Chương 4
Tôi biết rằng vợ chồng có thể chia tay. Ở quanh nhà tôi cũng có vài người như vậy. Ngay cả cô Tomi cũng là một người từng ly hôn. Nhưng tôi đã không hề nghĩ tới chuyện bố mẹ mình sẽ ly hôn. Nên khi nghe bố mẹ thông báo, đầu tôi hoàn toàn trống rỗng.
Vậy nhưng chuyện ly hôn lần này chẳng phải chuyện đùa cũng chẳng phải giả định. Bố mẹ tôi thậm chí nhất quyết không chịu nhìn vào mắt nhau.
“Con chọn theo ai cũng được,” bố tôi nói. “Cũng không phải sẽ vĩnh viễn không được gặp người còn lại. Nếu muốn con có thể gặp bất cứ lúc nào. Đây chỉ là chọn xem con muốn sống cùng ai thôi.”
Mẹ nhắc tới chuyện tiền trợ cấp nuôi dưỡng.
“Tất nhiên chuyện tiền bạc cho tới lúc trưởng thành thì con khỏi cần lo. Bố mẹ đã bàn bạc ổn thỏa vấn đề này rồi.”
Bà nói thêm rằng sẽ sắp xếp để tôi không cần phải chuyển trường.
Thấy tôi chần chừ không lựa chọn được, vị luật sư giải vây rằng không phải vội, từ từ rồi trả lời cũng được. Nhờ thế mà tôi được cho thêm hai, ba ngày để suy nghĩ. Dẫu vậy, việc bố mẹ tôi ly hôn thì không được hoãn lại dù chỉ một ngày. Nội trong hôm đó, mẹ đã mang theo hành lý tối thiểu của mình và rời khỏi nhà. Tới lúc ấy tôi mới biết mẹ đã thuê sẵn một phòng ở bên ngoài.
Giờ nghĩ lại, có lẽ mẹ đã mường tượng ra cảnh cậu con trai sẽ cảm thấy cô đơn khi mình không còn ở nhà nữa. Nếu đúng như vậy thì bà ấy hiểu quá ít về tôi rồi. Nhìn bóng lưng bà ngày một rời xa cánh cửa, đọng lại trong tôi chỉ là thứ cảm xúc lạnh lẽo như băng. Thậm chí còn lạnh lẽo hơn vì tôi coi bà ấy là “người đàn bà có thể đã giết mẹ chồng” hơn là một người mẹ.
Ngoài ra trong đầu tôi cũng đã sớm tính toán. Có thể bố sẽ trả tiền trợ cấp cho tôi. Nhưng có lẽ số tiền sẽ chẳng là bao. Hơn nữa cũng không có gì đảm bảo rằng mẹ sẽ không dùng số tiền ấy vào mục đích khác. Tôi cũng không khỏi bất an rằng liệu người mẹ đã quen ăn sung mặc sướng của tôi có thể sống một cuộc sống ổn định về mặt kinh tế hay không.
Vào đêm mẹ bỏ đi, bố tỏ ra hiền hậu một cách bất thường. Đặt suất sushi đặc biệt về nhà, ông bảo tôi có thể ăn thỏa thích. Dù không nói thẳng với tôi là hãy ở lại cùng bố, nhưng ông trò chuyện với tôi nhiều hơn thường ngày. Ông nhiệt tình hỏi tôi về chuyện trường lớp.
“Năm sau là con lên cấp hai rồi nhỉ, chắc bố phải xây phòng học cho con thôi.” Vừa nhâm nhi bia, ông vừa nói với tôi bằng giọng khá vui vẻ. Trông có vẻ như ông đang sợ tôi sẽ khép mình lại.
Một người bố như thế khiến tôi thấy khó chịu. Hễ nhìn gương mặt của ông là tôi lại nghĩ tới cặp mông trắng của cô Tomi. Cặp mông ấy cũng đã cưỡi lên người ông bố này. Cô ta đã rên rỉ giống hệt như lúc với tay chuyên viên thuế.
Song sự khó chịu này tôi có thể chịu đựng được. Ban ngày, bố thường không có nhà. Trong lúc đó tôi có thể ở một mình. Đúng rồi, tôi cần gì phòng học chứ. Từ ngày mai, tôi có thể tùy ý sử dụng căn nhà này. Sẽ không phải lo không có chốn riêng cho mình nữa.
