⊆ 13 ⊇
Vì muốn có một cái đầu gọn gàng cho năm mới nên lâu lắm rồi, Sōsuke mới quyết định bước chân vào tiệm cắt tóc. Sắp hết năm nên khách hàng khá đông, tiếng lách cách của những chiếc kéo đồng loạt vang lên ở hai, ba chỗ trong cửa hàng. Âm thanh bận rộn ấy thật hợp với những cảnh tượng diễn ra trên đường phố mà anh vừa trông thấy, như thể mọi người đang cố gắng vượt qua cái lạnh giá và mong được bước vào mùa xuân càng nhanh càng tốt.
Trong lúc ngồi cạnh lò sưởi hút thuốc và đợi đến lượt mình, Sōsuke cảm thấy mình giống một người miễn cưỡng bị cuốn vào xã hội rộng lớn và không liên quan gì đến bản thân rồi đành phải bước sang năm mới. Tết đã cận kề trước mắt nhưng thực ra anh chẳng hề có hy vọng gì mới mẻ. Vậy mà lại bị đám đông phiền phức lôi kéo vào nên tâm trạng của anh có gì đó xốn xang.
Bệnh tình của Oyone đã dần ổn định. Cô hồi phục đến mức mà giờ đây dù có đi ra ngoài như mọi khi thì Sōsuke không cần phải lo lắng về chuyện ở nhà nữa. Việc chuẩn bị cho mùa xuân cũng tương đối lặng lẽ và gọn nhẹ, nhưng với Oyone thì đó cũng là dịp bận rộn nhất trong năm. Còn Sōsuke, người hiểu rằng mình sẽ bước sang một năm mới đơn giản hơn bình thường, thậm chí anh đã chuẩn bị xong việc này. Khi nhìn thấy rõ ràng dáng vẻ như thể đã hồi sinh của vợ, anh thở phào nhẹ nhõm giống như một bi kịch đáng sợ đã lùi xa. Nhưng mối bận tâm mơ hồ rằng chẳng biết được bi kịch này lúc nào đó sẽ lại ập đến gia đình mình dưới một hình dạng khác đôi khi cứ lởn vởn trong đầu anh.
Nhìn dáng vẻ hối hả của mọi người xung quanh, khi họ đang tận hưởng những ngày cuối năm và muốn đẩy những ngày ngắn ngủi còn lại đó ra trước mắt, Sōsuke lại bị một nỗi sợ hãi mơ hồ tấn công. Thậm chí, anh còn nghĩ rằng nếu có thể thì anh muốn ở lại một mình trong tháng Mười hai tối tăm, u ám này. Cuối cùng đã đến lượt Sōsuke, khi nhìn thấy hình ảnh của bản thân trong chiếc gương lạnh lẽo, bất chợt anh tự hỏi người trong gương kia là ai. Từ phần cổ trở xuống bị quấn trong tấm vải trắng toát, và hoàn toàn không hề nhìn thấy màu sắc hay đường kẻ sọc trên bộ kimono mà anh đang mặc. Lúc đó, anh còn nhìn thấy một cái lồng, bên trong có một con chim nhỏ của ông chủ tiệm cắt tóc đang phản chiếu ở góc cái gương. Con chim đang nhảy nhót trên cái que đặt trong lồng.
Khi bước ra phố với mái đầu được xức dầu thơm nức và lời chào nhiệt tình của người ở tiệm cắt tóc sau lưng mình, anh cảm thấy vô cùng khoan khoái. Trong bầu không khí lạnh lẽo, anh nhận ra rằng hiệu quả của việc đi cắt tóc như Oyone đã khuyên là làm cho tinh thần tươi mới.
Vì có chút chuyện cần hỏi liên quan đến tiền nước nên trên đường về, Sōsuke ghé qua nhà Sakai. Cô giúp việc xuất hiện và nói là mời đi theo lối này nên anh cứ nghĩ là mình sẽ được dẫn đến phòng khách như mọi khi nhưng anh lại được dẫn đi qua phòng đó và đến phòng ăn. Bỗng nhiên, cửa fusuma mở ra khoảng hai thước, có thể nghe thấy tiếng cười của ba, bốn người ở bên trong. Gia đình Sakai lúc nào cũng vui vẻ.
Chủ nhà đang ngồi đối diện với một cái lò than dài, bóng láng. Vợ anh ta ngồi xa lò, hơi dựa người vào cửa trượt ở hiên nhà, mặt hướng về phía Sōsuke. Sau lưng Sakai có treo một cái đồng hồ quả lắc được đặt trong bộ khung thon dài màu đen. Bên phải cái đồng hồ là bức tường với một cái tủ bên trong có các thanh kệ. Trong đó dán những thứ như tranh khắc đá, haiga [1] và cái quạt đã rút bỏ phần nan.
Ngoài vợ chồng Sakai ra còn có hai bé gái mặc chiếc áo khoác ngoài hoa văn với tay áo bó ngồi kề vai bên nhau. Đứa lớn hơn khoảng mười hai, mười ba tuổi còn đứa nhỏ chừng mười tuổi. Chúng mở to mắt và nhìn về phía Sōsuke khi anh bước vào từ cửa fusuma sau lưng chúng. Trên mắt và miệng hai đứa trẻ vẫn còn vương nụ cười ban nãy. Sōsuke nhìn khắp căn phòng một lượt và nhận ra ngoài cha mẹ cùng con cái nhà Sakai còn có một người đàn ông lạ mặt đang khom người ở chỗ gần cửa ra vào nhất.
