← Quay lại trang sách

Chương 5 Vụ án không lời giải

Ba ngày trước, thanh tra Drew trở lại gặp nhà White và hạ mình đưa ra lời xin lỗi.

Henry đã được minh oan khỏi mọi ngờ vực. Vài nhân chứng đáng tin cậy đã xác nhận bằng chứng ngoại phạm của cậu ta. Vào sáng ngày thứ ba sau vụ án, cậu ta vẫn chưa hề rời nước Mỹ. Trong số các hành khách trên chuyến bay đưa Henry về Anh, rất nhiều người còn nhớ trò ảo thuật hấp dẫn bằng những quân bài mà cậu ta đã dùng để mua vui cho họ. Bob Farr cũng được xác minh là không ở Anh vào thời điểm mà chúng tôi đồng thời trông thấy Henry ở ga Oxford và Luân Đôn. Khi đó, anh ta đang nằm trên giường bệnh ở Washington D.C vì ngày hôm trước vừa trải qua một ca mổ ruột thừa.

Vẫn như trước, không thể nào lí giải được bí ẩn. Bob Farr là một anh chàng tử tế, khiêm tốn, dễ chịu, không gia đình và tiền cũng chẳng có là bao. Không có một lời giải thích thỏa đáng nào cho việc anh ta bị sát hại. Một cuộc điều tra đã khẳng định lần đầu tiên trong đời anh ta đến nước Anh là một tuần trước khi bị giết. Anh ta ở Oxford, trong một khách sạn, chừng bốn ngày, sau đó biến mất không tăm tích.

Cái chết của Bob không thực sự tác động sâu sắc tới chúng tôi, vì ngoại trừ Henry, không ai quen biết anh ta cả. Tuy vậy, nó gây ra cảm giác ảo não phiền muộn. Một số người tin rằng nhà Darnley bị ám bởi một con quỷ khát máu. Những người khác thì tin rằng có một tên cuồng sát đang lộng hành. Nỗi sợ hãi bao trùm ngôi làng. Cứ đến chập tối, mọi người đều đã yên vị trong nhà với một loại vũ khí nào đó trong tầm tay. Vợ chồng Latimer lo ngại đến mức tuyên bố ý định rời đi. Alice chỉ còn là cái bóng của cô trước đây. Một đêm, cô gần như đã bị suy nhược thần kinh nghiêm trọng, làm Patrick phải gọi cấp cứu.

Hôm đó là thứ Bảy đầu tiên của tháng Mười hai, đúng hai tuần sau cái chết của Bob Farr. Buổi tối, nhân lúc cha mẹ ra ngoài, tôi mời Henry và John đến nhà uống vài ly.

“John, như vậy là cậu đã được nửa kia đặc cách cho phép ra ngoài tối nay hả?”

John chăm chú quan sát chiếc ly của mình với một nụ cười gượng.

“Tôi được phép ra ngoài cho đến 9 giờ. Nhưng đừng lo, nếu có trễ một chút, Elizabeth cũng sẽ không ra ngoài một mình đế tìm tôi về đâu.”

Chúng tôi uống một chầu vì sức khỏe của Elizabeth, và vì tính rộng rãi hiếm có của em.

Đồng hồ trong sảnh điểm 9 giờ 30 phút, John nhìn đồng hồ đeo tay, và nói với đôi chút châm biếm, “Tôi nghĩ không lâu nữa sẽ có điện thoại.”

Henry tự cho phép mình cười. Cái chết của người bạn chắc chắn đã ảnh hưởng đến cậu ta, nhưng vài ngày nay cậu đã ra khỏi vỏ bọc của mình, trông có vẻ thanh thản hơn.

“Cognac tuyệt quá,” John phát biểu. “Tiếc là sắp hết rồi…”

Tôi tiếp lời, “Henry, cậu không nghĩ là cậu nợ chúng tôi một lời giải thích sao?”

Rượu mạnh phát huy tác dụng và bầu không khí trở nên vô cùng thân mật. Cả ba chúng tôi đều thư giãn. John hoàn toàn thoải mái khi tách xa khỏi cô vợ sư tử. Henry gần như trở về với Henry của ngày xưa. Đã đến lúc làm rõ một số việc.