Đêm hôm đó tôi tỉnh dậy mấy lần. Mỗi lần chìm vào giấc ngủ tôi lại mơ về mẹ. Trong giấc mơ bà không ngừng mắng nhiếc tôi. Mẹ mắng liên tu bất tận khiến tôi trở nên chán ngán.
Khi tôi nói sẽ ở lại căn nhà này, gương mặt mẹ trông giống như đang giận dữ hơn là thất vọng. Hình như bà cảm thấy mình đã bị phản bội.
“Ừm, dù sao cũng có thể gặp nhau bất cứ khi nào mà.” Bố tôi lên tiếng xoa dịu tình hình. Câu nói thể hiện sự ung dung, bình thản. Mẹ tôi im lặng. Có lẽ bà sợ bản thân trông sẽ thật thảm thương nếu kêu gào khóc lóc vào lúc này.
Không lâu trước khi mùa mưa tới, mẹ đã thu dọn toàn bộ hành lý và mang chúng rời khỏi nhà. Hôm đó bố tôi ở rịt phòng khám và không hề chạm mặt mẹ dù chỉ một lần. Chỉ có tôi đứng nơi góc vườn ngắm nhìn những món vật dụng trong nhà lần lượt được chồng lên chiếc xe tải.
Trong số đó có chiếc bàn trang điểm của mẹ. Chiếc bàn có gắn một tấm gương lớn, giờ đang được phủ từ bên trên bằng một miếng vải che. Tôi không thích chiếc bàn trang điểm đó lắm. Khuôn mặt ở trong gương của mẹ lúc nào cũng không phải là mặt của chính bà, mà là của một người phụ nữ khác. Mỗi lần bà ngồi trước tấm gương đó đều có nghĩa bà sẽ bỏ tôi ở nhà và đi ra ngoài. Dĩ nhiên là những lúc dẫn tôi đi chơi bà cũng có trang điểm. Vậy nhưng, ký ức của tôi về những lần được dẫn đi chơi lại mờ nhạt hơn nhiều so với những lần bị bỏ lại.
Chiếc bàn trang điểm đó còn có ngăn kéo ở hai bên. Tôi biết bên trong ngăn kéo bên phải thứ ba từ trên xuống có một chiếc hộp đựng phấn trắng. Rất lâu về trước mẹ đã nói chuyện về hộp phấn đó với một người họ hàng là nữ.
“Hộp phấn của cô cũ quá rồi này.”
“À, cái đó. Là quà tôi được tặng từ lâu lắm rồi. Giờ tôi không dùng nữa, nhưng vứt thì lại thấy tiếc nên tôi cứ để đó thôi. Có nên vứt không nhỉ?”
Không nhầm thì đó là hồi tôi mới vào tiểu học chưa được bao lâu, tôi đã từng bôi thử thứ phấn trắng đó lên mặt. Chỉ là trò bắt chước người lớn trang điểm mà đứa con nít nào bình thường cũng thử. Nhưng thứ mà tôi có hứng thú nhất là thỏi son với sắc đỏ rực rỡ kìa. Vì thấy mẹ luôn đánh cho mặt thật trắng trước khi thoa son, tôi đã cho rằng trước tiên mình cần phải bôi phấn.
Thế nhưng tôi lại bị mẹ bắt gặp khi đang bôi phấn. Ngó thấy bộ dạng tôi, bà bật cười ha hả rồi lôi thỏi son ra thoa lên môi tôi đỏ chót.
“Giờ thì giống con gái rồi đấy,” nói rồi bà lại bật cười.
Tối hôm đó khi mẹ đem chuyện này kể với bố, bố tôi liền cau có.
“Con trai không được làm những trò như vậy,” ông nói với tôi, giọng giận dữ. Cứ tưởng là bố sẽ chỉ cười hùa theo nên tôi đã vô cùng buồn bã.
Sau khi chất toàn bộ hành lý lên xe tải, mẹ đi đến bên tôi.
“Con cầm cái này đi.”
Thứ mẹ trao cho tôi là tấm bùa may mắn núi Narita. Thấy tôi giữ chặt tấm bùa trong tay, bà nắm lấy tay tôi và đút nó vào túi quần.
“Lúc nào con cũng phải đem nó theo mình. Nhưng đừng để bố phát hiện nhé. Kể cả ông ấy có phát hiện thì cũng đừng nói là mẹ cho con.”
“Con hiểu chưa?” Bà nhắc nhở. Tôi lặng lẽ gật đầu.
