← Quay lại trang sách

⊆ 9 ⊇

Nhờ chuyện chiếc hộp mà mối quan hệ giữa Sōsuke và Sakai, người sống ở phía sau nhà Sōsuke, đã được tạo dựng theo một cách không ngờ đến. Cho đến trước lúc đó, những trao đổi giữa họ chỉ diễn ra mỗi tháng một lần, Sōsuke yêu cầu Kiyo mang tiền nhà đi nộp và nhận lại biên lai từ Sakai. Cũng giống như những người châu Âu sống phía trên vách đá, Sōsuke hoàn toàn chẳng có mối quan hệ thân thiết nào với láng giềng.

Vào buổi chiều hôm mà Sōsuke đã mang trả chiếc hộp, như Sakai nói, cảnh sát hình sự đến để tìm hiểu phần bên dưới vách đá phía sau nhà Sōsuke. Lúc đó, Sakai cũng đi cùng nên đó là lần đầu tiên Oyone nhìn thấy mặt người chủ nhà mà cô vẫn hay được nghe kể. Ngoài bộ râu không giống như những gì cô tưởng tượng, cách ăn nói vô cùng lịch sự của anh ta cũng làm cô hơi bất ngờ.

“Anh này, quả là Sakai có râu nhỉ.” Khi Sōsuke về nhà, Oyone lại nhắc đến việc này.

Rồi khoảng hai ngày sau đó, cô giúp việc nhà Sakai mang một giỏ bánh kẹo sang trọng có gắn danh thiếp của Sakai trên đó đến để cảm ơn Sōsuke.

“Rất cảm ơn ông về chuyện hôm trước, chắc chắn lúc nào đó ông chủ của tôi sẽ đích thân đến đây ạ.” Cô ta nói rồi ra về.

Tối hôm đó, Sōsuke mở nắp hộp bánh kẹo, vừa ngoạm một miếng bánh bao nướng thật to vừa nói:

“Nhìn những thứ anh ta cho chúng ta thế này thì có vẻ đó không phải là người keo kiệt nhỉ? Có khi chuyện người ta nói rằng anh ta không cho trẻ con nhà khác ngồi lên xích đu là nói dối dấy.”

“Chắc chắn là nói dối rồi.” Oyone cũng bênh vực cho Sakai.

Dù mức độ thân thiết của hai vợ chồng Sōsuke với Sakai đã tăng lên so với trước khi sự việc tên trộm lẻn vào xảy ra nhưng trong đầu Sōsuke và trong lòng Oyone đều không có ý định sẽ tiếp cận anh ta nhiều hơn nữa. Đương nhiên là không có chuyện tính toán thiệt hơn, còn nhìn từ khía cạnh đơn thuần là giao du hay gần gũi với hàng xóm thì cả hai vợ chồng họ cũng không có can đảm để thúc đẩy nó đi xa hơn thế. Nếu ngày tháng cứ tự nhiên trôi qua không có gì đặc biệt thì chẳng bao lâu nữa Sakai sẽ trở thành Sakai như ngày xưa, Sōsuke cũng trở thành Sōsuke trước đây và chắc chắn là tình cảm giữa họ sẽ trở nên xa cách giống như là sự cách biệt giữa ngôi nhà trên vách đá và dưới vách đá vậy.

Nhưng ba ngày sau, vào lúc chiều tối, trong chiếc áo măng tô có vẻ ấm áp với cái cổ áo làm bằng da rái cá, Sakai đột nhiên đến nhà Sōsuke. Vì không hề quen với việc có khách ghé nhà vào buổi tối nên vợ chồng Sōsuke tỏ ra ngạc nhiên đến nỗi có chút bối rối. Sakai bước vào phòng khách và nói chuyện. Sau khi Sakai lịch sự nói lời cảm ơn về chuyện hôm trước, anh ta tháo sợi xích vàng đang quấn trên dải thắt lưng bằng vải nhiễu trắng ra, đưa cho họ xem cái đồng hồ quả quýt bằng vàng và nói:

“Ơn trời, món đồ bị đánh cắp đã quay trở về.”

