Chương 6
Tôi chỉ nhìn chỗ bưu thiếp bị nguyền đó đúng một lần, rồi bọc chúng bằng giấy báo và nhét vào sâu trong hộc tủ. Xử lý bất cẩn sẽ khiến tôi bất an nên tôi đã không vứt chúng đi. Cũng giống như việc tôi khắc chữ “hai mươi ba” ở cổng torii. Tôi tự nhủ rằng mình không tin vào mấy thứ như lời nguyền nhưng lại bị trói buộc bởi lời nguyền tự lúc nào.
Một ngày nọ, tôi thử lôi đống bưu thiếp ra xem lại. Tôi quyết định sẽ vứt chúng đi. Tôi đã nghĩ vì luôn giữ thứ đó nên tôi mới gặp chuyện xui xẻo.
Có hai mươi ba tấm bưu thiếp, nhưng tôi chỉ xem kỹ vài tấm trong số đó. Bởi dù sao tôi cũng đã biết trước nội dung của chúng sẽ giống hệt nhau, cũng biết là càng nhìn chúng thì bản thân sẽ càng bị tổn thương. Vậy nhưng trước khi vứt đi, tôi lại ngắm nghía từng tấm một. Kỳ lạ thay, so với lần đầu tiên nhìn thấy chúng, lần này tôi có thể bình tĩnh hơn. Có lẽ vì tôi thấy chúng sau khi những chuyện không hay đều đã xảy ra rồi chăng?
Trong lúc ngó lại những tấm bưu thiếp, tôi nhận thấy một điều kỳ lạ. Mặt trước bưu thiếp có lỗi sai. Tên của tôi là Tajima Kazuyuki, nhưng toàn bộ bưu thiếp đều viết thành Tajima Kazutsura. Suy ngẫm một lúc tôi liền có câu trả lời. Những người gửi bưu thiếp không lý nào quen biết tôi. Họ chỉ chép lại họ tên và địa chỉ được ghi trong lá thư nguyền rủa kia mà thôi. Suy ra, chính kẻ đầu tiên điền tên tôi vào lá thư kia đã mắc lỗi chính tả.
Tôi đã cho rằng thủ phạm là người không biết rõ về tôi. Kẻ đó chỉ tìm thấy tên và địa chỉ của tôi ở đâu đó rồi điền vào lá thư kia để giỡn chơi mà thôi. Nhưng kể cả vậy thì lỗi này cũng thật đáng mỉa mai làm sao. Vì viết chữ “yuki” [6] thiếu một nét thành “tsura” [7] mà cuộc đời của tôi cũng bị vận vào luôn.
Tôi đã mường tượng ra khả năng thủ phạm có lẽ học cùng trường với mình. Nếu đúng như vậy thì tôi càng muốn đi học trường tư lập. Bạn học tiểu học đa số đều sẽ theo học tại trường trung học công lập trong vùng. Nếu tôi vào trường tư lập thì sẽ không cần giáp mặt tụi nó nữa.
Song điều kiện gia đình tôi thay đổi, kéo theo giấc mộng trường tư lập của tôi tan thành mây khói. Ít nhất là trong vòng ba năm tôi sẽ phải trải qua đời sống học sinh bị cô lập. Điều đó khiến lòng tôi nặng trĩu còn hơn cả việc bị buộc phải húi cua theo quy định nhà trường.
Thế nhưng khi trở thành học sinh trung học rồi tôi mới thấy trường học không chỉ toàn những chuyện đáng ghét. Ở trường mới, cũng có không ít những đứa trẻ tới từ các trường cấp một khác. Do vậy, những người bạn cùng lớp chẳng hề hay biết về chuyện nhà tôi không hề xa lánh mà đối xử với tôi như bình thường.
Dĩ nhiên, cũng vẫn có những đứa xuất thân cùng trường tiểu học với tôi, nên rất có thể sau lưng tôi chúng nó sẽ xì xào nói xấu. Trong thực tế đúng là chúng nó đã nói xấu sau lưng tôi. Nhưng tôi nhờ vào một sự tình cờ nọ đã tìm ra cách để vượt qua nỗi phiền nhiễu ấy.
Đó là khi mọi người đang nói chuyện trong giờ nghỉ.
“Bố của Tajima là nha sĩ đúng không? Quá khủng luôn. Thì ra mày là một cậu ấm con nhà giàu.” Một học sinh cùng lớp nói. Cậu ta tới từ một trường tiểu học khác nên chắc không hề có ác ý.