“Có phải người tôi gặp ở ga Oxford ba năm trước đúng là cậu không? Nếu thế thì người giống hệt cậu mà vợ chồng Latimer nhìn thấy ở Luân Đôn là ai? Giờ thì chúng tôi biết đó không thể là Bob Farr được.”

Tôi rót cho cậu ta chỗ cognac còn lại. Henry ngẫm nghĩ một hồi rồi nói chậm rãi, “Không lâu nữa. Không lâu nữa tôi sẽ giải thích.”

“Cậu có anh em sinh đôi không?”

“Có thể là Bob có!” John đề xuất.

Henry cười chế giễu và lắc đầu phủ nhận.

“Các cậu không biết chuyện tệ đến thế nào đâu. Tôi phải nói rằng tôi rất ngạc nhiên khi không ai tìm ra lời giải đáp cho điều bí ẩn nhỏ bé này,” cậu ta nói. “Thực ra nó khá là rõ ràng.”

Một khoảng lặng.

John châm một điếu thuốc, vẻ mặt trầm tư:

“Điều bí ẩn nhỏ bé… Điều bí ẩn nhỏ bé về tiếng bước chân, và nếu cậu còn nhớ, cả điều bí ẩn nhỏ bé về vụ cha cậu bị tấn công. Chưa cần nói đến bí ẩn về cái chết của Bob Farr, quá nhỏ bé không đáng nhắc tới. Một người đàn ông bị sát hại trong căn phòng niêm phong. Thật đấy, mấy việc đó thực sự chẳng có gì đáng để bận tâm.” John ngập ngừng một lát rồi tiếp tục. “Henry, tôi không chắc lắm, nhưng tôi có cảm tưởng dai dẳng rằng cậu biết ai là người phải chịu trách nhiệm cho những điều bí ẩn nhỏ bé này. Cậu biết kẻ sát nhân.”

Henry chằm chằm nhìn John hồi lâu, với một tia nhìn kì lạ trong mắt.

“Phải,” cậu ta thừa nhận. “Tôi biết người đã làm chuyện này.”

“Nhưng Henry,” John kêu lên, “cậu phải báo với cảnh sát. Tất nhiên là nếu cậu chắc chắn. Kẻ sát nhân vẫn đang tự do, hắn ta có thể phạm tội một lần nữa.”

Henry hớp rượu và liếm môi.

“Không, tôi không nghĩ như vậy,” cậu ta hạ giọng gần như không thể nghe thấy.

Mặc dù là một nhà ảo thuật bẩm sinh, Henry cũng không thể nào nói trước được tương lai. Làm sao cậu ta có thể đoán biết được thảm kịch kinh hoàng sắp xảy trong vòng chưa đầy một giờ tới?

Tiếng chuông điện thoại lanh lảnh vang lên khiến chúng tôi giật mình.

“Cứ ngồi đó!” John nói và đứng dậy “Là Elizabeth gọi tới để ra lệnh đấy.”

Cậu ta sải những bước dài tới cánh cửa dẫn ra ngoài sảnh. Tôi hỏi Henry.

“Vợ chồng Latimer đã đi rồi hả?” - “Tối hôm qua, chắc thế.”

“Lạ thật, họ thậm chí không ghé chào một câu.”

“Sáng nay Victor tới gặp chúng tôi để báo tin. Mọi người đều cho rằng hôm nay họ mới rời đi. Họ dành cả ngày hôm qua để đóng gói đồ đạc. Nhưng khi Victor thức dậy họ đã đi rồi - đương nhiên là mang theo đồ đạc và ô tô. Quá bất ngờ, Victor đã phải cảm thán. ‘Không thể tin được! Họ đi ngay giữa đêm hôm, không nói với tôi một câu. Thế mà tôi đã coi họ là người có học cơ đấy. ’”

“Chắc hẳn họ đi vào khoảng nửa đêm,” tôi bình luận. Tôi ngủ không ngon và nghe thấy tiếng ô tô tầm đó.”

“Tôi cũng thế, ” Henry lầm bầm, đầu cúi xuống.