Khoảnh khắc tiếp theo. Nước mắt mẹ bắt đầu rơi lã chã. Vì biểu cảm của bà vẫn nửa phần như đang tức giận giống mọi khi, tôi nhất thời không hiểu chuyện gì đã xảy ra.
“Nhớ giữ gìn sức khỏe. Lúc ngủ nhớ đắp chăn nha con.”
Nói tới đó thì giọng bà như bị nghẹn lại, mẹ cứ mãi nắm lấy hai vai tôi và cúi gằm mặt. Một lát sau, bà mới ngẩng mặt lên.
“Nếu muốn gặp mẹ, thì hãy mở tấm bùa ra xem. Nhớ lời mẹ nhé.”
“Vâng!”
“Thôi, mẹ phải đi đây.”
Tôi đứng trước cửa dõi theo bóng mẹ leo lên ngồi ở ghế phụ lái của chiếc xe tải rồi đi xa dần. Khuôn mặt của mẹ phản chiếu trong tấm gương chiếu hậu.
Tối hôm đó tâm trạng bố tôi không được tốt lắm. Ông chẳng nói chẳng rằng và chỉ toàn tặc lưỡi. Trông ông có vẻ khó chịu vì mấy chuyện như không tìm thấy đồ lót để thay hay khăn trong phòng vệ sinh vẫn bẩn nguyên. Tất nhiên, đối tượng để bố có thể trút giận đã không còn ở nhà. Ngay cả việc phải tự rót trà cho chính mình, chưa gì ông đã tỏ ra khó chịu. Chúng tôi ăn đồ mua ở ngoài hàng. Tôi không nhớ rõ mình đã ăn gì nữa. Nhưng khá chắc là không phải thứ gì đáng nhớ như món sushi thượng hạng rồi.
Khi chỉ còn một mình, tôi mở tấm bùa may mắn mẹ cho ra xem. Bên trong có một mảnh giấy trắng, trên đó đề địa chỉ và số điện thoại.
Chuyện xảy ra không lâu trước khi tôi bước vào kỳ nghỉ hè. Một phong thư được gửi tới cho tôi.
Mở đầu là chữ “chú” [5] được viết ở ngay dòng đầu tiên của lá thư. Tiếp theo đó là một đoạn văn như sau:
Đây là một bức thư bị nguyền.
Hãy giúp biến lời nguyền của tôi thành hiện thực.
Hãy gửi một tấm bưu thiếp nặc danh, trên đó ghi chữ “sát” bằng mực đỏ, cho người có tên và địa chỉ ở dưới cùng bức thư này. Khi viết, hãy đảm bảo bạn đặt toàn bộ tâm niệm của mình.
Tiếp theo, trong vòng một tuần hãy tiếp tục gửi tới ba người khác ba bức thư nặc danh với nội dung y hệt. Khi đó, hãy xóa đi cái tên ở dưới cùng bên dưới khi nãy, rồi điền tên và địa chỉ của một người mà bạn muốn nguyền rủa lên hàng đầu tiên. Năm tuần sau, người đó nhất định sẽ nhận được sự nguyền rủa của hai trăm bốn mươi ba người.
Không được phép phá vỡ vòng tròn nguyền rủa này. Nếu phá vỡ, chính bạn sẽ trở thành kẻ bị nguyền. Bà Okubayashi Chiyoko sống tại thị trấn Midorigaoka, quận Ikuno, thành phố Osaka vì phá vỡ vòng tròn nguyền rủa mà phải trải qua năm mươi ba ngày sốt bệnh, kết cục đã tử vong.
Chắc chắn ai cũng có người mà mình muốn nguyền rủa. Hãy thành thật với con tim mình.
Cuối cùng, không được phép kể cho người khác về sự tồn tại của bức thư này.
Ở cuối bức thư là tên và địa chỉ của năm người lạ hoắc. Trong bức thư được gửi tới cho tôi, cái tên ở dưới cùng là Suzuki, một người phụ nữ. Địa chỉ ở Sapporo, Hokkaido.
Trước đó, từng nghe bọn bạn trong khối bàn tán nên tôi cũng đã biết về sự tồn tại của bức thư này. Song tất nhiên tôi chưa từng tận mắt thấy nó, cũng chẳng rõ nội dung bên trong thư.