Một vài đứa ngồi quanh đó nghe được thì cụp mắt xuống vẻ ngại ngùng. Không cần nói cũng biết ấy là những đứa học chung tiểu học với tôi.
“Bố tao không còn là nha sĩ nữa rồi.” Tôi đáp. Trong lớp cũng có mấy đứa hàng xóm nên tôi không dám ăn nói bất cẩn.
“Thế à, tại sao thế?”
“Bệnh nhân không còn tin tưởng vào tay nghề của bố tao nữa nên họ chạy hết,” tôi đáp một cách lửng lơ.
Ấy thế mà, đám bạn không biết chuyện đã cười phá ra. Có vẻ chúng nó tưởng tôi đang nói đùa.
“Tại sao lại không tin tưởng nữa? Bộ khám răng ở nhà mày xong miệng người ta bị sưng hay làm sao hả?”
“Chịu. Chắc họ sợ mình sẽ bị giết chăng?”
Câu này tôi cũng không có ý đùa cợt. Vậy nhưng đám bạn từ trường tiểu học khác ôm bụng cười lăn.
“Gì vậy trời, nha sĩ kiêm sát nhân luôn hả?”
“Hình như người ta gọi bố tao vậy đó.”
Tiếng cười nổ ra. Tôi trở nên lúng túng tợn. Thật kỳ lạ khi trong tiếng cười của đám bạn không pha lẫn ác ý.
“Tức là giờ nhà mày không giàu nữa hả?”
“Đúng rồi. Thế nên mặc dù muốn theo học trường tư lập nhưng tao chỉ có thể vào trường này thôi. Là cựu nhà giàu.”
Cụm từ “cựu nhà giàu” này đã trở thành một từ thịnh hành của lớp tôi trong một thời gian. Trong lúc bị bạn bè cười nhạo, tôi đã nhận ra một điều. Tôi không cần phải che giấu cảnh ngộ của mình. Chỉ cần biến tất cả thành trò cười là được. Làm như vậy tôi cũng sẽ không bị nói xấu nữa. Và có lẽ số người cảm thấy khó chịu khi phải nói chuyện với tôi cũng sẽ ít đi.
Kể từ đó, tôi cố tình nói về nỗi xấu hổ của nhà tôi theo cách hài hước cổ quái. Tôi quyết định sẽ diễn hết mình vai chú hề của lớp. Những cụm từ như “cựu nhà giàu”, “cựu cậu ấm” được mọi người trong lớp hưởng ứng. Vài tháng trôi qua, hình ảnh cậu bạn Tajima hài hước đã bám sâu trong tâm trí mọi người.
“Lúc bà nội chết tao hoảng lắm luôn. Người ta đồn là bà bị chuốc thuốc độc mà chết. Cảnh sát còn ghé thăm nhà tao cơ. Nhưng tồi tệ nhất là vào giờ ăn cơm í. Vừa ăn tao vừa nơm nớp nghĩ, có khi nào thực sự trong cơm của tao có độc không ta?”
Mấy câu đùa tự ngược mua được khá nhiều tiếng cười của tụi bạn. Tôi thừa thắng xông lên, càng tiết lộ bạo hơn, không thể để tụi nó chán được. Cuối cùng tôi còn đem chuyện bố bị tình nhân của gái tiếp rượu đánh kể lể ở trường. Dường như có không ít người cho rằng đây là chuyện bịa.
Kể mấy chuyện như thế trước mặt mọi người thì chẳng vui chút nào. Chỉ là trong khi mọi người còn cười thì bản thân sẽ không bị ruồng bỏ, nghĩ vậy tôi gắng hết sức để duy trì vai diễn kẻ mua vui này. Mỗi khi nghe thấy tiếng cười con tim tôi lại quặn thắt. Tôi biết bản thân đang ngày một trở nên hèn hạ. Dẫu vậy tôi vẫn không dừng lại.
Kihara Masaki là người bạn đầu tiên của tôi từ khi lên trung học. Nó sống ở thị trấn bên cạnh, và hoàn toàn không hay biết gì về lời đồn tai ác của nhà tôi. Có vẻ như nó tin rằng hơn nửa số chuyện tôi kể là thổi phồng. Dáng người nó nhỏ bé và mảnh khảnh, lại thêm nước da trắng, nó mà nuôi tóc rồi cởi đồng phục thì bị nhầm là con gái như chơi. Số người gọi nó là “bê đê” không hề ít.