“Theo quy định nên tôi phải trình báo với cảnh sát, nhưng thực ra cái đồng hồ cũng khá cũ rồi nên tôi đã chấp nhận rằng dù có bị lấy mất cũng chẳng đáng tiếc đến vậy. Thế mà hôm qua có một gói đồ không rõ tên người gửi đã được giao đến và trong đó chính xác là cái đồng hồ bị mất.” Sakai nói. “Tên trộm hẳn là đã tìm cách tẩu tán nó nhưng có lẽ là chẳng được bao nhiêu nên không còn cách nào khác hắn đành trả lại. Dù gì cũng là một chuyện thật hiếm gặp.” Sakai cười lớn. “Nhưng với tôi mà nói, thực ra cái hộp mới là món đồ quan trọng. Tôi nghe kể là ngày xưa bà tôi đã được tặng nó khi còn làm việc trong hoàng cung. Chà, đó là một kỷ vật.” Sakai giải thích cho hai vợ chồng Sōsuke nghe.

Tối hôm đó, Sakai đã nói những chuyện như vậy trong khoảng hai tiếng đồng hồ rồi mới ra về. Nhưng cả Sōsuke, người là đối tượng trò chuyện của anh ta, và cả Oyone, người ngồi trong phòng ăn lắng nghe chuyện đều phải công nhận rằng anh ta có những đề tài trò chuyện vô cùng phong phú.

“Đúng là một người quảng giao.” Oyone nhận xét.

“Vì anh ta nhàn nhã mà.” Sōsuke giải thích.

Hôm sau, trong lúc Sōsuke đang từ cơ quan trở về nhà, lúc xuống tàu điện rồi đi đến trước tiệm nội thất trên con phố nhỏ, chiếc áo măng tô với cổ áo bằng da rái cá quen thuộc của Sakai thoáng hiện lên trong mắt anh. Mặt anh ta hướng về phía song song với con phố và đang nói gì đó với người chủ cửa hàng. Chủ tiệm vẫn đeo cặp kính lớn, ngước lên nhìn mặt Sakai. Sōsuke thấy đó cũng chẳng phải là lúc nên đến chào hỏi. Vì vậy, anh định cứ thế đi qua. Nhưng khi anh đi đến ngay trước cửa hàng, ánh mắt của Sakai hướng về phía người qua lại:

“Cảm ơn anh về tối qua. Anh đang trên đường về nhà à?”

Bị gọi lại một cách không ngại ngần như vậy nên Sōsuke không thể nào mà lạnh lùng đi qua được. Vừa bước chậm lại, anh vừa bỏ mũ ra. Rồi như thể đã xong việc, Sakai bước ra ngoài cửa hàng.

“Anh đang tìm mua gì à?” Sōsuke hỏi.

“Không, chẳng có gì cả.”

Anh ta trả lời và cùng Sōsuke bước về phía nhà của họ. Đi được khoảng mười mét, Sakai nói:

“Lão già đó là một kẻ ranh ma. Ông ta định mang ra một bức tranh giả của Kazan [1] và ép tôi lấy nên ban nãy tôi đã mắng cho.”

Lúc này, Sōsuke mới bắt đầu nhận ra rằng Sakai có một thú vui phong lưu giống như những người khá giả. Trong lòng anh nghĩ lẽ ra ngay từ đầu nên đưa cho một người như này xem bức bình phong của Hōitsu mà anh vừa bán mất.

“Ông ta có phải là người biết rõ về các bức thư họa không?”

“Ông ta là một gã hoàn toàn chẳng biết gì cả chứ nói gì đến thư họa. Nhìn tình trạng cửa tiệm đó là sẽ hiểu được mà. Chẳng hề có một thứ gì có vẻ là đồ cổ hết. Trước kia, hắn chỉ là tên buôn đồng nát, dần tiến thân và được như thế kia.”