“Kể cả như vậy thì vẫn kì lạ. Được rồi, thần kinh Alice đang bất ổn. Nhưng lén lút bỏ đi như thế giữa đêm hôm thì…”

John trở về loan báo tin tức, “Nửa tiếng. Cuộc đàm phán khá là gay go, nhưng tôi đã được cho phép ở lại thêm nửa tiếng.

“Chúa ơi, cậu đúng là biết cách nịnh phụ nữ,” tôi nhận xét, giọng cứng nhắc.

John có vẻ không hề chú ý tới lời nhận xét của tôi. Cậu ta đi về phía chúng tôi rồi dừng lại chỗ cửa sổ và kéo rèm lên.

“Tuyết ngừng rơi rồi, nhưng vẫn có một lớp dày hơn mười phân dưới mặt đất. Các bạn của tôi, nhìn phong cảnh này xem. Một vầng trăng bạc trên bầu trời đen thăm thẳm, và một lớp áo trắng tinh khiết bao phủ lên tất cả.”

Henry to tiếng hắng giọng, nhìn chòng chọc vào chiếc ly rỗng.

“Tuyết luôn khiến cho tôi thấy hiếu kì, John ạ. Nó luôn làm cho cổ họng tôi khô khốc.”

Đối mặt với quân phản phúc mang tên cognac đào ngũ ngay giữa chiến trường, chúng tôi không còn lựa chọn nào khác ngoài việc tìm quân tiếp viện từ Scotland. Kết quả là quầy rượu của cha tôi lại mất đi một chai whisky đáng kính trước tiếng hô hào hưởng ứng nhiệt tình.

Chúng tôi nâng ly vì tuyết và hiệu ứng tráng lệ của chiếc áo choàng trắng.

Một lúc sau, chúng tôi hát Chúc mừng sinh nhật chẳng vì lí do gì. Đồng hồ bắt đầu điểm nhịp phụ họa, ở tiếng chuông thứ mười thì điện thoại réo vang.

“Nghe đi, Henry. Nếu đó là Elizabeth thì bảo cô ấy là không có ai ở đây hết.”

Henry gật đầu với nụ cười tán thành và rời khỏi phòng.

Vài phút sau cậu trở lại, ánh mắt lập lòe.

“Vị hôn thê của ông, ông Steven.”

John sửng sốt, nhìn tôi đầy thán phục. Cậu ta bật dậy và hăng hái bắt tay tôi.

“James, người anh em, xin chúc mừng! Tôi không hề biết rằng…”

“Nhưng,” tôi lắp bắp. “Tôi vẫn chưa…”

“Cô ấy bảo một lúc nữa sẽ qua đây, James,” Henry nói trôi chảy. “Đừng lo. Cô ấy bị đức lang quân giữ chân lâu hơn mong đợi, và…”

“Ôi trời đất, một phụ nữ đã có chồng!” John la lên, mắt trợn lên vì kinh ngạc. “Chà! Nếu bác Betty mà biết!”

Henry lại gần bệ lò sưởi, ra vẻ mê mải ngắm nhìn ngọn lửa. Tôi chỉ thấy lưng cậu nhưng có thể dễ dàng tưởng tượng cậu ta đang lén cười thầm. Có phải tôi đã quá say xỉn đâu mà không lập tức nhận ra rằng cậu ta đang trêu tôi chứ.

Đến giờ thì John đã phát hiện ra và ôm bụng cười ngặt nghẽo.

“Tôi biết mà! Ngay từ đầu đã biết!”

“James, tha thứ cho tôi,” Henry nói, quay sang tôi. “Là người ta gọi nhầm số. Chỉ là tôi không thế cưỡng lại việc trêu cậu. Không giận tôi chứ?”

Rồi cậu ta lại quay đi, tiếp tục chăm chăm nhìn ngọn lửa.

John nấc lên.

“Một vị hôn thê, ha ha! Làm sao có thể tin được cơ chứ. Không thể nhịn cười được. Hài quá!”

“Ý cậu là gì?” tôi vặc lại. “Việc tôi có một vị hôn thê thì có gì buồn cười đâu nhỉ?”

“Không có gì, James. Không có gì!” John ú ớ giữa những tiếng hổn hển.