Một bức thư xấu xa và mang một sức hút ma mị khó mà lờ đi được. Tôi băn khoăn với hai việc. Đầu tiên là, có nên gửi tới Suzuki - một người phụ nữ lạ hoắc - tấm bưu thiếp ghi chữ “sát” hay không. Và điều còn lại là, có nên gửi bức thư tương tự tới ai khác hay không. Cả hai đều vô cùng phiền phức và mang lại cho tôi cảm giác không lành. Tuy nhiên nội dung vế sau của bức thư cứ lảng vảng trong đầu tôi không rời. Nếu phá vỡ vòng tròn nguyền rủa thì bản thân sẽ dính lời nguyền...
Trước đó tôi cũng đã nói rồi đấy, rõ ràng tôi không phải là một đứa trẻ tin vào ba thứ tâm linh. Kể cả khi đọc bức thư, tôi cũng đã nghĩ chuyện như vậy sẽ chẳng đời nào xảy ra. Thế nhưng khi cái hạn một tuần chỉ còn vài ngày nữa là hết, tôi bắt đầu trở nên mất bình tĩnh. Điều khiến tôi hoang mang là trong thư viết rất cụ thể kết cục của người phá vỡ lời nguyền. Việc ghi rõ không chỉ nguyên nhân chết, mà còn họ tên và địa chỉ khiến tôi hãi hùng.
Trên thực tế, chỉ cần tra cứu một chút là tôi sẽ biết ngay địa chỉ thị trấn Midorigaoka, quận Ikuno, thành phố Osaka không hề tồn tại. Hơn nữa, nếu nhạy bén hơn thì tôi đã nhận ra cái tên Okubayashi Chiyoko là phiên bản nhái của nghệ danh một nữ ca sĩ nổi tiếng thuở đó. Song hồi ấy tôi đã không đủ bình tĩnh để suy nghĩ thông suốt. Tôi đã trót cho rằng nếu đã đề rõ ràng thế này thì có lẽ đây không hoàn toàn là chuyện nhảm nhí.
Tôi còn để tâm tới chuyện mặc dù sử dụng một từ phản khoa học như “lời nguyền” thế nhưng phương pháp thực hiện lại vô cùng toán học. Con số 243 thoạt nhìn thì có vẻ là viết bừa, tuy nhiên trong lúc suy nghĩ dựa vào nội dung lá thư, tôi đã nghiệm ra ý nghĩa của con số này. Ở phía cuối thư có liệt kê tên của năm người. Tức là, nếu những người nhận được thư tiếp tục làm theo như yêu cầu, cho đến khi cái tên ở hàng đầu lúc tôi nhận thư chuyển xuống hàng cuối thì tổng số thư sẽ là 3x3x3x3x3 bằng 243 bức.
Nếu nhận được từng đó bức bưu thiếp với chữ “sát” thì sẽ ra sao nhỉ? Tôi đồ rằng người nhận sẽ không coi đây đơn thuần là trò đùa rồi cười cho qua được đâu.
Dẫu muốn hỏi xem những người khác xử lý thế nào, nhưng ở cuối bức thư lại ghim dòng chữ “không được phép nói cho bất kỳ ai khác”. Có lẽ chính việc răm rắp tuân theo dòng chữ đó chứng tỏ tôi đã bị trói buộc bởi lời nguyền của bức thư mất rồi.
Tôi còn để tâm tới một chuyện khác nữa. Đó là ai đã gửi cho tôi bức thư này. Như trong bức thư đã viết, bên ngoài phong bì thư không được đề tên người gửi. Phải hoàn toàn nặc danh cũng là một điểm mờ ám của bức thư này.
Tôi có thể nghĩ ra một vài người có khả năng gửi cho tôi bức thư này. Trong đó cũng bao gồm Kuramochi Osamu.
Manh mối giúp tôi đoán ra người gửi là những cái tên được viết dưới đoạn thư. Nếu tuân theo chỉ thị của bức thư thì nhất định cái tên ở hàng đầu tiên sẽ là tên của người mà người gửi muốn nguyền. Trong bức thư của tôi, ở hàng đầu là nhân vật tên Sato, địa chỉ ở tỉnh Hiroshima. Tất nhiên là một người tôi không quen biết.
Trong số những gương mặt hiện lên trong đầu tôi, tính cả Kuramochi, không ai là có vẻ có mối liên hệ với tỉnh Hiroshima cả. Mà kể cả nếu ai đó có mối liên hệ như có họ hàng ở Hiroshima thì tôi cũng chẳng thể biết được.