Sakai biết rất rõ về xuất thân của người chủ tiệm nội thất. Theo lời kể của ông lão bán rau hay ra vào nhà Sakai, thì nhà Sakai từ thời Mạc phủ đã giữ chức sắc gì đó khá cao và là gia đình có dòng dõi lâu đời nhất trong vùng này. Sōsuke còn nghe được những chuyện như là vào lúc chế độ cũ sụp đổ, họ đã không rút về Sunpu [2] hay là họ đã rút về đó rồi lại quay trở lại đây nhưng chuyện đó không còn đọng lại rõ ràng trong đầu Sōsuke.

“Từ hồi bé, gã đã là một tên quậy phá. Gã là kẻ đầu têu và rất hay gây gổ.”

Sakai còn nói ra những chuyện về thời trẻ con của cả hai. Nhưng khi Sōsuke hỏi rằng tại sao gã đó lại cố tình mua vào bức tranh giả của Kazan thì Sakai cười và giải thích thế này:

“Vì từ thời cha tôi, ông đã ủng hộ cửa hàng đó nên thỉnh thoảng gã lại mang đến nhà tôi những món đồ vặt vãnh. Nhưng gã chẳng có con mắt quan sát gì cả mà rất tham lam, một tên rất khó để làm ăn cùng. Hơn nữa, dạo trước tôi đã mua bức bình phong của Hōitsu chỗ gã nên gã lại thấy kiếm được một miếng mồi ngon ấy mà.”

Sōsuke kinh ngạc. Nhưng anh không thể cắt ngang câu chuyện nên vẫn im lặng. Sakai kể rằng từ hồi đó, người chủ tiệm nội thât trở nên hào hứng, liên tục nhập về những bức thư họa mà đến chính bản thân mình cũng chẳng hiểu gì về chúng, và còn bày biện rất trang trọng những món đồ gốm Triều Tiên mà ông ta cho là đồ thật nhưng thực ra chúng là đồ của Osaka mà thôi.

“Chà, tôi chỉ có thể mua được những món đồ như bàn ăn dùng trong bếp hay ấm gang mới khá đắt đỏ ở cửa hàng đó thôi.”

Trong lúc đó, hai người đã lên đến đỉnh con dốc. Từ đây, Sakai sẽ rẽ phải còn Sōsuke phải đi xuống phía bên dưới. Sōsuke muốn đi bộ cùng anh ta thêm một chút nữa để hỏi chuyện về bức bình phong nhưng anh thấy thật kỳ quặc nếu cố tình đi lòng vòng nên hai người tạm biệt ở đó. Lúc chia tay, Sōsuke hỏi:

“Khi nào đó tôi ghé nhà anh có được không?”

“Vâng, rất hân hạnh.” Sakai khẽ trả lời.

Hôm đó trời không có gió, cũng có đôi lúc nắng lên nhưng Oyone vẫn thấy lạnh thấu xương dù ở trong nhà. Cô treo đồ của Sōsuke chỗ lò sưởi rồi đặt nó ra giữa phòng và đợi chồng về. Từ khi mùa đông đến, hôm đó là lần đầu tiên cô dùng lò sưởi vào ban ngày. Họ đã dùng nó vào buổi tối từ lâu rồi nhưng lúc nào cũng chỉ đặt nó trong phòng sáu chiếu.

“Sao hôm nay em lại đặt nó giữa phòng khách vậy?”

“Có sao đâu khi chẳng có khách khứa gì cả. Với lại trong phòng sáu chiếu có Koroku ở đó nên cũng chật mà.”

Lúc này, Sōsuke mới nhớ ra rằng Koroku đang ở nhà mình. Anh quấn đai quanh chiếc áo bằng vải dệt ấm áp mặc ngoài mà Oyone đã choàng lên người mình.

“Nơi này là vùng thời tiết lạnh, nếu không dùng lò sưởi thì không thể chịu được.”

Phòng sáu chiếu đã trở thành phòng của Koroku, tuy chiếu tatami ở đó không được đẹp lắm nhưng là căn phòng có cả hướng đông và hướng nam nên là nơi ấm áp nhất trong nhà. Sōsuke uống khoảng hai ngụm trà nóng trong chén trà mà Oyone mang ra rồi hỏi:

“Koroku có nhà không?”