Cậu ta cảm thấy có trách nhiệm phải vỗ vai tôi một cách kẻ cả, nhưng chỉ làm cho tôi khó chịu hơn. Dù vậy rốt cuộc chính tôi cũng không thể nhịn được cười, và cuối cùng lại thành ra tôi đề nghị uống một chầu mừng vị hôn thê tưởng tượng của mình và bọn họ đã nhanh nhảu chấp nhận.

Chiếc đồng hồ ngoài sảnh rung chuông điểm mười lăm phút: 10 giờ 15 phút.

“Chúa tôi!” John kêu lên. “Tốt hơn hết tôi nên về thôi.”

“Cậu vẫn còn vài phút mà. Con bé sẽ không ăn thịt cậu đâu. Uống thêm ly nữa đi.”

“Không, tôi thực sự phải đi. Cảm ơn vì buổi tối tuyệt vời, James. Tạm biệt, Henry.”

John về. Henry trầm tư dõi theo cho đến lúc cánh cửa đóng lại sau lưng cậu ta, rồi đột nhiên đấm một cái vào lòng bàn tay.

“James, cậu nghĩ sao nếu chúng ta chơi một ván cờ?”

“Được, tôi tham gia. Đã ba năm kể từ hồi tôi đánh thắng cậu.”

“Để rồi xem. Để rồi xem.”

Henry là một đối thủ đáng gờm và rất hiếm khi tôi chơi trên cơ cậu ta. Nhưng tối hôm đó tôi quyết tâm cho cậu ta bại thảm hại.

Ván cờ và chai rượu hết cùng lúc vào 10 giờ 45 phút khi Henry nghe tôi tuyên bố ‘chiếu tướng”. Bất chấp vẻ dửng dưng bề ngoài, tôi có thể cảm nhận được bên trong cậu ta đang sôi sục cũng như cậu ta có thể cảm nhận được niềm sung sướng bị kìm nén trong tôi.

“Ván nữa chứ?” tôi lập tức đề xuất.

Henry liếc nhìn cái chai rỗng và gợi ý.

“Thôi đừng uống cạn quầy rượu của cha cậu. Sang nhà tôi được không?”

“Dĩ nhiên cậu có quyền lựa chọn chiến trường.”

Lông mày Henry nhíu lại thành một cái cau mày.

“Có thể ông ấy đang ngủ. Tôi dùng điện thoại được không?”

“Đương nhiên.”

Henry đi ra ngoài sảnh.

“Kì quái,” cậu ta nói khi trở lại.

“Cha cậu không trả lời à?”

“Tôi thử mấy lần. Lần đầu tiên tôi thấy tín hiệu máy bận. Sau đó chuông điện thoại đổ bình thường nhưng không ai bắt máy.”

“Không thể nào như thế được. Chắc hẳn là đường dây có vấn đề.”

“Có lẽ,” Henry nói, vẻ bất an.

Một cơn rùng mình chạy dọc sống lưng tôi. Cuộc vui phải cố gắng lắm mới có được cuốn chúng tôi đi cả buổi tối giờ đã hoàn toàn bốc hơi không còn tăm tích.

“Chúng ta đi xem thế nào?” tôi đề nghị. “Đằng nào cậu cũng phải phục thù.”

“Trả thù? À phải, phục thù. Ván cờ phải không? Đi thôi!”

Đầu óc Henry rõ ràng đang ở nơi khác, cậu bồn chồn châm một điếu thuốc, giúp tôi cất mấy chiếc ly, đổ gạt tàn rồi cùng tôi mặc áo khoác vào. Lúc chúng tôi mở cửa cũng là lúc đồng hồ vừa điểm hết mười một tiếng chuông.

Chúng tôi đứng trên ngưỡng cửa, cảm thấy lạnh cóng người. Trời đêm sáng rõ, vầng trăng vằng vặc tròn trịa đổ tràn ánh sáng xuống lớp tuyết trắng bao phủ khắp khung cảnh. Đệm tuyết dày ấy làm lắng đi mọi tiếng ồn.

Henry đưa mắt ngó quanh rồi từ từ ngẩng đầu lên, thình lình chộp lấy cánh tay tôi và thốt ra bằng một giọng tang tóc.

“James, trăng màu đỏ.”

