← Quay lại trang sách

Chương 6 Vậy thì… là ai?

Cha mẹ đã được Victor báo tin, và đang đợi tôi về. Cả hai đều choáng váng trước sự việc và chỉ hỏi tôi vài câu. Tôi lên phòng, tìm nơi trú ẩn dưới chăn đệm. Tôi không ngủ được, cũng không cách nào cảm thấy thanh thản, cứ miên man nghĩ về mức độ kinh khủng và vô lí của những sự việc gần đây.

Đầu tiên, ai đó đã sát hại Bob Farr, và giờ là Arthur White. Chẳng có điểm chung nào giữa hai người đàn ông này, và không có mối liên hệ nào ngoại trừ Henry. Henry được kế thừa một gia tài không nhỏ sau cái chết của cha mình. Nhưng cậu ta không thể là người giết cộng sự hay cha đẻ. Lúc Bob Farr bị sát hại thì Henry đang ở Mỹ. Arthur White bị giết vào khoảng 10 giờ tối khi Henry đang ở cùng John và tôi nên điều đó là bất khả về mặt khoa học. John ra về lúc 10 giờ 15 phút… John? Không thể nào, không phải John. Hơn nữa, cậu ta không có động cơ nào cả trừ vài chuyện ghen tuông với Henry từ ngày xưa. Căn cứ vào việc tất cả những vụ sát hại này đều chĩa mũi dùi về phía Henry, tôi bắt đầu tự hỏi phải chăng chúng tôi không hề nhận ra có một bộ óc tội phạm nào đó đang thao túng một âm mưu đen tối với mục đích đưa Henry tới đoạn đầu đài.

Hãy xem xem ai là người không có bằng chứng ngoại phạm cho cả hai vụ sát hại. John? Elizabeth? Không có lí do gì lại loại trừ em khỏi danh sách những người tình nghi. Patrick? Patrick - người giờ đã biến mất. Tất nhiên, việc rời đi đột ngột của vợ chồng Latimer, đặc biệt vào lúc nửa đêm, ít nhiều cũng rất kì quái. Thêm nữa, Drew rõ ràng đã đặt họ vào diện tình nghi khi phát lệnh truy nã ngay lúc 3 giờ rưỡi sáng. Nhưng kẻ chủ mưu thường có tòng phạm. Chính vì thế, không thể loại trừ Henry, Alice hay Victor. Than ôi, tất cả những điều đó cũng không thể làm sáng tỏ cách thức thực hiện hai vụ sát hại này, khi tên giết người ma quỷ dường như sở hữu năng lực đi xuyên qua tường và bay giữa không trung. Toàn bộ câu chuyện đều vô lí, thậm vô lí. Hơn nữa nó bắt đầu từ đâu? Vụ tự sát kì lạ của bà Darnley? Những tiếng bước chân bí ẩn? Hay thông điệp bà Darnley gửi tới Alice khi cô ta ở trạng thái nhập định?

Còn một vấn đề nữa vẫn chưa được giải thích: không ai nghe thấy tiếng súng bắn chết Arthur. Victor luôn ngủ rất say, nhưng những người còn lại - Henry, John và tôi - đáng ra phải nghe thấy gì đó. Đúng là chúng tôi đã uống hơi quá đà, nhưng không đến nỗi ù hết cả tai.

Tất cả những câu hỏi không lời đáp nhảy múa hỗn loạn trong bộ não đáng thương của tôi. Nỗ lực sắp xếp suy nghĩ cho có trật tự đều tỏ ra vô ích và logic nhường chỗ cho những điều phi lí. Dần dần từng chút một, giấc ngủ chiếm lấy tôi.