Đương nhiên là Koroku có nhà. Nhưng căn phòng sáu chiếu tĩnh lặng giống như chẳng có ai ở đó. Oyone định đứng lên đi gọi Koroku thì Sōsuke bảo không có việc gì quan trọng cả nên ngăn cô lại và chui vào cái chăn của kotatsu [3] và lập tức nằm xuống. Ánh chạng vạng đã xuất hiện trong phòng khách, nơi chỉ có một lối ra vào, tiếp giáp với vách đá. Sōsuke gối đầu lên tay, chẳng suy nghĩ gì mà chỉ quan sát khung cảnh chật chội, tối tăm đó. Rồi bỗng anh nghe thấy tiếng động do Oyone và Kyo đang làm việc trong bếp nhưng coi như đó là hoạt động của những người hàng xóm chẳng liên quan gì đến mình. Không lâu sau, trong phòng đã tối lại như thể chỉ còn cửa trượt là đang lờ mờ sáng trong mắt Sōsuke. Dù vậy, anh vẫn nằm im không nhúc nhích. Anh cũng không lên tiếng giục mang đèn đến.

Rồi anh đi ra từ chỗ tối tăm đó. Lúc anh ngồi xuống bàn ăn, Koroku cũng từ phòng sáu chiếu đi ra, ngồi đối diện với anh trai mình. Oyone nói là do bận quá nên quên mất rồi đứng dậy để đi đóng cửa phòng khách lại. Sōsuke muốn nhắc nhở em trai rằng khi chiều tối, hãy làm những việc như thắp đèn hay đóng cửa phòng vì lúc đó chị dâu đang bận bịu. Nhưng anh nghĩ thật không hay vì Koroku vừa mới chuyển đến mà lại nói ra chuyện tế nhị như vậy nên đành thôi.

Hai anh em đợi Oyone từ phòng khách quay lại rồi mới bắt đầu chạm tay vào bát. Sōsuke thong thả kể cho họ nghe chuyện hôm nay trên đường từ cơ quan về nhà, anh đã gặp Sakai ở trước cửa hàng nội thất, và chuyện Sakai đã mua bức bình phong của Hōitsu từ ông chủ cửa hàng nội thất hay đeo cặp kính to đó. Oyone chỉ nói “chà” rồi nhìn mặt Sōsuke một lúc.

“Chắc chắn là cái đó. Chắc chắn là cái đó rồi.”

Ban đầu, Koroku không nói gì nhưng trong lúc nghe chuyện của vợ chồng anh trai mình, dần dần cậu thấy rõ ràng là cũng có liên quan đến mình nên hỏi:

“Vậy nó được bán với giá bao nhiêu ạ?”

Trước khi trả lời, Oyone liếc nhìn chồng mình. Ăn cơm xong, Koroku đi luôn về phòng sáu chiếu còn Sōsuke quay lại chỗ kotatsu. Một lúc sau, Oyone cũng đến đó để sưởi chân. Rồi họ đã bàn bạc với nhau rằng vào thứ Bảy hay Chủ nhật tới sẽ đến chỗ Sakai và bảo anh ta cho xem bức bình phong.

Đến Chủ nhật, vẫn như mọi khi, vì thèm muốn một giấc ngủ thỏa thích mà mỗi tuần chỉ có một lần nên cuối cùng, nửa ngày trôi qua mà Sōsuke chẳng làm gì cả. Oyone nói là cô lại bị đau đầu rồi dựa người vào mép chiếc lò than và trông thật uể oải khi phải làm gì đó. Anh nghĩ rằng những lúc như thế này nếu phòng sáu chiếu còn trồng thì cô sẽ có chỗ để nép mình trong đó, nhưng kết cục của việc để cho Koroku sống trong căn phòng đó giống như là gián tiếp lấy đi chỗ trú ẩn của Oyone vậy.