Ngạc nhiên trước lời nhận xét và giọng điệu ấy, tôi chăm chú nhìn Henry. Trông cậu ta xanh xao với ánh mắt ngây dại. Tôi lắc cậu một cái thật mạnh.

“Henry? Cậu không sao chứ?”

“Đỏ như máu.”

“Cậu nói cái gì mới được chứ? Tôi thấy trăng hệt như một cái đĩa bạc.”

“Phải. Nếu cậu thấy thế. Nó làm tôi sợ.”

“Làm cậu sợ?”

“Đúng.” Giọng cậu ta hơi cao lên. “Hôm nay trăng tròn và có lực hút nguy hiểm, đặc biệt là với những người yếu ớt, ốm đau và bất thường. Với những kẻ giết chóc. Tôi bắt đầu thấy mình đã sai lầm khi nói kẻ sát nhân sẽ không tiếp tục hành động.”

Chúng tôi trao đổi ánh nhìn đầy cảnh giác. Cùng một suy nghĩ vụt qua óc chúng tôi: Arthur không trả lời điện thoại.

Tiếng bước chân lạo xạo trên tuyết của chúng tôi là âm thanh duy nhất phá vỡ sự tĩnh lặng của màn đêm. Tôi hồi tưởng những mùa đông ấu thơ đầy hạnh phúc khi chúng tôi hân hoan đạp lên nền tuyết mới nguyên bằng những đôi giày đinh của mình. Nhưng còn đâu tuyết của những tháng năm ấy, và cả tuổi trẻ vô tư của chúng tôi? Đêm đó, lại một lần nữa, tai họa ập đến.

Chúng tôi gần đến nơi thì một hình thù lờ mờ hiện ra từ phía bên trái. Là Victor.

“Bác Darnley,” tôi kêu lên. “Sao bác mặc độc bộ quần áo ngủ ra ngoài trời rét thế này?”

Victor chỉ khoác thêm đúng một chiếc áo choàng ra ngoài bộ đồ ngủ, không có cả thời gian để cài cúc lại. Trông ông rõ ràng là đang quẫn trí.

“Kẻ giết người,” ông nói với giọng run run, vẫy tay chỉ về phía nhà White. “Hắn lại tiếp tục hành động. Arthur gọi cho bác, mới vài phút trước đây thôi. Ai đó đã bắn ông ấy. Bác nghĩ là ông ấy bị thương nặng. Bác đã gọi bác sĩ và cảnh sát.”

Chúng tôi chạy hết tốc lực đến nhà Arthur. Đến cổng, tôi dừng lại và giơ tay lên.

“Nhớ đề phòng cảnh giác, tên sát nhân có thể vẫn còn trong nhà. Nhìn xem, không hề có dấu chân.”

Trên bậc tam cấp cũng như con đường bao quanh ngôi nhà phủ một lớp tuyết còn phẳng nguyên. Vả lại kể từ lúc rời đi, chúng tôi không hề thấy bất cứ một dấu vết nào. Không còn nghi ngờ gì nữa, chúng tôi là những người đầu tiên đặt chân lên mảnh đất phủ tuyết trắng tinh khôi này.

Henry đi đến cửa chính với vẻ mặt đáng sợ và nhấn chuông cửa. Không đợi trả lời, cậu ta rút một chiếc chìa khóa ra khỏi túi và tra vào ổ. Tới sảnh chính, Henry bật đèn lên. Đập vào mắt chúng tôỉ là mấy vết thâm đen rải rác trên sàn gỗ chỉ cách chỗ đang đứng vài bước chân.

“Cha!” Henry gọi.

Im lặng.

“Hãy đứng giữ cửa, bác Darnley,” tôi yêu cầu. “Không biết được đâu, tên giết người có thể cố trốn thoát bằng đường đó.”

“Đương nhiên, bác hiểu,” Victor lắp bắp, khuôn mặt tái mét vì sợ hãi.

Henry đi về phía phòng ngủ của cha cậu. Trong lúc chúng tôi còn đang mở cửa và trước khi đèn bật sáng, tôi phát hiện ánh sáng leo lét phát ra từ phòng khách, bèn tiến về phía đó.