… Đoàn rước tang chậm rãi tiến vào nghĩa trang… Tiếng chuông nhà thờ ngân vang từng hồi đơn điệu và tang tóc… Bốn người đàn ông mặc tuyền một màu đen với khuôn mặt xám tro đang khiêng một chiếc quan tài. Đằng sau họ là những người đàn ông và đàn bà đi đưa tang. Tôi nhận ra Henry, Victor, John, Elizabeth, Patrick, Alice và tôi… Lũ quạ từ những cánh đồng gần đó bay vòng vòng phía trên đoàn người sầu thảm. Đột nhiên, chẳng vì cớ gì chúng bỗng hoảng loạn: đập cánh chao đảo, kêu lên the thé rồi điên cuồng bỏ trốn. Một bóng đen tăm tối và quái ác hiện ra từ những đám mây. Chim săn mồi? Bóng ma?… Một phụ nữ quần áo tả tơi không ra hình dạng, mắt bà ta hừng hực nỗi căm ghét, bay liệng trong chốc lát trước khi sà xuống đám rước sầu não, một cánh tay duỗi ra và một ngón tay chỉ thẳng vào ai đó trong đoàn người đưa tang kết tội…

Ngày hôm sau, cha đánh thức tôi ngay trước buổi trưa, báo rằng bạn tôi tới thăm. Tôi tắm qua loa hòng xua đi phần nào ảnh hưởng của cồn và cơn mơ tồi tệ đêm trước, nhưng rồi lại đối mặt với một hiện thực cũng chẳng đỡ đáng sợ hơn là bao. Tôi bước vào phòng khách.

Henry ngồi đó, thu lu trong ghế bành. Cậu ta đứng dậy và lại gần tôi. Chúng tôi bắt tay nhau trong yên lặng. Với khuôn mặt tái nhợt và quần áo tối màu, trông cậu ta có vẻ thanh thản. Không còn là cậu bé khóc lóc hàng tuần trời không dứt vì cái chết của mẹ, giờ cậu đã là một người đàn ông điềm tĩnh trước nỗi đau, can đảm đối mặt với thử thách.

Giờ đây tôi là tất cả những gì còn lại với cậu. Tôi, người bạn lâu năm, gần như một người anh em của cậu. Chúng tôi lớn lên bên nhau trong suốt những năm tháng đầu đời, ngồi sát cạnh nhau trong lớp học, chia sẻ với nhau những trò chơi, những trò nghịch ngợm và cả đồ ăn. Tôi là cả gia đình của cậu ấy. Nụ cười tin tưởng và trìu mến của cậu khiến tôi không hề nghi ngờ điều đó.

Cha hắng giọng đế che giấu sự ngượng ngùng và tuyên bố.

“Henry sẽ ở với chúng ta vài hôm, James. Cậu ấy sẽ ở phòng cũ của Elizabeth. Có vài thùng quần áo cũ của em con đang chiếm chỗ một cách vô lí trong đó và giờ cần phải mang chúng lên gác xép. Cha đã từ bỏ việc bảo con bé đến lấy.”

Tôi vui vẻ đồng ý. Để tránh thể hiện nỗi xúc động, cha hỏi bằng giọng vui đùa.

“Uống chút brandy nhé, các cậu ấm? Không ai xung phong sao? Tôi sẽ coi im lặng là đồng ý.”

Ông mở quầy rượu. Một khoảng lặng bao trùm, rồi cuối cùng cha tôi gắt lên.

“Trời ơi! Hết sạch brandy rồi. Chúng ta đành phải uống tạm… Ôi chúa ơi! Whisky cũng không còn một giọt nào.”

Henry nhìn tôi với một nét cười nhợt nhạt. Cậu ta mở miệng định nói nhưng tôi ra dấu im lặng.

Cha tiếp tục.

“Viện cớ rằng tình trạng sức khỏe của tôi không tốt, mà điều này hoàn toàn là do bà ấy tưởng tượng ra, người vợ thân yêu của tôi đã có lần cất đi mấy chai trong quầy rượu, nhưng giờ thì có vẻ như bà ấy đã đổ sạch rượu trong chai và điều đó thật không thể tha thứ được. Một sự lộng hành trắng trợn. Tôi cần nói chuyện phải trái với kẻ lộng quyền này ngay lập tức. Đúng là quá quắt.”

Nói rồi, cha rời khỏi phòng với điệu bộ trang nghiêm nhất có thể.

“Cứ ngồi yên,” tôi nói thầm với Henry.

Tôi chạy lên phòng mình, vớ lấy chai whisky để dành và lao trở về phòng khách.

“James!” Henry kêu lên. “Cậu không định…”

“Đúng,” tôi trả lời, lại gần quầy rượu.