Dù Sōsuke có bảo vợ là nếu cô thấy khó chịu thì hãy trải chăn đệm ra phòng khách rồi ngủ ở đó cũng được nhưng Oyone ngần ngại và không dễ dàng gì mà làm theo lời anh. Vì thế, Sōsuke lại bảo cô là hãy dùng kotatsu và hai người sẽ dùng chung. Sau đó, anh sai Kiyo mang bàn gỗ và chăn phủ ra phòng khách.

Một lúc trước khi Sōsuke thức dậy, Koroku đã đi đâu ra ngoài nên sáng nay anh không nhìn thấy cậu đâu. Sōsuke cũng không hề hỏi vợ mình xem cậu em đi đâu. Dạo gần đây, khi hỏi những chuyện có liên quan đến Koroku và để Oyone phải trả lời, anh lại thấy thương cô. Cũng có lúc anh đã suy nghĩ rằng nếu cô cứ thẳng thắn phê bình em trai mình rồi sau đó có thể anh sẽ trách móc hoặc an ủi cô thì ngược lại mọi chuyện sẽ được giải quyết.

Đã đến trưa mà Oyone vẫn không ra khỏi kotatsu. Sōsuke nghĩ cứ để cô được yên tĩnh nghỉ ngơi như vậy sẽ tốt cho cơ thể hơn nên anh lặng lẽ đi vào bếp, báo với Kiyo rằng mình sẽ đến nhà Sakai ở phía trên vách đá một chút. Rồi anh choàng thêm chiếc áo khoác không tay và đi ra ngoài.

Có lẽ là do đã ở trong căn phòng tối tăm đến tận bây giờ nên khi ra ngoài, lập tức anh cảm thấy phấn chấn hơn hẳn. Cơ bắp của anh căng lên trước những cơn gió lạnh, cảm giác se buốt của mùa đông như làm cho anh co lại trong một lúc. Vừa đi bộ vừa tận hưởng sự dễ chịu này, anh thấy sẽ không tốt khi Oyone chỉ toàn ở nhà, nên nếu thời tiết tốt hơn anh sẽ dẫn cô ra ngoài để hít thở không khí.

Bước vào cổng nhà Sakai, anh nhìn thấy nơi hàng rào ngăn cách giữa lối vào và cửa sau có cái gì đỏ lên một mảng, trông chẳng hợp với mùa đông chút nào. Anh cố tình đi lại gần và tìm hiểu thì hóa ra đó là cái chăn nhỏ trùm lên người một con búp bê. Một cành tre nhỏ xuyên qua ống tay áo của nó và được treo vào cành cây kaname. Anh nghĩ cách làm này đúng là kiểu của các bé gái và trầm trồ thán phục. Sōsuke không có chút kinh nghiệm làm cha và đương nhiên là chưa từng nuôi nấng một bé gái nào đến độ tuổi thích nghịch ngợm như thế này, lại đang đứng quan sát cái chăn nhỏ màu đỏ bình thường được đem ra phơi nắng. Rồi anh nhớ về hai mươi năm trước, cha mẹ anh đã chuẩn bị cho người em gái đã mất của anh kệ đặt búp bê và năm con búp bê nhạc công cung đình, những cái bánh khô với họa tiết đẹp mắt, một loại rượu trắng trông có vẻ ngọt nhưng thực ra lại đắng [4] .

Sakai có ở nhà nhưng đang dùng bữa nên để cho anh phải đợi một lúc. Vừa ngồi vào ghế, anh đã nghe thấy ở phòng bên cạnh có tiếng nói chuyện rôm rả của vài người nói về chuyện phơi cái chăn nhỏ. Khi cô giúp việc mở cửa fusuma ra để mang trà vào cho anh thì phía sau cánh cửa đó có hai cặp mắt đang mở to nhìn anh. Lần tiếp theo, khi cô ta mang cái lò than đến, anh lại nhìn thấy một gương mặt khác. Cứ mỗi lần cửa fusuma mở ra đóng vào, anh lại thấy toàn những gương mặt khác nhau nên cũng chẳng biết được là có bao nhiêu đứa trẻ ở đó. Cuối cùng, khi cô giúp việc vừa lui đi thì có ai đó mở hé cửa ra khoảng một tấc nhưng chỉ có một đôi mắt đen và sáng hiện ra từ khe hở đó. Sōsuke thấy thật thú vị, anh im lặng và ra hiệu. Bỗng cánh cửa bị đóng chặt lại và ở phía bên kia cánh cửa có ba, bốn người nói gì đó với nhau rồi phá lên cười. Sau đó, một bé gái nói:

“Nào, chị hãy đóng vai mẹ như mọi khi nhé.”