Sōsuke ngồi xuống, chưa đầy năm phút sau anh đã biết được rằng tiếng cười ban nãy là từ cuộc trò chuyện giữa người đàn ông kỳ quặc đó và gia đình Sakai. Ông ta có mái tóc đỏ, thô ráp như cát, nước da sẫm màu do cháy nắng như thể là cả đời sẽ không nhạt màu đi được. Ông ta mặc một cái áo bằng vải bông trắng có hàng cúc gốm. Bộ dạng nhìn từ cổ áo của cái áo nhồi bông chắc nịch may tay cho đến sợi dây dài được cuộn tròn lại giống như sợi dây của cái ví khiến người ta có thể đoán rằng ông ta đến từ một vùng núi xa xôi nào đó, hiếm khi mới có dịp tới Tokyo. Hơn nữa, dù trời lạnh, ông ta vẫn để lộ xương bánh chè, sau đó ông ấy lấy chiếc khăn lau đang nhét ở sau lưng, bên trong cái đai bằng vải sọc chàm đã bạc màu buộc quanh hông ra và lau mũi.
“Người này đã cất công vác vải vóc từ tỉnh Kai [2] lên Tokyo đấy.”
Sau khi được Sakai giới thiệu như vậy, người đàn ông nhìn Sōsuke rồi nói:
“Ông hãy mua thứ gì đó giúp tôi đi.”
Quả đúng như vậy. Vải được trải ra khắp nhà, nào là meisen, omeshi [3] , có cả shirotsumugi [4] . Sōsuke thấy lạ làm sao khi với ngoại hình và cách ăn nói kỳ quặc như thế kia mà ông ta lại có thể mang trên lưng những món hàng tinh tế đến vậy. Theo giải thích của vợ Sakai thì ngôi làng mà người thợ dệt vải này đang sống chỉ toàn là nham thạch nên họ không thể trồng lúa hay kê mà đành phải trồng dâu nuôi tằm. Đó là một vùng khá nghèo mà nghe nói chỉ có một nhà có đồng hồ quả lắc và ba đứa trẻ được học đến các lớp lớn của cấp tiểu học.
“Hình như người duy nhất có thể viết chữ là người này.” Vợ Sakai nói vậy rồi cười.
Bỗng người thợ dệt cũng nghiêm túc xác nhận những gì vợ Sakai vừa nói:
“Đúng vậy, thưa bà. Người có thể đọc viết, tính toán, ngoài tôi ra chẳng có ai cả. Quả đúng là một nơi tồi tệ.”
Người thợ dệt bày ra trước mặt vợ chồng Sakai rất nhiều loại vải và không ngừng lặp đi lặp lại câu “Hãy mua đi ạ.” Khi bị họ chê đắt và bảo nên giảm giá xuống, ông ta sẽ đáp lại bằng những lời kỳ quặc, quê mùa như: “không đắt đâu mà”, “tôi cầu xin ông bà hãy mua một món”, “thử xem nó nặng thế nào đi”. Mọi người đều bật cười sau mỗi lời nói của ông ta. Hôm nay, vợ chồng Sakai có vẻ rảnh rỗi nên vẫn cứ trêu đùa người thợ dệt.
“Ông thợ dệt này, di chuyển với đống đồ cồng kềnh như thế trên lưng thì liệu ông có ăn cơm được không?”
“Tôi không phải là người có thể chịu được việc nhịn ăn nhịn uống. Nếu đói bụng thì...”
“Ông ăn ở chỗ nào?”
“Ở chỗ nào ư? Tôi ăn ở quán trà.”
Khi Sakai vừa cười vừa hỏi “quán trà” là gì thì người thợ dệt trả lời rằng nơi người ta phụ vụ mình cơm ăn gọi là quán trà. Rồi ông ta kể chuyện là lúc mới lên Tokyo, cơm ở đây rất ngon nên đã ăn uống một cách chỉn chu và đã ăn một ngày ba bữa khiến các nhà trọ cũng không đáp ứng được, ông ta cảm thấy thật có lỗi với họ. Chuyện này lại làm mọi người cười.
Cuối cùng, người thợ dệt đã bán được cho vợ Sakai một tấm lụa mộc dệt xoắn và một tấm lụa dệt thưa màu trắng. Nhìn người ta mua vải dệt thưa dùng cho mùa hè vào dịp cuối năm đã cận kề thế này, Sōsuke cảm thấy những người dư dả này thật đặc biệt. Bỗng, Sakai hướng về phía Sōsuke và gợi ý:
“Anh thấy thế nào? Nhân tiện anh cũng mua một món đi. Vợ anh có thể dùng may bộ đồ mặc nhà.”
Vợ Sakai cũng giải thích rằng nhân dịp này có thể mua với giá đã giảm đi vài phần nên sẽ rẻ hơn. Cô ấy còn bảo đảm thêm:
“Anh trả tiền lúc nào cũng được.”