Đáng ghét ở chỗ, tôi không biết người gửi là ai, nhưng người gửi thì lại biết tôi. Dù đã nghĩ rằng nhân vật bí ẩn đó sẽ không tài nào biết được là tôi phá vỡ vòng tròn nguyền rủa hay chưa, nhưng tôi lại lo lắng nhỡ bằng thủ thuật nào đó tôi bị lộ thì sao. Những kẻ gửi thư có khác nào đã trở thành một tổ chức. Nếu phá vỡ vòng tròn, có thể tôi sẽ bị tổ chức trả thù.
Vậy nhưng rút cục thì tôi đã không gửi bưu thiếp có chữ “sát” tới người phụ nữ tên Suzuki ấy, cũng chẳng gửi thư nguyền tới bất cứ ai. Không hẳn là tôi có niềm tin sắt đá. Chỉ là trong khi đang băn khoăn nhiều chuyện thì kỳ hạn tới, và tôi không có đủ thời gian để viết tận ba bức thư mà thôi. Cho rằng nếu đã không tuân theo một điều thì làm điều còn lại cũng chẳng ý nghĩa gì, vậy nên tôi mới không gửi bưu thiếp có chữ “sát”.
Song cũng không hẳn là tôi đã hoàn toàn quên chuyện này. Với tâm trạng mình đã trót làm điều gì đó không thể vãn hồi, tôi cất lá thư đó vào trong ngăn kéo bàn.
Không lâu sau đó, Kuramochi bắt chuyện với tôi về vụ lá thư nguyền. Đầu tiên hắn hỏi tôi có biết gì về lá thư đó không. Tôi trả lời là có.
“Mày đã từng thấy à?” Hắn lại hỏi.
“Không, chưa từng thấy.”
Tôi không dám nói mình đã nhận được lá thư ấy. Tôi vẫn làm theo chỉ dẫn “không được nói cho ai khác biết”.
“À thế à, tao cũng chưa.” Kuramochi nói.
Lúc ấy, tôi đã nghĩ rằng biết đâu Kuramochi cũng đã nhận được thư. Tôi và hắn có chung người quen. Khả năng tôi và hắn cùng nhận được thư từ một người khá là cao.
“Nếu nhận được thư thì mày sẽ làm gì? Sẽ làm theo mọi chỉ thị viết trong thư chứ?”
“Không biết nữa.” Tôi quyết định trả lời thật thận trọng. “Tới lúc đó tao mới biết được.”
“Nhưng nếu phá vỡ vòng tròn nguyền rủa thì chính mình sẽ bị nguyền đó.”
“Làm gì có chuyện đấy.”
“Có không ta? Nhưng đã có người chết thật đấy.”
“Trùng hợp thôi. Chắc chắn là vậy.”
“Nghe đâu kể cả bị nguyền, nhưng mày chỉ cần khắc số lần bị nguyền lên cổng torii ở đền, thì sẽ giải được đó.”
“À thế à?” Tôi giả bộ không mấy quan tâm.
Mặt khác, vào khoảng thời gian đó, trong nhà tôi cũng có chút thay đổi. Để trốn làm việc nhà mỗi ngày, bố đã thuê một người giúp việc mới. Có cho ông cũng không dám thuê cô Tomi một lần nữa. Người mới đến là một phụ nữ ngoài năm mươi gầy gò. Tới bây giờ tôi cũng không biết tên đầy đủ của bác ấy. Bố bảo tôi cứ gọi bác ấy là Haru.
Bác Haru quán xuyến mọi việc rất chu toàn. Bác dọn dẹp rất tháo vát, nhà cửa luôn sạch sẽ lúc tôi đi học về. Bác cũng thường xuyên giặt đồ nên bố con tôi không còn phải đi tìm đồ lót mỗi khi tắm xong nữa. Bác Haru nấu nướng cũng không tồi, giúp tôi từ một đứa mà thời điểm đó có chút gầy gò chẳng mấy chốc đã lấy lại được cân nặng trước kia.
Tuy nhiên bác Haru là người sẽ không làm bất cứ việc gì khác ngoài những công việc được trả lương. Sau khi nấu cơm tối cho bố con tôi, bác sẽ nhanh chóng ra về. Kể cả những hôm bố về muộn và tôi phải ăn cơm một mình, bác cũng chẳng lần nào ở lại cùng tôi. Ngay từ đầu bác đã chẳng bao giờ nói chuyện với tôi trừ phi có việc. Hình như bác ấy cho rằng việc bầu bạn với trẻ con nằm ngoài phạm vi được trả lương. Dùng từ “lẳng lặng” để mô tả phong thái làm việc của bác ấy là hợp nhất.