Rồi đứa bé có vẻ là cô chị giải thích:

“Ừ, hôm nay chị sẽ đóng vai người mẹ kiểu Âu. Tōsaku đóng vai bố nên sẽ được gọi là papa, còn Yukiko trong vai mẹ nên sẽ được gọi là mama. Được không?”

Lúc đó, lại có một giọng nói khác vang lên:

“Thật ngớ ngẩn. Cái gì mà mama cơ chứ.” Rồi người đó cười với vẻ thích thú.

“Còn em thì lúc nào cũng đóng vai bà. Thế thì cũng phải có cách gọi bà theo kiểu Âu. Bà thì gọi là gì được nhỉ?” Một đứa trẻ khác hỏi.

“Bà thì chỉ cần gọi bà bà là được” Cô chị lại giải thích.

Một lát sau đó, những lời chào như là “tôi xin lỗi”, “ông đến từ đâu ạ” được trao đổi rất sôi nổi. Trong lúc đó cũng có cả tiếng điện thoại kêu reng reng xen vào. Sōsuke nghe những thứ đó với vẻ thích thú và lạ lẫm.

Xuất hiện tiếng bước chân từ phía góc nhà đi ra, có vẻ như chủ nhà đang tiến về phía anh. Nhưng vừa bước đến phòng bên cạnh, người đó đã ra lệnh:

“Đây là không phải là chỗ để làm ồn đâu. Đi ra chỗ khác mà chơi. Đang có khách đấy.”

Lập tức có tiếng đáp lại:

“Không chịu đâu, bố ơi. Bố mà không mua cho con con ngựa to thì con sẽ chẳng đi đâu hết.”

Đó là giọng của một bé trai còn nhỏ tuổi. Có lẽ là vì quá nhỏ nên cậu vẫn chưa nói sõi, lời phản đối phát ra thật khó khăn và dường như không có sức thuyết phục. Còn Sōsuke thấy vô cùng thú vị. Trong khi Sakai ngồi xuống và xin lỗi Sōsuke vì đã để anh phải đợi lâu, lũ trẻ đã đi ra chỗ khác.

“Không khí náo nhiệt như vậy thật tuyệt vời.”

Sōsuke nói ra đúng những gì bản thân mình cảm nhận nhưng Sakai lại coi đó là một lời nói lịch sự và đáp lại như thể phân trần:

“Không đâu, như anh thấy đấy, chúng rất lộn xộn.”

Rồi anh ta kể cho Sōsuke nghe rất nhiều dẫn chứng về sự phiền toái của bọn trẻ và vô vàn chuyện về việc chăm sóc chúng. Trong đó có những chuyện hài hước như chúng đã nhét đầy than cục vào trong cái lẵng hoa đẹp đẽ là một món đồ của Trung Quốc hay còn có trò nghịch ngợm như múc nước đổ vào đôi giày cao cổ của Sakai rồi thả cá vàng vào trong đó. Sōsuke thấy những chuyện như vậy thật là mới lạ. Nào là phần lớn lũ trẻ nhà anh ta là con gái nên cần có nhiều quần áo, nào là sau khi anh ta trở về nhà sau hai tuần đi du lịch thì đột nhiên đứa nào đứa nấy đều lớn thêm một tấc nên anh ta cảm giác như là mình đang bị chúng đuổi kịp vậy, nào là chỉ một thời gian ngắn nữa thôi sẽ không chỉ tất bật với việc chuẩn bị gả chồng cho chúng mà chắc chắn kinh tế sẽ bị vắt kiệt,... Nhưng những câu chuyện đó cũng chẳng thể nhận được sự đồng cảm nào từ phía Sōsuke, một người không có con. Và ngược lại, dù Sakai cứ luôn miệng than phiền về con cái mình nhưng biểu cảm trên khuôn mặt của anh ta lại chẳng có vẻ gì là cực nhọc với những việc kia, Sōsuke cảm thấy thật đáng ghen tỵ.