Cuối cùng, Sōsuke đã quyết định mua cho Oyone một tấm vải dệt meisen. Sakai còn nhất quyết đòi giảm giá tấm đó xuống còn 3 yên. Sau khi bị mặc cả, người thợ dệt lại nói:
“Thật chẳng đáng với giá trị của nó gì cả. Tôi muốn khóc quá.”
Tất cả mọi người lại cười.
Dường như dù đi đến đâu, người thợ dệt này cũng có cách nói năng kiểu nhà như vậy. Hằng ngày, trong khi đi loanh quanh những ngôi nhà đã quen thuộc với mình, hành lý trên lưng ông ta sẽ nhẹ dần và cuối cùng chỉ còn lại tấm khăn furoshiki màu chàm và cuộn sadana [5] . Ông ta nói rằng cũng sắp đến Tết Âm lịch rồi nên trước hết ông ta sẽ về quê, tiễn năm cũ ở chốn xa xôi hẻo lánh đó rồi lại chất vải vóc mới lên lưng và đi bán. Cho đến cuối tháng Tư hoặc đầu tháng Năm, khi số vải vóc của ông ta đã biến thành tiền, đó cũng là thời điểm việc nuôi tằm trở nên bận rộn, ông ta sẽ trở về ngôi làng nhỏ toàn nham thạch nằm phía bắc núi Phú Sĩ của mình.
“Đã bốn, năm năm kể từ lần đầu tiên ông ta đến nhà chúng tôi, nhưng lúc nào trông ông ta cũng vậy, vẫn chẳng thay đổi chút nào.” Vợ Sakai nhận xét.
“Quả đúng là một người đàn ông hiếm có.” Sakai cũng nói thêm vào.
Ở thời đại bây giờ, nếu không ra ngoài ba ngày thì phố xá đã được mở rộng từ lúc nào, một ngày không đọc báo thì sẽ không biết được có một tuyến tàu mới. Trong khi đó, ông ta vẫn giữ nguyên phong cách của một người sống trên núi thì quả thực là hiếm hoi. Quan sát thật kỹ dung mạo, trang phục, cách nói năng của người thợ dệt này, Sōsuke lại cảm thấy đáng thương cho ông ta.
Anh tạm biệt Sakai ra về. Trên đường về, đôi lúc anh chuyển cái bọc đựng tấm vải meisen ở dưới chiếc áo choàng không tay từ bên này sang bên khác. Trong mắt anh không ngừng hiện lên hình ảnh những đường kẻ sọc trên cái áo bông thô kệch của người đàn ông đã bán vải với cái giá 3 yên rẻ mạt, mái tóc đỏ thô ráp, những sợi tóc cứng như chẳng hề có chút độ bóng nào nhưng không hiểu tại sao vẫn có thể rẽ ngôi đẹp đẽ ở giữa mái đầu.
Ở nhà, Oyone vừa may xong một chiếc áo haori để Sōsuke mặc vào mùa xuân này. Thay vì ép phẳng, cô lại nhét nó xuống dưới nệm và tự mình ngồi lên.
“Tối nay anh hãy trải nó ra rồi nằm lên nhé.” Oyone nói rồi quay lại nhìn Sōsuke.
Khi nghe chồng mình kể chuyện về người đàn ông ở tỉnh Kai đến nhà Sakai, quả nhiên Oyone đã cười thật lớn. Sau đó, cô cứ ngắm nhìn họa tiết sọc và chất liệu của tấm vải meisen Sōsuke mang về mãi mà không chán rồi không ngừng nhận xét rằng nó quá rẻ. Đó quả thực là một món đồ tốt. Cuối cùng, cô hỏi:
“Tại sao lại thế nhỉ? Ông ta bán rẻ như vậy thì liệu có lãi được chút nào không?”
“Có mà những người buôn vải trung gian lời quá nhiều ấy chứ.” Sōsuke đã suy luận từ tấm vải meisen và trả lời như thể hiểu rất rõ về việc bán buôn.
Sau đó, câu chuyện của hai vợ chồng chuyển sang chủ đề về cuộc sống dư dả của Sakai. Sự giàu có đó khiến họ trở thành đối tượng để cho người chủ cửa hàng nội thất ngoài phố kiếm chác được một khoản không ngờ, rồi cũng nhờ vậy mà họ có thể mua được những món đồ với giá hời mà trước mắt họ chưa cần đến. Cuối cùng, câu chuyện dừng lại ở không khí vô cùng vui vẻ và náo nhiệt của nhà Sakai. Lúc này, giọng điệu của Sōsuke bỗng thay đổi:
“Không phải chỉ vì họ có tiền đâu. Có một lý do nữa là bởi họ có nhiều con cái. Nói chung là chỉ cần có con thì dù có nghèo vẫn sẽ vui vẻ.” Anh giải thích cho Oyone.
