bởi nếu người ta không được giáo dục từ trường đại học, những thuật ngữ triết học dễ khiến người ta phạm phải sai lầm. Từ “hiện thực” có ý nghĩa gì? Nó là cái gì rất không đáng tin cậy, rất bấp bênh - lúc thấy nó trên con đường bụi bặm, lúc thấy nó trên mảnh báo ngoài đường phố, lúc nó lại nằm trên cây thủy tiên tắm ánh nắng mặt trời. Nó soi tỏ nhóm người trong gian phòng và đóng dấu lời nói ngẫu nhiên nào đó. Nó khiến người ta choáng ngợp trong lúc đi bộ về nhà dưới những vì sao, nó khiến thế giới của sự im lặng tồn tại thật hơn cả thế giới của tiếng nói - và rồi nó lại hiện ra là chiếc xe buýt gầm rú giữa quảng trường Pacadilly. Thi thoảng, nó trú ngụ dưới dạng thể thật xa vời khiến chúng ta không rõ bản chất của nó là gì. Nhưng va chạm vào cái gì, nó biến cái đó thành cố định, vĩnh viễn. Nó là cái còn lại khi người ta ném phần bì vỏ bên ngoài trong ngày qua bờ giậu; nó là cái gì còn lại của dĩ vãng, của tình yêu và lòng oán ghét. Tôi nghĩ nhà văn, hơn ai hết, là kẻ có cơ hội sống với hiện thực này. Công việc của hắn là đi tìm, nhặt nhạnh và truyền đạt nó đến tất cả chúng ta. Do đó, chí ít, tôi có thể có những suy luận riêng sau khi đọc Lear, Emma hoặc Đi tìm thời gian đã mất . Những tác phẩm này để lại trong tâm khảm người ta những cảm giác lạ lùng; người ta nhìn thấy sự vật mãnh liệt, dữ dội hơn sau khi đọc; cánh cửa thế giới dường như mở toang và cuộc sống trong đó như mãnh liệt thêm lên. Đó là những con người nhiều tị hiềm sống trong thù hằn, xa cách hiện thực; và đó là những con người đáng thương bị bổ xuống đầu những điều họ không hay biết, mà cũng chẳng để tâm. Vì thế, khi tôi khuyên các bạn kiếm tiền và có căn phòng riêng, thật ra là tôi khuyên các bạn nên sống với hiện thực, một đời sống tràn đầy sinh lực, cho dù các bạn có thể chia sẻ nó với người khác hay không.

Đến đây tôi kết thúc bài nói chuyện, nhưng quy định như một cái lệ bắt buộc bài diễn văn nào cũng phải chấm dứt với phần kết luận. Và phần kết bài diễn văn với cử toạ toàn phụ nữ, các bạn sẽ đồng ý, phải đặc biệt có cái gì đó ngụ tinh thần tán dương và khiến nó trở nên cao quý. Lẽ ra, tôi phải thành khẩn xin các bạn hãy nhớ lấy trách nhiệm của mình, cao hơn thế là hãy nâng tinh thần lên; lẽ ra, tôi phải nhắc nhở các bạn là có rất nhiều điều đang phụ thuộc vào các bạn, và sự ảnh hưởng nào các bạn có thể đem đến cho tương lai. Thế nhưng, tất cả những lời nói đầy tinh thần khích lệ đó, tôi nghĩ có thể yên tâm để giới phái kia đưa ra, họ có tài hùng biện hơn tôi nhiều, và quả thật họ đã nói.

Trong khi lục lọi tâm trí, tìm kiếm đáp án cho câu hỏi các bạn đưa ra, tôi không thấy tình cảm cao quý nào về các ý niệm như trở nên bình đẳng, biến thành bạn đồng hành, hoặc tác động lên thế giới để đạt đến những kết cục tốt đẹp hơn. Tôi thấy mình phát biểu rất ngắn gọn và chẳng có gì văn vở, hay ho, rằng bạn hãy là chính mình, và điều này trọng đại hơn bất kì cái gì khác. Đừng bao giờ nghĩ đến chuyện chịu ảnh hưởng người khác, có thể tôi nói hay hơn thế nếu tôi biết cách cài vào nó âm điệu phấn khích. Hãy nghĩ đến chính bản thân sư vật mà thôi.