Song thực chất nó là một thiếu niên ở độ tuổi teen điển hình. Nó say mê ca sĩ nữ và toàn nói mấy chuyện đại loại như bạn nữ nào dễ thương nhất lớp. Lần đầu tiên tôi được tận mắt chiêm ngưỡng một cuốn tạp chí nước ngoài thực thụ cũng là tại phòng của nó. Thuở ấy ngay cả mấy tạp chí gravure [8] để lộ ngực cũng rất hiếm, vậy mà trong cuốn tạp chí đó có những bức ảnh mà người mẫu để lộ cả phần thân dưới. Tuy nhiên phần để lộ đó lại bị bôi đen bởi mực bút dạ. Tôi và Kihara đã hì hục thử biết bao nhiêu cách hòng tẩy vết mực kia. Chúng tôi dùng nào dung môi pha sơn, dầu hỏa, bơ thực vật, tẩy đặc biệt, nhưng vẫn không ăn thua. Dẫu vậy, hễ lờ mờ nhìn thấy thứ muốn nhìn, chúng tôi lại hò reo như bắt được vàng.
Có lần nó hỏi tôi đã bao giờ nhìn thấy “hàng thật” chứ không phải ảnh chưa.
“Không tính của mẹ hay của chị gái nhé.” Kihara tủm tỉm đế thêm. Đó là khi chúng tôi đang nói chuyện ở phòng nó như mọi lần.
“Nhìn rõ thì chưa.” Tôi thành thật trả lời. “Nhưng nếu là nhìn thoáng qua, thì tao từng thấy người ta mây mưa với nhau rồi.”
Mắt nó tròn xoe trước lời nói của tôi. Tiếp đến, nó rướn người với biểu cảm vô cùng tò mò.
Tôi bèn kể cho nó tư thế của cô Tomi và chuyên viên thuế mà tôi bắt gặp năm nào. Kihara chăm chú lắng nghe, quên cả ngậm miệng lại.
“Chà, tao thì chưa từng được thấy cảnh như vậy.” Nó nói, hai má đỏ ửng. “Nhưng mà chỗ đó của con gái thì đã trông thấy vài lần rồi. Cơ mà là của trẻ con.”
“Nếu thế thì tao cũng nhìn qua rồi. Của tụi sơ sinh nhà họ hàng ấy, lúc chúng nó được thay bỉm.”
“Không phải là trẻ con tới mức đấy. Của một đứa tầm tuổi tụi mình cơ.”
Theo lời Kihara, có một đứa con gái sẽ cho xem chỗ đó nếu được trả tiền. Bảng giá kiểu năm mươi yên thì chỉ được nhìn, còn một trăm yên thì có thể sờ một chút. Kihara cũng bảo đứa đó tầm tuổi tụi tôi nhưng học trường khác.
“Mặt nhỏ đó thì xấu lắm.” Nó nói thêm và bật cười.
Nơi con nhỏ đó sống hình như khá xa nhà Kihara. Trong lúc nghe địa điểm, tôi chợt nhớ ra một nơi khác. Nhà của nhỏ đó khá gần ngôi nhà có trò cờ vây khiến tôi mê mẩn dạo nào.
Vừa mới thuật lại điều đó với Kihara, nó đã gật đầu tỏ vẻ không mấy bất ngờ.
“Nếu là trò cờ vây ăn tiền thì tao có biết. Có đấu ba ván với đấu năm ván phải không?”
“Tao từng chơi cái đấu ba ván. Ai thắng hai ván trước thì sẽ được tiền.”
“Thế à?” Kihara lên tiếng sau một hồi suy nghĩ. “Nhưng mà đó là chiêu lòe bịp mà, đúng không?”
“Lòe bịp?”
“Tao nghe người ta nói vậy.”
“Lòe bịp kiểu gì cơ?”
“Cụ thể thì tao không biết, nhưng hình như có sự dàn xếp sao cho mày nhất định không thể thắng được.”
“Nhưng nếu là kỳ thủ cờ vây thì chắc chắn sẽ thắng được chứ?”
Tôi vừa dứt lời, Kihara liền lắc đầu.
“Hắn sẽ không bao giờ chơi với những đối thủ như vậy. Hắn chỉ chọn đấu với ai mà hắn chắc chắn có thể thắng thôi.”
“Làm thế nào để chọn chứ? Phải chơi thì mới biết được đối thủ mạnh hay yếu mà?”
“Hắn sẽ không đấu với những vị khách tới một mình. Hắn nhất định chỉ chơi với người mà hắn biết rõ thực lực thôi. Vì thế hắn sẽ không bao giờ thua.”
“Nhưng tao đã từng chứng kiến khách thắng mà.” Tôi phản biện.