Ngay cả một đứa trẻ cũng thấy bác Haru khó có thể coi là một mỹ nhân, hơn nữa bác ấy còn hơn tuổi bố, nên có lẽ bố đã hoàn toàn không nghĩ tới chuyện như hồi cô Tomi. Mặc dù bữa trưa thứ Bảy là dịp duy nhất đầy đủ cả ba người, nhưng kể cả lúc đó bố cũng chẳng mảy may đoái hoài tới bác Haru.
Trước đó tôi từng nhắc đến chuyện có lúc bố tôi về muộn, nhưng những lần đó đều không phải là vì công việc. Kể từ khi lời đồn ấy lan ra, khách tới phòng khám ngày một ít đi. Xui xẻo thay, phòng khám nha khoa mới mở trước nhà ga lại được lòng mọi người, có vẻ các khách hàng đều đã chuyển sang bên đó.
Tôi nghĩ có lẽ cũng một phần vì vậy mà số lần bố tôi đi uống rượu sau giờ làm ngày càng nhiều. Ban đầu bố còn tạt qua nhà và nói với tôi là mình sẽ “đi ra ngoài một chút”, nhưng dần dà bố cứ đi mà không còn báo cho tôi nữa. Mấy bận tôi còn phải ăn cơm tối nguội ngơ nguội ngắt sau khi phát mệt vì chờ đợi quá lâu. Ban đầu tôi cố nghe theo lời răn dạy là không được phép đụng đũa trước bố, nhưng chẳng bao lâu sau tôi bắt đầu ăn mà không chờ ông nữa.
Hình như bố đi tới khu Ginza. Mỗi khi về nhà, mặt ông đều đỏ ửng và hơi thở nồng nặc mùi rượu. Ông nói toàn điều vô nghĩa, chưa kể lắm bận chân ông còn loạng quạng. Đúng là ông thích rượu thật, nhưng trước giờ ông chưa từng cho ai thấy dáng vẻ đáng hổ thẹn này của mình, đâm tôi có chút bất ngờ. Chắc chắn là không phải tự dưng tửu lượng của ông ấy kém đi, chỉ là ông ấy uống nhiều rượu hơn mà thôi.
Tôi không nhớ là lúc nào nữa, nhưng một ngày nọ bố đã nói thế này.
“Đêm nay bố có việc quan trọng nên sẽ về hơi muộn. Có thể bố sẽ đi qua đêm. Con đã là học sinh cấp hai rồi, ở nhà một mình không sao đâu ha.”
Hoàn toàn bị bất ngờ nên tôi im lặng gật đầu. Gương mặt bố tỏ vẻ hài lòng.
“Nhớ đóng cửa cẩn thận rồi hẵng ngủ nhé. Bố có nhờ bác Haru ở lại muộn nhất có thể rồi đấy.”
Bộ đồ bố tôi vận lúc đó hơi khác so với mọi khi. Trông ông như một quý ông xuất hiện trong những thước phim nước ngoài vậy. Tất nhiên ông không diện com lê như mấy minh tinh màn bạc.
Đêm ấy, bố tôi đã không về nhà. Dù nói là “có thể sẽ đi qua đêm” nhưng đây hẳn là dự định từ đầu.
Kể từ đó, thi thoảng bố tôi lại ngủ ở bên ngoài. Nhưng ông không nói là ngủ ở đâu.
Thế rồi vào một đêm nọ.
Hôm đó bố lại đi ra ngoài. Hôm sau không phải là ngày nghỉ nên đáng lẽ ra ông sẽ không ngủ lại bên ngoài. Nằm trong chăn đọc sách, tôi đợi bố về. Tôi đã dần quen với việc ở nhà một mình vào buổi đêm. Tại thời điểm này tôi đang chết mê chết mệt Agatha Christie. Rất nhiều tác phẩm của Christie đi theo mô típ sát hại bằng thuốc độc, đối với tôi, người có hứng thú với thuốc độc từ sau vụ của bà nội, các tác phẩm ấy là những áng văn tuyệt vời. Song không có nghĩa là tôi không bất mãn gì. Dù về lý có thể hiểu được tâm lý và động cơ của những tên thủ phạm được mô tả trong truyện, nhưng về cảm quan mà nói, tôi vẫn khó có thể chấp nhận. Tôi vẫn chưa hiểu khoảnh khắc rào cản tâm lý bị phá bỏ ngay trước khi hung thủ hạ độc sẽ thế nào.