Và một lần nữa, tôi lại xin nhắc nhở các bạn bằng cách nhúng tay vào báo chí, tiểu thuyết, tiểu sử để thấy rằng khi đàn bà đối thoại với nhau, chỉ có thể có những ngôn từ khó nghe. Đàn bà với nhau thường gây khó dễ cho nhau. Đàn bà không ưa đàn bà. Đàn bà - các bạn chưa chán ngấy từ ngữ đó ư? Tôi quả quyết với các bạn là tôi chán nó lắm. Vì thế, chúng ta hãy đồng ý là bài nói chuyện đọc bởi người đàn bà trước một cử toạ đàn bà sẽ phải kết thúc với những quan điểm dị biệt, bất đồng.

Nhưng nó diễn tiến như thế nào? Tôi có thể nghĩ về điều gì? Sự thật là bình thường tôi thích đàn bà. Tôi thích cái bất quy tắc của họ. Tôi thích cái tinh tế của họ. Tôi thích cái nặc danh của họ. Tôi thích - nhưng tôi không được phép nói lan man như thế này. Cái tủ đằng kia, - các bạn bảo nó chỉ đựng khăn bàn sạch; nhưng nếu Sir Archibald Bodkin [94] núp trong đó thì sao? Hãy cho tôi nói với giọng điệu nghiêm chỉnh hơn. Có phải ở những phần trước tôi đã gửi đầy đủ đến các bạn những lời cảnh báo và bài xích kịch liệt của thế gian? Tôi bảo các bạn ông Oscar Browning có quan điểm rất thấp kém về các bạn. Tôi cũng chỉ ra Napoleon thời trước nghĩ gì về các bạn và hiện nay Mussolini nghĩ gì. Thế rồi, với những ai trong các bạn có hoài bão đi vào con đường văn học, vì lợi ích của các bạn, tôi cũng chép ra lời khuyến cáo của nhà phê bình khẳng định đàn bà thua kém đàn ông. Tôi trích lời giáo sư X và chỉ rõ câu nói của ông rằng về mặt trí tuệ, đạo đức và thể xác thì đàn bà đều thua kém đàn ông. Tôi không cần tra vấn, tìm kiếm những câu nói đó, chúng tự nhiên tìm đến rơi vào tay tôi, và đây là lời cảnh báo cuối cùng của ông John Langdon Davies [95] . Ông John Langdon Davies tuyên bố là “một khi trẻ con không còn được yêu thích đón nhận nữa thì không cần thiết phải có đàn bà”. Tôi hi vọng các bạn ghi xuống và nhớ lấy điều này.

Làm cách nào tôi có thể khuyến khích các bạn dấn thân vào đời sống hơn nữa? Hỡi những thiếu nữ, xin lắng nghe tôi nói, bởi đoạn kết mới là sự khởi đầu, theo quan điểm của tôi, các bạn là những kẻ ngu dốt, ngu dốt một cách nhục nhã. Các bạn chưa bao giờ khám phá ra cái gì trọng đại. Các bạn chưa bao giờ làm lay chuyển một đế quốc hoặc cầm quân trên mặt trận. Các bạn không viết những vở kịch của Shakespeare, và chưa bao giờ các bạn đem ánh sáng văn minh đến với những dân tộc mọi rợ. Các bạn bào chữa như thế nào cho điều này? Các bạn bảo chúng tôi bận rộn với biết bao công việc khác, các bạn nói như thế trong lúc giơ ngón trỏ chỉ ra đường phố, quảng trường, rừng trảng của quả địa cầu nhung nhúc những cư dân da trắng, da đen, da nâu, tất cả đang hấp tấp chen lấn nhau qua lại, tất bật kiếm kế mưu sinh và hối hả làm tình. Nếu không có chúng tôi chu toàn những công việc đó thì sẽ không có người vượt đại dương đi chinh phục thế giới và những miền đất màu mỡ đó vẫn là hoang đảo. Theo con số thông kê, chúng tôi sinh ra, nuôi nấng, tắm rửa và dạy dỗ, có lẽ cho đến năm lên sáu lên bảy, một tỉ sáu trăm hai mươi ba triệu con người và điều đó dù được giúp đỡ, vẫn mất nhiều thời gian.