“Trận ba ván và thắng hai, đúng không?”
“Ừ.”
“Đó liệu có phải là người dẫn mày tới đó không vậy?”
Tôi chìm vào im lặng. Quả đúng như lời Kihara nói.
“Tao nghĩ nó là một tay cò mồi đó.” Kihara nói với giọng lấy làm tiếc.
“Nếu mày thua nhiều quá thì sẽ dễ bỏ cuộc và không tới chơi nữa đúng không? Nếu vậy thì hỏng bét. Bọn nó phải làm cho mày cảm thấy chỉ còn một chút nữa là mày sẽ thắng. Để đạt được mục đích, trước mặt mày chúng sẽ cho mày thấy cảnh khách khác sắp thắng. Không chỉ vậy, đôi lúc chúng cũng sẽ thả cho vị khách đó thắng thật. Tuy nhiên, chỉ một ván trong trận ba ván thôi.”
Tôi còn nhớ trong lúc nghe Kihara giải thích, mình đã nổi da gà như thế nào. Đó đích xác là trải nghiệm vào cái lần đầu tiên tôi được dẫn đến ngôi nhà chơi cờ vây cược tiền ấy.
Chuyện chỉ chọn chơi với đối thủ mà người đàn ông biết rõ thực lực cũng có lý. Nói cách khác, ông ta sẽ chỉ đấu với người mà đồng bọn dẫn đến. Vì tôi là “một thằng ngốc nhất định sẽ bị đánh bại” nên mới bị dẫn tới đó.
“Thế đứa kia là bạn của mày hả?” Kihara ngần ngại hỏi.
“Không,” tôi lắc đầu quầy quậy. “Một đứa không quen lắm.”
Kihara trưng ra vẻ mặt nhẹ nhõm, rồi nói.
“Tao cũng đoán vậy.”
Kuramochi Osamu cũng học trường này. Nhưng chúng tôi học khác lớp nên vào thời điểm đó hầu như không qua lại với nhau.
Tôi nghĩ về số tiền mình đã đốt vào trò cờ vây ăn tiền ấy. Nếu nhìn dưới góc độ tiền tiêu vặt của một đứa học sinh tiểu học thì đó là một số tiền khổng lồ. Vì số tiền đó mà tôi đã lấy trộm ví từ xác chết của bà nội.
Tôi đã muốn kiểm tra thực hư với Kuramochi, xem hắn có lừa tôi hay không. Thế nhưng tình cảnh đang bủa vây tôi khi đó không cho phép tôi làm thế. Tôi sắp mất chỗ ở đến nơi rồi.
Giờ thì ai ai cũng đã biết, trên thực tế phòng khám nha khoa Tajima chẳng thể tiếp tục kinh doanh nữa. Cánh tay phải của bố không có dấu hiệu sẽ hồi phục, và cứ như vậy cánh cửa phòng khám cũng chẳng thể mở ra nữa.
Bố tôi cũng chẳng có ý định làm công việc khác. Mỗi ngày của ông đều là uống rượu giữa ban ngày, say quắc cần câu rồi lăn ra ngủ. Ý chí và sinh lực tìm Shimako có vẻ cũng đã ngày một phai nhạt.
Không làm thì sẽ không có cái ăn, hậu quả là tình hình kinh tế nhà tôi ngày càng sa sút. Bố tôi có tiếc nuối số tiền bỏ ra cho Shimako thì cũng đã muộn.
Cũng may mà bác Haru vẫn tới làm việc như trước đây. Dù rõ ràng bố tôi đã không trả lương cho bác ấy đều đặn. Và phải đến mãi sau này tôi mới biết được hành động của bác ấy không xuất phát từ lòng tốt đơn thuần.
Để làm lại từ đầu, bố tôi chọn con đường buông bỏ tất cả. Ban đầu hình như bố tính đem phòng khám cho thuê, nhưng lại chẳng tìm được người có nhu cầu. Phòng khám Tajima đã để lại ấn tượng chẳng mấy tốt đẹp, thành thử những vị bác sĩ định mở phòng khám mới cũng không khỏi do dự. Chính vì thế mà bố tôi đã quyết định bán toàn bộ phòng khám, song kết quả cũng chẳng khả quan hơn.
Hằng ngày người từ bên công ty bất động sản tới nhà và bàn bạc gì đó với bố tôi. Kết luận họ đưa ra là sẽ bán toàn bộ bao gồm cả căn nhà tôi đang ở.