Cảm thấy đã đến lúc phù hợp, Sōsuke đề nghị Sakai cho mình xem bức bình phong mà hôm trước anh ta có kể chuyện. Sakai lập tức đồng ý và vỗ tay bôm bốp ra lệnh cho người làm mang bức bình phong đang cất trong nhà kho ra. Quay về phía Sōsuke, anh ta nói:

“Trước đây hai, ba hôm, tôi đã đặt nó ở chỗ kia nhưng bọn trẻ toàn trốn đằng sau bức bình phong và bày ra rất nhiều trò nghịch ngợm. Sợ nó bị rách nên tôi đã cất đi.”

Nghe những lời này, Sōsuke vừa thấy có lỗi và vừa thấy thật phiền đến Sakai khi bắt anh ta phải lấy bức bình phong cho mình xem. Thật ra mà nói, anh cũng chẳng tò mò đến mức như vậy. Suy cho cùng, một khi món đồ nào đó đã trở thành tài sản của người khác, thì việc xác nhận xem nó có phải là thứ trước kia đã từng là của mình hay không chắc chắn là một việc vô ích.

Nhưng theo yêu cầu của Sōsuke, chẳng lâu sau, bức bình phong được mang tới, đặt dọc theo hiên nhà phía trước mắt anh. Và đúng như dự đoán, đó chính là thứ mà dạo trước đã được để ở phòng khách nhà anh. Khi phát hiện ra sự thật đó, trong đầu Sōsuke cũng không có chút phản ứng mạnh mẽ nào như kiểu “à, chính là nó”. Chỉ có điều là khi đặt bức bình giữa màu sắc của chiếu tatami mà lúc này anh đang ngồi lên, giữa những vân gỗ của trần nhà, những đồ trang trí trên sàn và giữa những hoa văn trên cửa fusuma, rồi thêm vào đó là động tác của hai người giúp việc khi họ thận trọng đem nó từ kho ra, trông nó như một món đồ quý giá có giá trị gấp mười lần so với hồi còn ở chỗ anh. Anh không thể tìm ra được ngay một lời nào để nói về nó nên chẳng biết phải làm gì, anh nhìn nó với ánh mắt không có gì là lạ lẫm, dành cho một thứ đã quen thuộc với mình.

Sakai đã hiểu nhầm rằng Sōsuke là một người sành đồ cổ. Vừa đứng anh ta vừa đặt một tay lên phần mép của bức bình phong, cặp mắt di chuyển liên tục từ chỗ Sōsuke đến mặt trước của bức bình phong. Nhưng Sōsuke chẳng đưa ra một đánh giá nào dù là đơn giản nên Sakai lên tiếng:

“Phần khung của nó rất chắc chắn. Chất lượng là quan trọng mà.”

“Đúng thế.” Sōsuke chỉ nói vậy.

Sau đó, Sakai đi vòng lại phía sau Sōsuke, vừa chỉ ngón tay vào chỗ này chỗ nọ vừa nhận xét và giải thích cho anh. Sōsuke được nghe những điều khá mới mẻ như điểm mạnh của họa sĩ vẽ bức tranh này là ông ta đã sử dụng không tiếc những họa cụ tốt nhất để vẽ, đúng là một người xa hoa, vì thế màu sắc của bức tranh vô cùng tinh tế... Nhưng anh ta cũng nhận xét những thứ chung chung khác mà Sōsuke vốn đã biết.