Những lời nói của Sōsuke vang trong tai Oyone với một sắc thái chua chát như thể than thở về cuộc sống buồn tẻ của họ. Bất giác, cô buông tay khỏi tấm vải đang đặt trên gối và liếc nhìn chồng. Sōsuke mãn nguyện vì đã mang từ nhà Sakai về một món đồ rất hợp với sở thích của vợ mình, đó như một niềm vui hiếm hoi trong cuộc sống của cô ấy, cho nên anh không hề nhận ra có gì lạ trong thái độ của Oyone. Oyone nhìn Sōsuke một lúc nhưng không nói gì. Tuy nhiên khi đêm đã khuya, trước giờ đi ngủ, Oyone đã cố tình khơi chuyện đó ra. Hai người thường đi ngủ lúc 10 giờ hơn nhưng khi đoán chồng mình vẫn còn đang thức, Oyone quay sang phía Sōsuke để bắt chuyện:
“Lúc nãy anh nói là nếu không có con thì sẽ rất buồn tẻ nhỉ?”
Chắc chắn là Sōsuke vẫn nhớ rằng mình đã nói những điều tương tự như thế này nhưng anh không cố tình nhắc đến bản thân họ hay ám chỉ Oyone. Thế nên, anh cảm thấy vô cùng bối rối khi bị vợ mình hỏi như vậy.
“Không phải là anh nói về chúng ta đâu.”
Nhận được câu trả lời này, Oyone im lặng một lúc. Sau đó, cô lặp lại câu hỏi gần giống như lúc trước:
“Nhưng lúc nào anh cũng nghĩ là nhà mình buồn tẻ nên mới nói ra điều đó đúng không?”
Thật lòng Sōsuke muốn trả lời là “đúng” nhưng anh e ngại Oyone nên không dám thừa nhận thẳng thừng. Để xoa dịu trái tim của người vợ vừa mới khỏi ốm, anh nghĩ có lẽ nên biến chuyện này thành chuyện đùa và cười nói với cô là được.
“Buồn thì cũng không phải là không buồ...” Sōsuke thay đổi giọng điệu và cố tỏ ra vui vẻ nhưng câu chuyện tắc lại ở đó. Không dễ dàng gì để anh có thể nghĩ ra những câu nói mới mẻ hay những từ ngữ thú vị.
“Thôi nào, em đừng lo lắng nữa.” Anh nói.
Oyone vẫn không đáp lại. Sōsuke định chuyển chủ đề nên nói một câu chuyện phiếm.
“Tối qua có hỏa hoạn đấy.”
Bỗng Oyone đột ngột phân trần với vẻ khá đau khổ:
“Thực ra, em cảm thấy có lỗi với anh.”
Rồi cô lại im lặng. Ngọn đèn vẫn được đặt ở tokonoma như mọi khi. Oyone quay lưng về phía ngọn đèn nên Sōsuke không thấy rõ được biểu cảm trên gương mặt cô nhưng trong giọng nói có chút gì đó giống như đang thổn thức. Từ nãy đến giờ Sōsuke đang ngửa mặt nhìn lên trần nhà nhưng lúc này, anh bỗng quay sang phía vợ mình rồi chăm chú nhìn vào gương mặt của Oyone trong bóng tối lờ mờ. Oyone cũng nhìn Sōsuke chằm chằm trong bóng tối.
“Từ lâu lắm rồi, em định giãi bày và xin lỗi anh nhưng thật khó để nói ra nên em cứ để như vậy đến tận bây giờ.” Cô nói một cách ngập ngừng.
Sōsuke chẳng hề hiểu được ý nghĩa của những lời đó. Anh nghĩ có lẽ là do chứng bệnh hysteria nhưng hoàn toàn không chắc chắn nên anh cảm thấy mơ hồ một lúc. Bỗng với vẻ đăm chiêu, Oyone nói dứt khoát:
“Em sẽ không thể có con đâu.” Cô bật khóc.
Trong khi Sōsuke bối rối vì không biết phải an ủi như thế nào trước lời bộc bạch yếu ớt thế này thì cảm giác thương xót dành cho Oyone cũng trở nên vô cùng mạnh mẽ.
“Con cái thì không có cũng chẳng sao mà. Em hãy xem, có nhiều con như nhà Sakai ở bên trên ấy, người ngoài nhìn vào thì cũng thấy thật đáng lo ngại, hệt như một trường mẫu giáo vậy.”
“Nhưng nếu chắc chắn là không có nổi một đứa con thì anh vẫn không sao chứ?”
“Làm gì đã chắc chắn là chúng ta sẽ không có con. Từ bây giờ chúng ta vẫn có thể có con mà.”
Oyone lại khóc to hơn. Sōsuke cũng chẳng biết phải làm thế nào, anh đành yên lặng đợi cho đến khi cô bình tĩnh lại. Rồi anh từ từ nghe Oyone giải thích.
Trong thời gian chung sống, vợ chồng Sōsuke đã thành công hơn so với những cặp vợ chồng khác vì họ đã có cuộc sống hòa hợp; nhưng xét về mặt con cái, họ lại bất hạnh hơn những người xung quanh. Nếu ngay từ đầu họ không thể có con thì đã đành nhưng đằng này lại là họ đã đánh mất đi những đứa con mà mình có được nên nỗi bất hạnh lại càng sâu sắc hơn.