Bán căn nhà và đất đai, xây một căn chung cư nhỏ ở đâu đó, dùng tiền cho thuê phòng để sinh hoạt - đó là kế hoạch mà bố tôi vẽ ra trong đầu. Người đã bị cướp đi tài nghệ duy nhất như ông ắt hẳn chỉ có hứng thú với loại hình kinh doanh ngồi không cũng thu được tiền như vậy.
Những người họ hàng lúc nào cũng muốn can dự vào mọi chuyện, dĩ nhiên lần này họ cũng không chịu khoanh tay đứng nhìn, và kết quả là lại mở một buổi họp gia đình tại nhà tôi. Ngay tại đó, ý tưởng của bố tôi đã bị tất cả mọi người bác bỏ. Họ đồng loạt nhất trí rằng việc bán đi ngôi nhà với gốc gác lâu đời của dòng họ Tajima là hoàn toàn không thể tha thứ.
Dẫu vậy, người đứng tên sở hữu ngôi nhà là bố tôi. Ông đã bất chấp ý kiến của mọi người, hay nói đúng hơn là lờ đi, và bán đi cả ngôi nhà lẫn phòng khám. Bên mua lại là một công ty bất động sản nào đó. Việc này diễn ra ngay sau cái Tết đầu tiên khi tôi vào trung học.
Bởi tôi vốn dĩ rất thích nhà lớn, lại chỉ còn chút nữa là được sử dụng phòng theo ý thích của mình, nên việc phải chuyển đi là một cú sốc với tôi. Ngoài ra tôi còn bất an trước tương lai mù mịt của mình. Dù không hẳn là ghét bố, nhưng kể từ khi bị người phụ nữ Shimako lừa gạt, tôi hoàn toàn không thể tin tưởng ông nữa. Tấm lưng của ông từng nom to lớn đến thế, mà nay trông thật yếu đuối.
Chưa kể tôi còn thắc mắc một chuyện khá đơn thuần khác rằng ở đấy thì việc cơm nước của chúng tôi sẽ ra sao. Ai sẽ dọn dẹp nhà cửa, giặt quần áo đây? Rồi khi áo bị bung cúc thì phải làm thế nào?
Khi bố mẹ ly dị, tôi đã không lưỡng lự mà chọn ở lại cùng bố. Và lần đầu tiên tôi cảm thấy hối hận về quyết định này.
Một buổi xế chiều lạnh giá, tôi đi tới tiệm sách gần nhà. Không phải sách mà bốt điện thoại ở trước tiệm sách mới là mục đích thực sự của tôi. Túi tôi căng phồng với những đồng xu mười yên.
Bước vào bên trong bốt, tôi lôi tấm bùa may mắn ra. Món quà mẹ tặng tôi. Bên trong có ghi địa chỉ và số điện thoại của bà. Cho tới lúc này, tôi chưa bao giờ có ý định gọi cho mẹ. Tôi đã tin, dù chẳng có cơ sở gì rằng, một lúc nào đó tôi sẽ nhận được cuộc gọi từ mẹ hoặc bà sẽ tới gặp tôi. Song đã không có bất kỳ liên lạc nào từ mẹ cả.
Tôi bỏ đồng xu mười yên vào lỗ rồi quay số. Tôi hồi hộp lắng nghe tiếng chuông reo.
Và rồi đầu dây bên kia nhấc máy.
“Vâng, nhà Yamamoto xin nghe.”
Tôi nghe thấy giọng nói của một người đàn ông. Giọng điệu lạnh lùng và có vẻ khó chịu.
Không thấy tôi trả lời, đối phương liền nói “A lô, a lô” bằng giọng cáu bẳn. Nếu tiếp tục im lặng thêm vài giây nữa, chắc chắn đối phương sẽ dập máy.
“À, a lô.” Cuối cùng tôi đành lên tiếng.
“Hả...” Hẳn là vì nghe thấy giọng trẻ con nên đối phương có phần lúng túng.
“Mẹ cháu có nhà không ạ?”
“Mẹ?”
“Vâng. À, mẹ cháu tên là Mineko.”
Lần này thì tới lượt đối phương chìm vào im lặng. Dường như ông ta đã nhận ra tôi là ai.
“A lô,” tôi lại cất tiếng.
“Giờ thì không.” Người đàn ông đáp. Giọng điệu của ông ta lạnh lùng không đọng chút cảm xúc nào.
“Khoảng mấy giờ thì mẹ cháu về ạ?”
“Hừm, cái đó thì ta không biết. Có gì cô ấy về ta sẽ báo lại là cháu gọi.”