Cửa mở. Tôi không nhìn nhầm: đèn bàn đang bật sáng cạnh cửa sổ. Tôi ấn công tắc gần cửa và im lặng nhìn quanh phòng. Có vết máu trên sàn và thảm. Tôi nhìn điện thoại. Ống nghe đã được đặt vào chỗ cũ, máu ở khắp mọi nơi.

Henry lao vào phòng khách.

“Có máu trên giường. Súng rơi dưới sàn. Không thấy cha đâu! Tôi đã tìm ở các phòng khác và…”

Giọng cậu yếu dần rồi im bặt, ngón tay run run chỉ về phía trường kỉ, mắt trợn lên. Có vài lọn tóc lấp ló sau lưng ghế.

Cổ họng nghẹn ứ, tôi đi tới chỗ trường kỉ. Arthur đang nằm đó trong bộ đồ ngủ, người rũ sang một bên. Tai trái đã biến thành một đống bầy nhầy đầm đìa máu, nhưng môi ông vẫn đang mấp máy yếu ớt.

“Henry, bác ấy còn sống!”

“Cha! Chúng con đây! Con xin cha, đừng cử động. Sẽ có người đến giúp chúng ta. Bác sĩ đang trên đường đến rồi.”

3 giờ sáng.

Drew, vẫn còn kinh sợ, ngồi trên chiếc ghế cạnh điện thoại hút hết điếu này tới điếu khác. Ông chải tay qua tóc, thở dài thườn thượt và khó nhọc nói.

“Hãy điểm lại mọi việc một lần nữa. Lúc này chúng ta không thể làm gì khác. Khoảng 11 giờ kém 15 phút, ông White bên hàng xóm gọi điện cho ông. Ông có thể nhớ lại chính xác ông ta nói gì với ông không?”

“Tôi nghĩ đại loại là thế này: ‘Tên giết người. Ôi! Đầu tôi. Tôi nghe thấy có tiếng động, tôi tỉnh dậy… một cái bóng… súng nổ. Đau quá. Victor, sang đây mau! Tôi sắp chết rồi, nhanh lên, nhanh lên.’”

“Cùng lúc đó,” Henry nói bâng một giọng căng thẳng, “tôi cũng cố gọi điện cho cha. Hiển nhiên, máy bận. Không lâu sau tôi gọi lại nhưng không thấy trả lời. Chúa ơi, cầu cho cha tôi được cứu sống!”

“Có thể dễ dàng tái hiện lại các sự kiện,” Drew nói. “Tên giết người bất ngờ tấn công ông White trong lúc ngủ và bắn vào đầu ông ta. Viên đạn khiến nạn nhân bị thương ở vùng tai. Chúng tôi vẫn chưa thể đối chiếu dấu vân tay của ông White với dấu vân tay tìm thấy trên khẩu súng, nhưng tôi cược rằng trong lúc ông White bất tỉnh, tên giết người đã đặt vũ khí vào tay ông ta nhằm làm giả hiện trường tự sát. Đừng quên hắn đã dùng chính vũ khí của nạn nhân để loại trừ tối đa nghi ngờ về việc đã xảy ra.”

“Kể từ khi Bob Farr bị sát hại,” Henry xen vào, “cha luôn ngủ với khẩu súng đã nạp đạn bên giường và tên giết người biết điều đó.”

Drew hỏi ngay, “Vậy có những ai biết?”

“Tôi xin phép không tiết lộ,” Henry cẩn trọng nói. “Như thế chẳng khác nào tôi đang kết tội họ.”

“Tôi biết,” Victor Darnley thừa nhận không chút nao núng.

“Tôi cũng vậy,” tôi thú nhận. “Nhưng chắc chắn chúng tôi không phải những người duy nhất. Cha mẹ tôi, em gái tôi, John, vợ chồng Latimer và những người khác nữa.”

“Dù sao thì, số nghi phạm cũng được giới hạn,” Drew tuyên bố. “Tiếp theo, tên sát nhân đã rời đi sau khi dàn cảnh xong.”

“Nhưng, ông thanh tra,” tôi kêu lên. “Việc đó là không thể. Không có dấu vết nào trên tuyết.”

Tôi nín lặng trước cái nhìn khinh miệt của Drew.