Lần đầu tiên Oyone mang thai là khi hai người rời Kyoto và bắt đầu cuộc sống của một gia đình nhỏ ở Hiroshima. Khi biết chắc chắn mình có thai, Oyone đã trải qua những ngày tháng trong tâm trạng mơ hồ về một tương lai vừa lo lắng vừa hạnh phúc với trải nghiệm mới mẻ này. Sōsuke thì khá vui mừng khi tự anh lý giải rằng đó là sự thật minh chứng cho tình yêu không thể nhìn thấy bằng mắt thường của hai vợ chồng. Rồi anh thích thú đếm trên đầu ngón tay thời khắc khối thịt mà anh đã thổi hồn mình vào sẽ xuất hiện trước mắt anh. Nhưng trái với mong mỏi của hai vợ chồng, thai nhi đã rời khỏi bụng mẹ một cách bất ngờ vào tháng thứ năm. Lúc đó, cuộc sống sinh hoạt của họ là những tháng ngày thật chật vật. Nhìn gương mặt xanh xao của Oyone sau khi bị lưu thai, Sōsuke đoán rằng chuyện này xảy ra là do cuộc sống khổ cực. Thật đáng tiếc vì kết quả tình yêu đã bị cái nghèo phá hủy và sẽ mãi nằm ngoài tầm tay của họ. Oyone không ngừng khóc lóc.
Chẳng bao lâu sau khi hai người chuyển đến Fukuoka, Oyone thấy thèm đồ chua. Cô nghe nói rằng nếu một lần lưu thai sẽ dễ có những lần khác nên đã vô cùng chú ý và cố gắng hoạt động nhẹ nhàng. Nhờ đó, quá trình mang thai diễn ra hoàn toàn bình thường nhưng chẳng thể giải thích được vì lý do gì mà cô lại sinh thiếu tháng. Bà đỡ lắc đầu và khuyên cô nên đến chỗ bác sĩ để kiểm tra. Bác sĩ khám xong và nói là vì đứa trẻ chưa phát triển đầy đủ nên phải để nhiệt độ trong phòng ở một mức nhất định, sưởi ấm bằng phương pháp nhân tạo mà không có sự thay đổi nào giữa ngày và đêm. Với khả năng của Sōsuke, việc trang bị một cái lò sưởi đặt trong phòng cũng không phải là việc dễ dàng gì. Hai vợ chồng đã dành tất cả thời gian và xoay xở tiền bạc để tập trung vào việc cứu lấy tính mạng đứa trẻ sơ sinh. Nhưng tất cả đều trở nên vô ích. Một tuần sau, sinh linh mang dòng máu của hai người đã nguội lạnh. Oyone vừa ôm xác đứa bé vừa khóc nức nở:
“Chúng ta phải làm gì đây?”
Sōsuke một lần nữa lại phải nhận lấy một đòn đánh mạnh mẽ. Cho đến khi da thịt đứa trẻ đã biến thành tro tàn hay nó đã nằm yên dưới lòng đất đen, anh cũng không hề có một lời than vãn nào. Và trong lúc đó, chẳng biết tự bao giờ, cái thứ như bóng tối bị kẹp giữa hai người họ dần rời xa và không bao lâu thì biến mất.
Rồi ký ức lần thứ ba lại xuất hiện. Trong năm đầu tiên khi chuyển về Tokyo, Oyone lại mang thai. Lúc đó, thể trạng của cô yếu đi khá nhiều nên không chỉ Oyone mà cả Sōsuke cũng vô cùng lưu ý. Cả hai đều chắc chắn rằng lần này sẽ không có vấn đề gì nên những ngày tháng bình an vô sự cứ thế trôi qua. Nhưng vào đúng tháng thứ năm, Oyone lại mắc phải một sai lầm không ngờ tới. Lúc đó, đường nước máy vẫn chưa được dẫn đến nhà nên cả đêm lẫn ngày, người giúp việc phải ra giếng múc nước và giặt giũ. Một ngày nọ, khi cô ta đang ở sau nhà, Oyone có việc cần nói nên đã đi đến chỗ gần cái chậu đặt cạnh vòi nước. Khi định đi qua phía bên kia của cái bồn rửa thì Oyone bị trượt ngã và đặt mông lên tấm ván ướt mà rêu xanh đã mọc trên đó. Nghĩ rằng mình lại làm hỏng chuyện một lần nữa, Oyone hổ thẹn vì sự bất cẩn của mình nên cố tình không nói gì với Sōsuke và cứ mặc kệ mọi chuyện như vậy. Nhưng thời gian trôi qua, khi biết rằng chấn động này không ảnh hưởng gì đến sự phát triển của thai nhi và không có gì bất thường xảy ra với cơ thể của mình, cuối cùng Oyone mới có thể an tâm và nói với chồng mình về sai lầm trong quá khứ. Đương nhiên là Sōsuke không có ý đổ lỗi cho vợ. Nhưng anh đã thêm vào một lời nhắc nhở nhẹ nhàng:
“Nếu em không thật cẩn thận thì sẽ gặp nguy hiểm đấy.”