“À vâng, nhờ chú báo cho mẹ chá...” Điện thoại đã ngắt trước khi tôi kịp nói hết câu.
Sau đó mỗi ngày tôi đều chờ liên lạc từ mẹ, nhưng chẳng hề có cuộc điện thoại nào. Tôi cũng đã nghĩ tới chuyện thử gọi lại một lần nữa, nhưng sợ người đàn ông kia sẽ lại nghe máy nên không dám.
Đến Chủ nhật, tôi quyết chí thử tới thăm nhà mẹ. Trước đó tôi mua bản đồ và kiểm tra đại khái vị trí nơi tôi cần đến rồi ra khỏi nhà. Có lẽ đó là lần đầu tiên trong đời tôi ngồi tàu một mình để đi đến một nơi xa lạ.
Tìm ra nơi mẹ sống dễ hơn tôi tưởng. Đó là một căn chung cư hai tầng. Song tôi không dám ghé thăm ngay tức thì, mà cứ đứng bên vệ đường ngước lên nhìn cánh cửa. Tôi đã ngóng chờ phải chăng một lúc nào đó mẹ sẽ xuất hiện.
Cuối cùng cánh cửa cũng mở ra, nhưng người bước ra từ đó là một người đàn ông lạ mặt và một bé gái tầm khoảng ba tuổi. Người đàn ông mặc một chiếc áo khoác dày và quấn khăn quanh cổ. Trên tay chú ta cầm một cái thau rửa mặt.
Người đàn ông nhìn vào trong nhà và nói cái gì đó. Chú ta đang cười. Sau khi chú ta cùng bé gái rời đi, một cánh tay trong lớp vải len màu hồng thò ra từ trong phòng, đóng cánh cửa để mở nãy giờ.
Tôi đoan chắc đó là tay của mẹ. Cùng lúc đó tôi cảm nhận được cảm xúc bỏ cuộc đang lan ra trong lồng ngực mình. Giờ đây tôi không thể tới chỗ mẹ nữa. Tôi nhận ra bên cạnh mẹ không còn chỗ cho mình nữa rồi.
Bố mua đất ở một nơi cách khá xa ngôi nhà cũ, và quyết định sẽ xây chung cư ở đó. Nhìn qua đã đủ biết kế hoạch của bố kiểu gì cũng bị bên công ty trung gian dắt mũi, nhưng chẳng có một ai cảnh báo bố tôi, người đã mất đi khả năng bình tĩnh mà phán đoán cả. Đám họ hàng đã hoàn toàn ruồng bỏ ông.
Khi chung cư được xây xong, bố con tôi sẽ chuyển vào đó ở. Trong lúc nó được hoàn thiện, tôi và bố sẽ sống tại một căn hộ cho thuê gần đó. Mọi chuyện đều diễn ra một cách đột ngột.
Một ngày nọ, khi chúng tôi sắp chuyển đi, lần đầu tiên sau một khoảng thời gian rất dài, bố tôi đã ghé qua phòng khám cũ cạnh nhà để thu dọn đồ đạc. Tới tối lúc tôi ghé qua, bố đang ngồi thẫn thờ ở giường khám bệnh. Đồ đạc vẫn chưa được gói ghém lại mấy, trên sàn la liệt các thùng các tông đã mở sẵn.
“Con đấy à?” Nhác thấy tôi, ông cất tiếng một cách nặng nhọc.
Tôi hỏi ông đang làm gì.
“À, không gì cả.” Bố tụt xuống khỏi chiếc giường khám bệnh và thở dài. “Không biết bố đã tiếp bao nhiêu bệnh nhân ở chỗ này rồi nhỉ?”
“Nếu tính theo số răng thì còn đáng trầm trồ hơn đó ạ. Vì đâu phải bố chỉ nhổ đúng một chiếc răng cho mỗi bệnh nhân.”
Bố tôi bật cười hiu hắt trước lời nói của tôi. “Đúng thế nhỉ?”
Sau khi nhìn một vòng quanh phòng khám, ông nói “Mai bố sẽ dọn tiếp. Con tắt đèn hộ bố. Đừng có sờ vào đống đồ ở đằng đó đấy,” đoạn đi về phía cửa.
Tôi dợm bước tính đi theo bố nhưng dừng chân lại. Vì ánh mắt tôi đã va phải thùng các tông nằm bên cạnh. Bên trong thùng có một vài bình thuốc. Có một bình ghi chữ “Clorua thủy ngân”.
Tôi lén nhét cái bình nhỏ đó vào trong túi áo khoác của mình.