Bố tôi về nhà vào khoảng một giờ sáng. Khi ấy vì cuốn tiểu thuyết tôi đang đọc quá đỗi hấp dẫn nên tôi cứ lật rồi lại lật sách mãi mà quên cả ngủ. Chứ bình thường thì giờ đấy tôi đã ngủ rồi.
Nghe thấy tiếng động, tôi ngồi dậy, người vẫn mặc nguyên bộ đồ ngủ. Đôi lúc bố sẽ mua sushi loại đóng hộp đặc biệt về làm quà cho tôi. Tôi đã nghĩ là đêm nay cũng vậy.
Song món quà của bố đêm hôm đó không phải là đồ ăn.
Vừa mới đi ra hành lang, tôi bắt gặp bố đang rón rén bước vào trong nhà. Bộ dạng ông nom nhếch nhác thảm hại. Có lẽ là do ông chắc mẩm rằng con trai đã say ngủ, nhưng xem ra lý do không chỉ có thế. Đứng sau lưng ông còn một người lạ mặt khác. Một người phụ nữ.
“Ối. Con vẫn chưa ngủ hả?” Gương mặt cứng đờ của ông nở một nụ cười gượng.
“Con đang đọc sách,” tôi đáp. Thế nhưng bố có vẻ không để ý tới lời nói của tôi và quay ra nhìn đằng sau.
“Đây là người quen của bố.”
“Chào cháu.” Người phụ nữ cúi đầu chào. Cô ta mặc một bộ kimono, tóc được vấn cao. Khuôn mặt nhỏ, nước da trắng. Mắt híp nhưng lông mi dài. Chắc là lông mi giả.
“Chào cô,” tôi cũng cúi đầu đáp lễ. Từ người phụ nữ ấy thoang thoảng một mùi hương mà từ trước tới nay tôi chưa từng ngửi thấy. Tôi nhủ thầm, à thì ra là bố lui tới nơi có mùi này.
“Bố và cô đây có chút chuyện cần bàn bạc, con đi ngủ đi.” Trước câu nói của bố, tôi ngoan ngoãn gật đầu. Tôi nhìn thấy người phụ nữ trong bộ kimono cúi mặt xuống cười.
Chẳng rõ bố nghĩ tôi trẻ con đến mức nào, nhưng chí ít thì tôi đã nhận ra mối quan hệ của hai người, và cũng đoán ra được sau đây họ chuẩn bị làm gì. Bố với người phụ nữ này sẽ làm cái việc như bố từng làm với cô Tomi trong căn phòng để chăn đệm vào một ngày nào đó trước đây.
Sáng hôm sau, khi tôi tỉnh dậy thì người phụ nữ mặc bộ kimono đã đi mất. Bố tôi đang ngáy trong phòng ngủ.
Một lát sau bác Haru tới, bác bước vào căn phòng bên cạnh phòng bếp và khịt khịt mũi. Sau đó bác đi tới bồn rửa bát và rà soát gì đó, rồi lại quay trở lại phòng.
“Hôm qua nhà cháu có khách à?” Bác hỏi tôi.
Không biết có nên nói dối hay không, tôi khẽ gật đầu.
Ngay tức thì, bác Haru quỳ mọp xuống đất và bắt đầu nhìn chằm chằm tấm chiếu. Chẳng mấy chốc dường như tìm thấy thứ gì đó, bác nhón cầm bằng đầu ngón tay.
“Một sợi tóc.”
Một bên má và khóe miệng bác Haru hơi nhếch lên. Đó là lần đầu tiên tôi được thấy vẻ mặt khi cười của bác ấy. Một nụ cười khiến cho người ta có dự cảm không lành.
Tôi nhận được bức thư nguyền cũng vào thời điểm xảy ra những chuyện này. Thành thật mà nói, vào lúc đó những chuyện trong nhà đã chiếm toàn bộ tâm trí tôi, nên tôi không đủ sức để quan tâm chuyện bức thư nguyền nữa.
Thế nhưng vào một ngày nọ, khi kỳ nghỉ hè sắp kết thúc, một thứ khiến tôi dao động lại được gửi tới.