“Nhưng ông White vẫn chưa chết,” ông ta tiếp tục. “Mặc dù vết thương rất đáng sợ, ông ta vẫn gắng gượng lết được tới phòng khách và gọi cho ông, ông Darnley. Bấy giờ là 11 giờ kém 15 phút. Ông ta tìm được chút sức lực để đi tới chỗ trường kỉ. Mọi việc chắc chắn đã xảy ra theo trình tự như vậy, vì những dấu máu trên sàn nhà hoàn toàn tương ứng với hành động của ông ta.” Drew ngừng lại. “Mọi thứ đều tuyệt đối rõ ràng ngoại trừ một chi tiết nhỏ. Kẻ sát nhân đi đâu? Chúng tôi đã lục soát ngôi nhà hai lần. Không có kết quả gì. Chúng ta cũng biết rằng tuyết ngừng rơi vào khoảng 9 giờ, và ông White bị thương sau đó. Nhân viên y tế đã khẳng định điều này. Hiện tại, không có dấu chân trên tuyết xung quanh ngôi nhà, đương nhiên là ngoại trừ dấu chân ở cạnh cửa chính của các vị.”

“Cánh cửa sau dẫn ra ngoài vườn bị mở,” Henry gợi ý.

“Thì sao?” Drew trả lời. “Rõ ràng cậu cũng thấy là không có một dấu vết nào dù là nhỏ nhất ở bên ngoài! Đồng ý là người của tôi vẫn chưa làm xong việc và đang mang thêm đèn pin tới, nên có lẽ...”

Một viên cảnh sát lao vào phòng.

“Không có gì, ông thanh tra. Không có gì cả. Tôi không thể hiểu nổi. Ngoại trừ dấu chân của những vị này và của chính chúng ta trên bậc tam cấp thì không còn gì hết. Mọi thứ đều được bao phủ dưới một lớp tuyết mới nguyên. Không có dấu chân quanh nhà, trên bậu cửa sổ hay trên cá mái nhà. Tôi nghĩ chúng ta có thể ngừng lục soát.”

“Không!” Drew kêu lên. “Không thể được. Tôi muốn các anh rà soát lại ngôi nhà lần nữa một cách ti mỉ hơn, từ trong ra ngoài, từ trên xuống dưới. Tên sát nhân phải ở đâu đó quanh đây, tôi chắc chân là vậy.”

Viên cảnh sát gật đầu và rời khỏi phòng. Ông thanh tra bĩu môi cười khinh bỉ.

“Tin tôi đi, khi tôi tóm được tên ác nhân ranh ma này thì hắn sẽ may mắn được nguyên vẹn lên đoạn đâu đài. Và chắc chắn tôi sẽ bắt được hắn. Đến nay tôi chưa thất bại lần nào và lần này tôi cũng ko có ý định đó đâu.”

“Nếu tôi là ông thì tôi không dám chắc vậy đâu,” Victor nói. “Mọi việc cho đến nay dường như đến chỉ ra rằng thủ phạm của những vụ án này là sinh linh tồn tại ở thế giới bên kia. Đầu tiên là một người Mỹ bị sát hại trong căn phòng niêm phong, và giờ thì tên giết người đào thoát thành công không để lại một dấu vết nào trên tuyết, như thể lực hấp dẫn không ảnh hưởng đến hắn vậy. Ông biết không, linh hồn thực sự tồn tại. Người ta nhìn tôi với ánh mắt thương hại khi nghe tôi nói thế. Tôi thừa biết bọn họ cười giễu sau lưng tôi. Tất cả mọi người, ngoại trừ Arthur và vợ chồng Latimer.”

“Vợ chồng Latimer đã rời đi đêm qua,” tôi thêm vào.

“Và ngay cả một lời chào tạm biệt cũng không có,” Victor oán trách. “Thật lạ kì. Tôi đã rất gần gũi với họ, vì bọn họ lúc nào cũng thân thiện.”

Lông mày của Drew nhướng lên vì kinh ngạc.

“Nhà Latimer, đi rồi? Ý ông là sao, đi rồi? Đi đâu?”

“Tôi không mảy may hay biết gì hết,” Victor bơ phờ trả lời.