Thấy đã đến lúc thích hợp, Sōsuke cảm ơn người chủ nhà rồi quay về chỗ ngồi. Sakai cũng trở lại chỗ nệm của mình. Lần này, họ lại nói về bờ ruộng và bầu trời, cùng với phong cách thư pháp của bài thơ trên bức bình phong. Một lần nữa, Sōsuke thấy ấn tượng về sở thích thư pháp và thơ haiku của Sakai. Quả thật đó là một người có vốn hiểu biết phong phú về tất cả mọi thứ, chẳng biết anh ta đã tích lũy trong đầu từ lúc nào. Sōsuke cảm thấy xấu hổ về bản thân mình, anh cố gắng nói càng ít càng tốt, thay vào đó là lắng tai nghe chuyện.

Thấy có vẻ vị khách của mình không có hứng thú về lĩnh vực này, chủ nhà lại chuyển chủ đề câu chuyện sang hội họa. Sakai cũng nhiệt tình nói rằng dù mình không có những món đồ hoàn hảo nhưng nếu Sōsuke muốn anh ta sẽ sẵn sàng cho xem những cuốn tập tranh vẽ hoặc tranh cuộn treo tường. Sōsuke không thể nào từ chối thành ý của chủ nhà. Nhưng rồi anh rào trước bằng câu “thật không phải nhưng mà” rồi hỏi chủ nhà xem anh ta đã trả bao nhiêu tiền cho bức bình phong kia.

“Chà, đó là một báu vật được tìm thấy. Tôi đã mua nó với giá 80 yên.” Sakai lập tức trả lời.

Ngồi trước mặt người chủ nhà, Sōsuke đã cân nhắc xem có nên thổ lộ với anh ta tất cả mọi chuyện liên quan đến bức bình phong hay không. Nhưng anh vô tình nhận ra rằng nếu giãi bày mọi chuyện thì cũng khá thú vị, cuối cùng anh đã bắt đầu nói “thực ra là” để mào đầu, rồi kể chi tiết đầu đuôi câu chuyện từ trước đến giờ. Thỉnh thoảng, người chủ nhà có xen vào những từ “ồ”, “à” như để tỏ ra ngạc nhiên, nhưng cuối cùng anh ta cười phá lên như thể sự hiểu nhầm của bản thân là một trải nghiệm thú vị:

“Vậy là, không phải vì niềm đam mê thư họa nên anh mới đến đây xem nhỉ.”

Đồng thời, Sakai cũng tỏ ra tiếc nuối vì nếu đúng là như vậy thì việc Sōsuke trực tiếp nhượng lại nó cho anh ta với một mức giá hợp lý có phải tốt hơn không. Sau cùng, anh ta chửi rủa thậm tệ người chủ tiệm nội thất và gọi ông ta là một tên vô lại. Từ hôm đó, Sōsuke và Sakai đã trở nên thân thiết hơn hẳn.

⚝ ✽ ⚝

[1] Watanabe Kazan (1793-1841): một họa sĩ Nhật Bản tiên phong trong việc đi theo phong cách hội họa châu Âu.

[2] Địa danh thuộc tỉnh Shizuoka ngày nay, nơi các thành viên trong gia đình tướng quân Tokugawa và những người ủng hộ chế độ Mạc phủ trở về sau khi chế độ Mạc phủ sụp đổ vào năm 1868, trước cuộc Minh Trị Duy Tân năm 1868.

[3] Một đồ dùng còn được gọi là bàn sưởi, dùng để sưởi ấm trong nhà gồm một bàn gỗ thấp, đặt trên một tấm chăn. Bên trong là hệ thống sưởi chạy bằng than với những loại kotatsu truyền thống và bằng điện với những loại kotatsu hiện đại.

[4] Lễ hội búp bê (Hina Matsuri) dành cho các bé gái của Nhật diễn ra vào ngày 3 tháng Ba hàng năm. Búp bê sẽ được trang trí trên một kệ bảy tầng được phủ vải nhung đỏ. Năm con búp bê mà tác giả nhắc đến ở đây nằm ở tầng thứ ba là những nhạc công trong cung đình. Bên cạnh đó, cả bánh, rượu và hoa cũng được trang trí trên kệ.