Đó là hai tấm bưu thiếp. Cả hai tấm đều là loại bưu thiếp do chính phủ sản xuất, một tấm in con dấu của khu vực Ogikubo, tấm còn lại là của khu Shinagawa. Ở nơi đề tên người nhận, một tấm dùng bút bi đen, tấm còn lại là bút máy mực xanh. Vấn đề là phía sau hai tấm bưu thiếp này. Ở mặt sau của cả hai tấm đều viết giống y hệt nhau. Là chữ “sát” bằng mực đỏ.
Khi nhìn thấy chúng, do quá đỗi kinh hãi, tâm trí tôi thoáng chốc trở nên hỗn loạn. Tôi chắc mẩm ắt hẳn là bởi mình đã phá vỡ vòng tròn nguyền rủa nên mới nhận được thứ này. Song, sau khi bình tĩnh suy nghĩ lại, tôi bắt đầu hiểu tình hình.
Kẻ nào đó đã viết thêm “Tajima Kazuyuki” vào danh sách năm cái tên ở cuối bức thư nguyền. Nếu người nhận thư làm theo chỉ dẫn, những cái tên đó sẽ lần lượt qua tay của nhiều người khác. Ba mũ năm, hai trăm bốn mươi ba người.
Kẻ nào đó đang cố nguyền rủa mình - điều này khiến lòng tôi trở nên u ám. Tôi cũng từng xích mích với người khác vì một chuyện cỏn con nào đó, nhưng tôi không nhớ là mình từng bị nguyền rủa bao giờ. Người gửi thì là ai cũng được. Bọn họ chỉ đơn thuần làm theo chỉ dẫn mà thôi.
Tôi quyết định sẽ không bận tâm tới chuyện này. Có lẽ ai đó bày ra cho vui thôi. Hơn nữa cũng chỉ có hai tấm bưu thiếp viết chữ “sát”.
Thế nhưng, khi những tấm bưu thiếp nguyền rủa lần lượt được chuyển tới, ba tấm vào ngày hôm sau, hai tấm vào ngày hôm sau nữa, tâm trạng tôi ngày một bất an. Có không ít những tấm bưu thiếp đề những chữ khác ngoài chữ “sát”. Có một bức bưu thiếp mà trên đó, một loạt chữ “tử” được viết thành vòng tròn bao quanh chữ “sát”. Chưa kể, rõ ràng là trong thư đã chỉ dẫn viết “bằng mực đỏ”, vậy mà lại có những tấm bưu thiếp như được viết bằng máu.
Tôi không tài nào hiểu nổi mấy người đó nghĩ gì mà có thể gửi một thứ gây khó chịu đến vậy tới một người không quen không biết. Sự khó chịu mà từng tấm bưu thiếp đem lại thì không đến nỗi nào, nhưng khi gom tất cả chúng lại thì dường như tạo thành một nguồn năng lượng tiêu cực xấu xa.
Bưu thiếp chữ “sát” tiếp tục được gửi tới trong khoảng một tuần. Tổng cộng là hai mươi ba tấm. Hai mươi ba trên hai trăm bốn mươi ba, đây là xác suất để đạt được lời nguyền.
Tôi đã muốn lờ chúng đi. Nhưng một điều gì đó không thể lờ đi nảy nở trong tâm trí tôi. Có lẽ tôi đã cảm nhận được rằng thế giới xung quanh mình sắp rung chuyển.
“Dù mày bị nguyền, nhưng nếu khắc số lần bị nguyền lên cổng torii ở chùa, hình như sẽ giải được đó” - tôi nhớ lại lời Kuramochi.
Vào một buổi tối nọ, tôi đã trốn khỏi nhà trong đêm. Đích đến của tôi là ngôi đền gần nhà. Nó nằm ở bên cạnh trường tiểu học. Trong tay tôi nắm một con dao khắc.
Cổng torii lớn nhất ngôi đền này được làm bằng bê tông. Biết được ở bên cạnh thần điện có một cổng torii bằng gỗ, tôi không chần chừ mà tiến thẳng tới đó. Đó là một cánh cổng torii nhỏ màu đỏ son.
Tôi cũng có nghĩ tới chuyện biết đâu chính hành động mà tôi sắp làm mới khiến tôi bị trừng phạt, nhưng giờ không phải là lúc đắn đo. Tôi đã khắc chữ “hai mươi ba” ở dưới chân cánh cổng sao cho nó ít nổi bật nhất. Khi khắc chữ “ba” cuối cùng, lưỡi dao bị sượt và cắt một vết vào ngón tay cái bên trái của tôi. Tôi quay lưng đi về nhà, vừa đi tôi vừa liếm chỗ máu ứa ra từ vết cắt.