Rồi cái thai cũng đã gần đủ tháng sinh. Khi ngày sinh đã cận kề, Sōsuke đến cơ quan nhưng đầu óc vẫn luôn nghĩ về Oyone. Trên đường đi làm về, lúc nào anh cũng không ngừng lo lắng liệu hôm nay có chuyện gì xảy ra lúc anh vắng nhà hay không, rồi anh đứng lại trước cửa nhà mình. Nếu không nghe thấy tiếng khóc của đứa trẻ sơ sinh mà mình đang trông đợi, anh lại cảm thấy như thể có gì đó bất thường đã xảy ra và vội vã lao vào trong nhà, sau đó anh lại xấu hổ vì sự kỳ quặc của mình.
May mắn thay, Oyone chuyển dạ vào ban đêm, khi mà Sōsuke ở nhà và không phải bận rộn việc gì khác nên đây là một điều vô cùng thuận lợi vì anh có thể ở bên cạnh và chăm sóc cô. Bà đỡ cũng đã thong thả đến mà vẫn kịp, bông gạc và những vật dụng khác đã được chuẩn bị không thiếu thứ gì. Việc sinh nở diễn ra suôn sẻ đến không ngờ. Tuy nhiên, đứa trẻ sơ sinh đã chui từ tử cung ra một nơi rộng rãi hơn mà vẫn không chịu hít thở không khí bên ngoài. Bà đỡ lấy một đồ vật giống như một cái ống hẹp bằng thủy tinh và liên tục thổi những hơi mạnh vào cái miệng nhỏ nhưng hoàn toàn không có tác dụng. Đứa bé được sinh ra chỉ giống như một khối thịt. Mắt, mũi, miệng được khắc họa trên khối thịt này giống hệt với vợ chồng Sōsuke. Nhưng họ lại không thể nghe thấy âm thanh nào phát ra từ cổ họng.
Một tuần trước khi Oyone sinh, bà đỡ đã đến. Bà ta cẩn thận nghe nhịp tim của thai nhi và còn đảm bảo là tình trạng của nó đang rất khỏe mạnh. Ngay cả khi có gì đó sai sót trong những lời của bà đỡ thì cho đến bây giờ, nếu sự phát triển của bào thai trong bụng ngừng lại ở thời điểm nào đó trước khi sinh thì cơ thể người mẹ cũng không thể chịu đựng được đến ngày hôm nay, trừ khi nó được đưa ra khỏi bụng mẹ ngay lập tức. Dần dần thử tìm hiểu và khi tự mình phát hiện ra sự thật mà từ trước đến giờ anh chưa bao giờ được nghe đến, bất giác Sōsuke thấy kinh hãi. Thai nhi đã vẫn khỏe mạnh cho đến khi rời khỏi bụng mẹ. Nhưng đó là hiện tượng dây rốn quấn cổ, hay còn gọi là tràng hoa quấn cổ. Trong trường hợp bất thường thế này, đương nhiên là phải nhờ tới kỹ năng của bà đỡ để gỡ nó ra. Nếu có kinh nghiệm khi gặp tình huống như vậy, người ta sẽ khéo léo tháo nhau thai đang quấn cổ rồi kéo nó ra ngoài. Bà đỡ mà Sōsuke nhờ cũng có nhiều năm kinh nghiệm nên hẳn là nắm được việc này. Nhưng dây rốn quấn vào cổ thai nhi đôi khi không phải chỉ có một vòng. Nhau thai quấn vào chiếc cổ nhỏ bé tới hai vòng và bà đỡ đã bỏ sót khi gỡ nó ra nên khí quản của thai nhi bị thắt chặt lại và khiến nó ngạt thở.
Lỗi cũng có phần ở bà đỡ. Nhưng chắc chắn phần nhiều ở sai sót của Oyone. Tình trạng bất thường của hiện tượng dây rốn quấn cổ xảy ra vào tháng thứ năm, khi cô bị trượt ngã ở giếng rồi dập mông xuống. Nằm trên giường bệnh sau khi sinh, Oyone lắng nghe đầu đuôi sự việc, cô chỉ khẽ gật đầu mà không nói gì. Đôi mắt hơi trũng xuống vì mệt mỏi đã nhòe đi, hàng mi dài hấp háy không ngừng. Sōsuke vừa an ủi cô vừa dùng khăn tay lau những giọt nước mắt đang lăn trên má.
Đó là quá khứ về chuyện con cái của vợ chồng họ. Sau khi trải qua những chuyện đau buồn như thế này, họ không còn thích nói nhiều về trẻ con nữa. Tuy nhiên, đằng sau cuộc sống của hai người vẫn đượm buồn vì những ký ức này không dễ gì mà xóa mờ đi được. Ngay cả khi vợ chồng họ cười đùa với nhau, ký ức ấy sẽ sáng lên mờ nhạt trong lòng họ. Với lý do như vậy, Oyone cũng không định khơi gợi lại những chuyện trong quá khứ theo một cách mới mẻ. Còn lúc này, Sōsuke cũng thấy chẳng cần thiết phải nghe những chuyện đó từ vợ mình.