Kể cả sau khi chuyển tới căn hộ cho thuê, tôi vẫn theo học tại trường trung học cũ trong một khoảng thời gian ngắn. Bởi lẽ bố đã không xử lý kịp rất nhiều thủ tục cho tôi. Hôm ấy, trên đường từ trường ra ga tàu, tôi đã vòng vèo một chút rồi ghé qua ngôi nhà cũ. Ngôi nhà kiểu truyền thống cổ kính và khang trang, nay đã mất chủ nhân và trông như một nấm mộ khổng lồ bị nhấn chìm giữa những ngôi nhà khác.
Sau đó không lâu, việc chuyển trường của tôi cũng chính thức được quyết định. Một vài người bạn nghe được tin đồn này đã tỏ ra nuối tiếc khi phải tạm biệt tôi. Tôi gắng gượng đóng vai kẻ mua vui kể cũng không uổng phí.
Người tỏ ra buồn bã nhất là Kihara Masaki.
“Bọn mình chơi với nhau chưa được bao lâu, tiếc thật đấy.” Cậu ta nói.
“Tao cũng thấy tiếc.”
Tôi tặng cậu ta đĩa nhạc của nhóm The Beatles. Mặc dù đó chỉ là bản thu lậu của buổi công diễn ở Tokyo, một bản tạm bợ hầu như chẳng nghe rõ âm thanh, nhưng với tôi nó là báu vật. Cậu ta cảm kích đón nhận nó và còn nói rằng từ giờ đến hôm cuối mình cũng sẽ chuẩn bị thứ gì đó.
Một ngày nọ, tôi lại ghé qua nhà cũ như mọi lần. Rất nhiều người đàn ông đang tháo dỡ nó. Máy ủi đang phá tường và cán bẹp những luống rau củ trong vườn. Mấy cây cột đỡ xà nhà bị ủi gãy một cách dễ dàng, những bức tường đất bị cán mỏng như giấy.
Công đoạn tháo dỡ chẳng mất mấy thời gian. Trước sự chứng kiến của tôi, ngôi nhà có lịch sử lâu đời ấy đã hóa thành một đống gạch vụn. Những người đàn ông với dáng vẻ như đã hoàn thành xong công việc leo lên xe tải và rời đi.
Đợi tới khi không còn bóng người, tôi tiến gần tới đống đổ nát từng là nhà cũ. Ngôi nhà đã bị nghiền nát thành cát bụi. Chỉ nhìn qua đống gạch vụn thì sẽ không biết được đó là phần nào của ngôi nhà.
Một chiếc đồng hồ gỗ treo tường bị rơi xuống đất. Chính là chiếc đồng hồ có đính quả lắc. Tôi vẫn nhớ nó là chiếc đồng hồ được treo trong phòng để chăn đệm ở tầng hai. Khi có chuyện buồn tôi vẫn thường khóc trong căn phòng đó. Trong lúc nhìn chiếc đồng hồ ấy, khóe mắt tôi chợt cay cay. Tôi ngồi thụp xuống ngay tại đó, vừa cố nén tiếng lại tôi vừa khóc một chút.
Một lát sau, cảm nhận được có ai đó đang nhìn, tôi ngẩng mặt lên. Ở một góc đường, bác Haru đang nhìn chằm chằm về phía tôi. Khi bắt gặp ánh mắt tôi, bác ta làm vẻ mặt như thể trót thấy thứ gì đó cấm kỵ rồi lập tức bỏ đi. Dường như đang trên đường đi chợ về, bác ta mặc tạp dề và xách một cái giỏ. Có lẽ bác ta đã tìm được một nhà chủ mới.
Khi bị bố tôi cho thôi việc, bác Haru đã yêu cầu ông trả toàn bộ số tiền lương bị chậm trễ. Không chỉ có thế, bác ta còn tính cả tiền lãi.
“Con mụ đó hẳn đã biết chuyện bố gặp công ty bất động sản. Mụ chịu cho mình chậm lương thời gian qua cốt để kiếm thêm chỗ tiền lãi này.” Sau khi bác ta ra về, bố lầm bầm vẻ vô cùng bực bội.
Ngày diễn ra lễ tổng kết năm học vào tháng Ba cũng là ngày mà tôi phải nói lời tạm biệt với bạn bè. Sau hôm đó sẽ là kỳ nghỉ xuân nên bạn bè cùng lớp ai ai cũng mặt mày phấn khởi, duy chỉ có tôi là mang một tâm trạng u sầu. Nhưng tôi đau khổ không hẳn là bởi phải chia tay bạn bè. Tôi gần như đã bị đè bẹp bởi nỗi bất an không biết sau này sẽ ra sao.