“Nhưng tại sao?”

“Kể từ cái chết của thanh niên người Mỹ, Alice không còn như trước nữa. Cô ấy đã nhiều lần bị suy nhược thần kinh và tôi nghĩ cô ấy quá hoảng sợ. Dù sao thì thực tế là họ vẫn quyết định chuyển đi. Theo đúng kế hoạch thì họ sẽ rời đi vào ngày hôm nay, hay đúng hơn tôi nên nói là hôm qua,” ông nhìn đồng hồ và bổ sung. “Nhưng họ đã đi từ đêm hôm kia, không nói một lời với ai cả.”

“Kì quái! Kì quái!” Drew nói, mắt nheo lại. “Kì quái đến mức tôi phải phát lệnh truy nã ngay lập tức. Tuy nhiên theo tôi, hai con chim đó vẫn chưa bay xa đâu. Tôi dám nói là một trong hai người bọn họ vài tiếng trước vẫn còn ở đây.”

Drew vươn tay ra định cầm lấy điện thoại nhưng một tiếng chuông thình lình réo vang khiến ông ta khựng lại trong vài giây. Trấn tĩnh rồi, ông ta nhấc ống nói lên.

“Drew xin nghe.”

Mỗi một giây trôi qua, nét mặt Drew lại càng sầu não. Sau khi gác máy, ông ta châm một điếu thuốc, bồn chồn rít vài hơi và nhanh chóng phả ra đằng mũi. Ông ta đặt tay lên trần, ủ rũ nhìn xuống và tuyên bố.

“Ông White đã qua đời. Chỉ cần sớm hơn nửa giờ là đã có thể cứu sống ông ấy. Nhưng ngay cả như vậy thì ông ấy cũng phải sống chung với những di chứng nghiêm trọng.“

Henry đi ra khỏi phòng khách, hai tay ôm đầu. Victor đi theo cậu ta.

Một khoảng lặng bao trùm. Drew đã dập điếu thuốc và đang chầm chậm siết chặt hai tay.

“Những gì đã xảy ra với bạn của cậu thật khủng khiếp,” Drew nói với tôi, rõ ràng là đang quẫn trí. “Thế mà tôi đã kết tội cậu ta dựng lên một vụ mưu hại quỷ quyệt với chính cha mình, người cha mà cậu ta vừa mới mất. Thật nực cuời khi tôi đã tìm kiếm sự tương đồng giữa cậu ta và Houdini, hay cố nghiên cứu tính cách và tâm lí rồi đưa ra những kết luận hoang đường. Tôi phải thú nhận với cậu, chàng trai, hiện tại tôi không tự hào về bản thân chút nào.”

Chắc hẳn Drew đã bị chấn động rất lớn, vì ông ta vốn không phải loại người dễ dàng thú nhận một việc như vậy với bất cứ ai. Tôi thấy cảm thông.

“Bác sĩ vừa nói chuyện với tôi,” ông tiếp tục, "đã xác nhận thời điểm nổ súng sớm nhất là 9 giờ 45 phút tối, và muộn nhất là 10 giờ 30 phút tối. Viên đạn găm vào hộp sọ ngay phía sau tai trái và lập tức gây thương tổn nghiêm trọng tới vùng đó. Nếu chúng ta được cảnh báo sớm hơn thì đã có cơ hội cứu sống ông ấy. Rồi cả đống tuyết khốn kiếp đó cũng đã trì hoãn đáng kể việc di chuyển tới bệnh viện. Dù sao…,” vẻ đau buồn chậm rãi biến mất khỏi khuôn mặt của ông, thay vào đó là nụ cười khinh khi chế nhạo. “Tên sát nhân vẫn còn nhởn nhơ ngoài kia, nhưng không lâu nữa đâu.”

Ông ta nhấc điện thoại lên, quay số, đồng thời chúc tôi ngủ ngon và tôi tự hiểu rằng mình đang được yêu cầu ra về. Tôi rời khỏi phòng khách, nhưng ở bên kia cánh cửa vừa đóng lại, tôi có thể nghe thấy, “Lưu ý cảnh giác với Alice và Patrick Latimer… Tóc vàng. Nổi bật. Tầm bốn mươi.”