Điều mà Oyone định bộc bạch với chồng mình đương nhiên không phải là sự thật mà cả hai vợ chồng họ đều đã biết. Lần thứ ba mất đi đứa con, sau khi lắng nghe những lời giải thích của Sōsuke, cô càng cảm thấy mình giống như một người mẹ độc ác. Cho dù không phải là người trực tiếp ra tay, nhưng càng nghĩ cô càng thấy rằng chính mình là người đã đứng đợi ở nơi nằm giữa bóng tối và ánh sáng để cướp đi mạng sống của chính đứa mà cô đã trao cho sự sống đó, việc này cũng giống như thể cô đã bóp chết nó vậy. Với cách lý giải ấy, Oyone không thể không coi mình là một kẻ xấu xa đã phạm phải một tội lỗi đáng sợ. Rồi chẳng ai biết được rằng cô đã phải gánh chịu một nỗi dằn vặt lương tâm không thể ngờ đến. Hơn nữa, trên đời này chẳng có ai để cô có thể san sẻ và nếm chịu cùng cô sự dằn vặt ấy. Đến cả chồng mình, Oyone cũng không thể nói ra sự khổ đau này.
Sau lần đó, cũng giống như những sản phụ bình thường, Oyone nằm nghỉ ngơi trên giường trong vòng ba tuần. Hẳn đó là ba tuần để tĩnh dưỡng về mặt thể trạng. Nhưng đồng thời, đó cũng là khoảng thời gian mà tinh thần cô phải chịu đựng những điều đáng sợ nhất. Sōsuke làm một chiếc quan tài nhỏ cho đứa trẻ đã mất và tổ chức tang lễ mà không để bất kỳ ai phải chú ý đến. Sau đó, anh còn làm một tấm bài vị nhỏ. Trên tấm bài vị có ghi pháp danh của đứa bé bằng sơn mài đen. Chủ nhân của tấm bài vị có pháp danh nhưng tên thường gọi thì cả bố mẹ của đứa bé cũng không biết là gì. Lúc đầu, Sōsuke đặt nó trên tủ ngăn kéo trong phòng ăn rồi mỗi lúc từ cơ quan trở về anh đều thắp hương. Đôi khi, mùi hương đó thoảng qua mũi Oyone khi cô đang nằm ở phòng sáu chiếu. Lúc ấy, giác quan của cô lại trở nên khá nhạy bén. Một thời gian sau, không hiểu Sōsuke nghĩ gì nhưng anh đã lấy tấm bài vị nhỏ ở trên tủ ngăn kéo xuống rồi cất vào dưới đáy tủ. Ở đó còn có cả tấm bài vị của đứa trẻ đã qua đời ở Fukuoka và người cha đã mất của Sōsuke ở Tokyo được bọc riêng lại bằng vải bông và đặt cẩn thận bên trong. Khi ngôi nhà ở Tokyo bị bán đi, anh không thể chịu đựng được sự phiền phức khi phải mang theo tất cả bài vị của tổ tiên rồi phiêu bạt khắp nơi nên chỉ cất tấm bài vị của người cha quá cố vào trong túi và gửi hết những cái còn lại lên chùa.
Oyone vừa nằm vừa quan sát và lắng nghe tất cả những gì Sōsuke làm. Nằm trên đệm, cô buộc hai tấm bài vị nhỏ lại với nhau bằng một sợi dây nhân quả kéo dài và không thể nhìn thấy bằng mắt thường. Rồi sau đó, cô lần theo sợi dây đi xa hơn nữa, không chỉ bị cuốn theo tấm bài vị, cô thấy nó đang treo lơ lửng bên trên những đứa trẻ đã mất giống như một cái bóng mờ ảo, ngay từ đầu đã chẳng có hình dạng. Oyone nhận ra quy luật khắc nghiệt và khủng khiếp của một số phận khó mà thay đổi được trong đáy sâu của mỗi ký ức còn sót lại ở từng nơi: Hiroshima, Fukuoka, Tokyo. Chịu sự ràng buộc khắc nghiệt đó, khi quan sát và thấy rằng mình là một người mẹ được tạo thành bởi tất cả những sự kỳ lạ cũng như sự bất hạnh lặp đi lặp đi qua bao tháng ngày, vô tình cô còn nghe thấy một lời nguyền bên tai mình. Đáng ra cô phải nằm nghỉ ngơi trong ba tuần tĩnh dưỡng này, nhưng thực tế lại miễn cưỡng về mặt sinh lý và lời nguyền này gần như không ngừng vang lên sâu trong tai của cô. Vì thế, ba tuần nghỉ ngơi đối với Oyone trở thành thời gian tinh thần cô bị khủng hoảng nghiêm trọng.
Cô đã trải qua hơn nửa tháng đau khổ nằm trên gối và nhìn trân trân. Cuối cùng, cô thấy cứ chịu đựng việc nằm như thế thật vô cùng khổ sở nên sau hôm y tá đến khám rồi ra về, cô rón rén ngồi dậy rồi đi loanh quanh. Nhưng dù vậy thì cũng không dễ gì mà có thể xua tan nỗi bất an đeo đẳng trong tim cô. Dù ép cơ thể khó chịu của mình phải di chuyển nhưng đầu óc cô không hề dịch chuyển chút nào nên cô lại cảm thấy thất vọng và cuối cùng lại chui vào đống chăn đệm mà cô vừa bước ra. Cô nhắm nghiền mắt lại như thể là để tránh xa thế gian.