Cô giáo chủ nhiệm, người đã chẳng giúp ích được gì cho tôi, phát biểu trước cả lớp về việc tôi chuyển trường. Cô cố ý chọn những từ ngữ gây xúc động lộ liễu, đến mức tôi đứng nghe bên cạnh mà đã thấy xấu hổ. Quả nhiên không có một đứa ngốc nào bị trúng kế mà rơi nước mắt.
Cuối cùng cô chủ nhiệm bảo tôi nói lời tạm biệt với lớp. Tôi đứng trước lớp, buông một lời tạm biệt cộc lốc và nhạt nhẽo. Cô trông có vẻ không hài lòng, còn đám bạn đó giờ luôn coi tôi là thằng hề thì lộ rõ vẻ hụt hẫng.
Kihara đã tiễn tôi tới tận ga tàu. Ngoài nó ra hình như còn có mấy người nữa, nhưng tôi hoàn toàn chẳng nhớ gì về những người khác cả. Kihara đối với tôi mà nói là người bạn duy nhất tôi có trong khoảng thời gian này. Tới giờ tôi vẫn ao ước rằng, giá như gặp được nó vào hồi tiểu học thì tốt biết mấy.
“Mày cầm cái này theo đi.” Nói vậy rồi nó rút ra đưa cho tôi một cây bút máy. Tôi biết là nó đã dùng chiếc bút ấy trong tiết học tiếng Anh.
“Được không vậy?”
“Dĩ nhiên rồi. Còn cái này nữa.” Nó lôi ra từ trong cặp sách một món đồ nữa.
Đó là một cuốn sổ lưu bút. Vừa mở ra tôi liền trông thấy đầy ắp chữ ký, lời nhắn gửi và hình vẽ từ các bạn cùng lớp. Mặc dù ở lớp tôi đã luôn đeo chiếc mặt nạ của một tên hề mua vui, nhưng khi nhìn thấy những thứ này, lòng tôi không khỏi xúc động ngập tràn.
“Cảm ơn mày nha,” tôi lý nhí nói.
Tàu tiến vào sân ga, tôi bước lên tàu. Cũng không phải là tôi chuyển sang một tỉnh khác, sau này nếu muốn thì vẫn có thể dễ dàng gặp mặt, vậy mà trong khi vẫy tay từ bên trong tàu, tôi đã cảm thấy đây như thể một cuộc chia ly vĩnh viễn.
Thực ra, đó đúng là lần cuối cùng tôi gặp Kihara. Một người có thành tích học tập ưu tú như nó đã theo học tại một trường trung học phổ thông mà một kẻ như tôi mãi mãi chẳng thể vào nổi, sau khi tốt nghiệp khoa Văn học của trường đại học quốc lập, nó đã vào làm cho một tòa soạn báo có trụ sở chính ở Tokyo, nhưng chuyện đó chẳng có chút liên quan nào tới số phận của tôi.
Sau khi chào tạm biệt Kihara xong, ngồi trên tàu, tôi lại mở cuốn lưu bút ra. Ở mỗi trang đều có chữ ký và lời nhắn của một người. Trông thấy chữ ký và lời nhắn từ cả những người không mấy thân thiết, lòng tôi dâng lên một cảm xúc là lạ.
Trong lúc lật giở từng trang, tôi phát hiện ra người ký tên và viết lời nhắn không chỉ có tụi cùng lớp. Một vài học sinh lớp khác mà tôi kết thân do học chung tiết kỹ thuật và thể dục cũng viết vài dòng cho tôi. Tôi lấy làm biết ơn Kihara. Nó đã vì tôi mà chuyền tay cuốn sổ này sang cả các lớp khác.
Song cảm xúc hạnh phúc đó cũng sớm bị thổi bay khi tôi nhìn thấy nội dung ở một trang giấy nọ.
Đó là trang do Kuramochi viết. Chắc là Kihara đã nghe được từ ai đó rằng tôi và Kuramochi chơi thân với nhau hồi học tiểu học.
“Ở trường mới cũng cố lên nhé! Đừng gục ngã!”
Dòng chữ được viết bằng bút dạ màu. Bên cạnh dòng chữ là gương mặt của nhân vật chính bộ truyện Ngôi sao của người khổng lồ được vẽ thật đẹp.
Nếu chỉ có vậy thì chẳng sao cả. Vấn đề nằm ở dòng chữ viết phía trên bên phải.
Nó đã được viết như thế này: Gửi Tajima Kazutsura.