Điều các bạn nói có phần đúng đắn - tôi không hoàn toàn phủ nhận. Nhưng cùng lúc tôi mạn phép nhắc nhở các bạn là ở Anh quốc có ít nhất hai trường đại học dành riêng cho phụ nữ mở từ năm 1866; từ năm 1880 trở đi, người đàn bà có chồng được luật pháp cho phép làm chủ tài sản riêng; và năm 1919 - cách đây đúng chín năm - đàn bà được quyền bầu cử. Tôi cũng xin nhắc nhở các bạn là hầu hết những nghề nghiệp mở ra con đường mới cho các bạn đã xảy ra cách đây mười năm. Khi các bạn suy ngẫm về những đặc ân to tát này và khoảng thời gian các bạn có nó trong tay, thêm thực tế là giữa giờ phút này, có chí ít trên hai nghìn người đàn bà kiếm được trên năm trăm bảng mỗi năm, bằng cách này hay cách khác. Với những sự kiện đó, các bạn sẽ phải đồng ý là những lí do như không có cơ hội, không được đào tạo, không được khuyến khích, thiếu thốn tiền bạc, không có thời gian đều là những lí do không đứng vững. Thêm nữa, các nhà kinh tế học cũng cho chúng ta thông tin là bà Seton có quá nhiều con. Dĩ nhiên, các bạn sẽ phải sinh con, nhưng như họ nói, các bạn chỉ nên có chừng hai ba đứa thôi chứ đừng đẻ mười, mười hai đứa làm gì.

Vì vậy, với thời gian có trong tay và với kiến thức học được từ sách vở - các kiến thức khác chắc các bạn không thiếu, bởi lí do các bạn đến trường đại học là để được giáo dục - chắc chắn các bạn sẽ dấn thân vào một chặng đường khác của sự nghiệp rất dài, rất khó nhọc và rất mờ mịt của mình. Cả nghìn ngòi bút đã gợi ý các bạn nên làm gì và vạch ra ảnh hưởng của nó sẽ như thế nào. Riêng tôi, tôi phải thú nhận là đề nghị của tôi có lẽ khá huyễn hoặc, rằng tôi rất muốn các bạn chọn con đường văn học.

Trong lúc trình bày bài nói chuyện này, tôi đã kể các bạn nghe câu chuyện Shakespeare có cô em gái; nhưng tôi không cất công đi tìm kiếm tên cô trong sách tiểu sử các nhà thơ do Sir Sidney Lee [96] biên soạn làm gì. Cô chết trẻ lắm - thương thay, và cô chưa bao giờ viết một chữ nào. Mộ cô nằm nơi trạm xe buýt bây giờ, đối diện khu Elephant và Castle. Tôi tin là nhà nữ thi sĩ chưa bao giờ viết một chữ nào và thân xác chôn nơi ngã tư đường cái đó vẫn còn sống. Cô sống trong tôi, trong các bạn, và trong nhiều phụ nữ khác không có mặt ở đây tối nay, bởi họ phải lo rửa bát đĩa và ru con ngủ. Nhưng cô vẫn sống; bởi những thi sĩ lớn không chết; họ tiếp tục hiện hữu mãi; chỉ cần có cơ hội là họ trở thành xương thịt đi đứng giữa chúng ta. Tôi nghĩ cơ hội này giờ đây đang đến trong tầm tay các bạn. Bởi tôi tin rằng nếu chúng ta sống thêm chừng thế kỷ nữa - tôi đang nói về cuộc đời chung, cuộc đời thật chứ không phải những cuộc đời bé nhỏ riêng lẻ mà chúng ta sống như những cá nhân - và có năm trăm bảng mỗi năm cộng thêm căn phòng riêng; nếu chúng ta có tự do và can đảm viết chính xác những gì chúng ta suy nghĩ; nếu chúng ta thoát khỏi căn phòng khách trong nhà và nhìn thấy nhân loại tiếp xúc với hiện thực, chứ không phải giữa họ với nhau; và bầu trời, cây cối hoặc bất kì thứ gì tươi đẹp; nếu chúng ta vất lại sau lưng con ngoáo ộp của Milton, bởi đã là con người thì không nên che mắt chịu cảnh mù loà; nếu chúng ta đối diện với thực tại, bởi nó là thực tại và không có cánh tay nào cho chúng ta bám víu, chúng ta phải một mình lên đường, quan hệ của chúng ta là quan hệ với thế giới của hiện thực chứ không phải thế giới của đàn ông và đàn bà. Chỉ như thế, cơ hội mới đến và nhà thơ nằm dưới mộ sâu, người em gái của Shakespeare, mới có thể sống dậy. Vẽ lại đời sống cô từ đời sống những người vô danh đi trước, như anh cô làm trước thời của cô, cô sẽ hồi sinh. Chúng ta đừng mong có chuyện cô sống lại và làm thơ nếu chúng ta không chuẩn bị, không có một phần nỗ lực và không có những quyết tâm từ phía chúng ta, bởi đó là điều không thể. Nhưng tôi quả quyết cô sẽ trở lại nếu chúng ta dồn mọi nỗ lực cho cô, và nếu được như thế thì dù trong nghèo khó và tối tăm, nó vẫn là điều đáng giá.