Ba tuần đã trôi qua, cơ thể Oyone cũng đã hồi phục. Cô dọn dẹp giường thật sạch sẽ, nhìn vào gương, cô nhận ra những dấu hiệu của sự sống mới trên hàng lông mày của mình. Đó cũng là thời điểm trong năm mà người ta phải chuyển sang một loại trang phục khác. Oyone cởi bỏ quần áo nhồi bông nặng nề ra. Cô thư thái cảm nhận tâm trạng nhẹ nhõm của mình, thứ không tiếp xúc gì với cáu bẩn trên da dẻ. Cảnh vật tươi sáng tô điểm một cách nổi bật cho sự chuyển dịch giữa mùa xuân và mùa hè của Nhật Bản cũng có gì đó vang vọng vào tâm trí khi Oyone đang cô đơn. Nhưng nó khuấy động lên những thứ đã đắm chìm cho đến khi chúng hiện lên trong ánh sáng sôi nổi. Lúc đó, một sự tò mò về quá khứ u tối được khơi dậy trong Oyone.
Vào một buổi sáng vô cùng đẹp trời, ngay sau khi tiễn chồng đi làm như mọi khi, Oyone đã đi ra ngoài. Lúc này là khoảng thời gian trong năm mà phụ nữ nên đội ô che nắng khi đi ra ngoài. Dưới ánh nắng làm mồ hôi lấm tấm quanh trán, Oyone vừa bước đi vội vã vừa tiếp tục nghĩ về việc lúc nãy, khi thay đồ, mở tủ ngăn kéo ra, cô đã vô tình chạm tay vào tấm bài vị mới được cất dưới đáy của ngăn trên cùng. Cuối cùng, cô bước vào cổng nhà thầy bói Dịch.
Từ khi còn bé, cô đã mê tín giống như phần lớn những người đang sống trong xã hội văn minh. Nhưng bình thường sự mê tín này chỉ dừng lại ở việc thể hiện ra bên ngoài một cách vui đùa giống như mọi người. Vì vậy, việc này chưa từng ảnh hưởng đến những khía cạnh nghiêm túc của cuộc sống thực tế của cô. Lúc này, Oyone với thái độ và tâm trạng nghiêm túc, ngồi trước mặt thầy bói để xác nhận xem trong tương lai mình có được ông trời trao cho cơ hội để có con và nuôi dưỡng con cái hay không. Ông thầy bói, người mở cửa hàng trên một dãy phố lớn có bộ dạng không khác gì những người xem bói cho người qua đường chỉ với một, hai zeni. Ông xếp các thanh gỗ ra, chà sát những que bói bằng tre và đếm chúng, sau đó ông cẩn thận vuốt ve chòm râu dưới cằm của mình rồi ngẫm nghĩ gì đó. Cuối cùng, ông chăm chú nhìn vào mặt Oyone và bình thản tuyên bố:
“Cô không thể có con.”
Oyone không nói gì, cô nghiền ngẫm trong đầu những lời của thầy bói một lúc. Rồi cô ngẩng mặt lên:
“Tại sao ạ?” Cô hỏi lại.
Oyone cứ nghĩ rằng trước khi thầy bói đưa ra câu trả lời ông ta sẽ lại suy nghĩ gì đó. Nhưng ông ta vẫn nhìn chằm chằm vào khoảng giữa hai mắt của Oyone và lập tức nói dứt khoát:
“Cô đã từng làm việc gì đó có lỗi với người khác. Tội lỗi đó vẫn đang nguyền rủa nên chắc chắn là cô sẽ không thể có con đâu.”
Oyone thấy lời nói này như đâm vào tim mình, cô ủ rũ cúi đầu xuống rồi đi về nhà. Tối hôm đó, cô gần như không thể ngẩng lên nhìn mặt chồng mình. Điều mà Oyone không thổ lộ với chồng cho đến tận bây giờ là những lời phán của thầy bói. Trong màn đêm tĩnh lặng đến mức mà ánh lửa của ngọn đèn nhỏ đặt trong tokonoma như đang bị nhấn chìm, lần đầu nghe chuyện này từ miệng Oyone, Sōsuke không thấy dễ chịu chút nào.
“Lúc tinh thần đang còn chưa ổn định mà em lại cất công đi đến những chỗ ngớ ngẩn như vậy. Thật là vô ích khi phải bỏ tiền ra để nghe những thứ vớ vẩn. Rồi em có đến chỗ thầy bói ấy thêm lần nào không?”
“Vì rất sợ nên em không hề đến nữa.”
“Em không nên đến đó nữa. Thật vớ vẩn.” Sōsuke đưa ra câu trả lời bình thản rồi đi ngủ.
⚝ ✽ ⚝
[1] Những bức tranh vẽ bởi các nhà thơ haiku và có đi kèm một bài thơ haiku trên đó.
[2] Tên một vùng đất ngày nay thuộc tỉnh Yamanashi, nằm cách thủ đô Tokyo khoảng 100km về phía tây.
[3] Một loại vải có bề mặt bóng và láng mịn. Người ta nhuộm sợi trước rồi mới dệt.
[4] Vải lụa trắng được dệt từ tơ sống.
[5] Một loại dây dẹt, được dệt bằng vải, dùng để buộc hộp đựng dụng cụ pha trà hoặc buộc hành lý.