Tôi lấy chai whisky vừa đem xuống đổ sang hai chai chúng tôi uống cạn ngày hôm qua và kịp thời ngồi xuống cạnh Henry với cái chai rỗng giấu sau lưng.

Cùng lúc đó, cửa mở ra và chúng tôi thấy cha đang nắm chặt cánh tay mẹ. Bà đi theo, lộ rõ vẻ hoang mang. Cha mở cánh tủ quầy rượu, ánh mắt sắc lẻm khiến mẹ tôi nín lặng, rồi lớn tiếng hỏi.

“Ai đã đổ hết brandy và whisky của tôi?”

Mẹ, hoàn toàn không hiểu, ngơ ngác liếc nhìn tủ rượu rồi trân trối nhìn chồng với một nỗi băn khoăn càng lúc càng lớn dần.

“Edward,” bà ngập ngừng nói. “Tốt hơn hết là ông nên đi khám bác sĩ nhãn khoa đi.”

Tôi nhìn Henry qua khóe mắt và có thể thấy cậu đang cố nén để không cười phá lên. Mũi tên đã đi trúng đích.

“Bác sĩ nhãn khoa?” cha trả lời, lặng người đi. “Tôi, người thuần một dòng máu nhà Steven lại phải đi gặp bác sĩ nhãn khoa sao? Xin hãy nhớ rằng không có thành viên nào trong gia đình tôi phải đeo dù chỉ là một cái mắt kính. Ngay cả người ông thọ 98 tuổi của tôi cũng chưa bao giờ phải đeo kính trong đời… Nhưng sao lại là bác sĩ nhãn khoa, em yêu? Có phải em đang ám chỉ thị lực của anh thỉnh thoảng có dấu hiệu suy giảm?”

Không nói một lời, mẹ tôi lôi hai cái chai bị đổ ra và đặt chúng ngay trước mặt cha tôi. Cha cầm lấy chúng, giơ lên để xem xét, rồi ông cứng người, hoài nghi và lúng túng.

Mẹ quay gót và nói với chúng tôi.

“Bữa ăn đã sẵn sàng. Mình vào bàn đi.”

Lúc rời khỏi phòng, bà một lần nữa nhìn xoáy vào ông chồng vẫn đang không thể rời mắt khỏi hai cái chai.

Suốt bữa ăn, dù cha đã vài lần cố gắng đưa ra những chủ đề trò chuyện khác nhau cho sôi nổi, Henry vẫn nín thinh. Tuy vậy, đến khi cà phê được dọn ra thì người bạn của tôi cũng chịu mở lời, lúc cha kể một người chú của ông có quen biết Houdini.

“Chú của bác biết Houdini?” Henry kinh ngạc nhắc lại. Cha thỏa mãn rít một hơi xì gà thật dài, rồi trầm ngâm lặng ngắm làn khói cuộn lên.

“Richard là một nhà báo,” ông nói sau khi ngừng một lát “ông ấy di cư sang Mỹ và làm việc cho một tờ nhật báo Chicago. Bác không nhớ tờ nào, đã quá lâu rồi.

“Houdini biểu diễn một màn giải thoát giật gân, Richard có mặt để đưa tin và hai người đã trở thành bạn.”

Ngạc nhiên quá đỗi, mẹ và tôi nhìn cha chăm chăm. Không ai trong chúng tôi từng nghe về ông chú Richard, và cả hai chúng tôi đều nghi ngờ cha đang bịa ra một câu chuyện chỉ với mục đích làm cho Henry vui lên.

“Khi chú Richard của bác trở về Anh,” cha tiếp tục, hài lòng ra mặt trước ảnh hưởng của mình tới Henry, “ông ấy thường kể với bác về Houdini. Houdini Nhà kì tài. Houdini Vua thoát hiểm. Một người đàn ông phi thường!”

Henry nuốt từng lời từng chữ.

“Thêm nữa,” cha tiếp tục với một nụ cười mơ màng, “người đàn ông đó không phải không hài hước đâu nhé. Mỗi lần chú Richard kể với bác một câu chuyện bất kì, ông đều tự cười ngặt nghẽo. Nhân dịp được mời đến một câu lạc bộ biểu diễn chó, Houdini đã đề nghị Richard đi cùng. Tới nơi, họ được chào đón bởi một nhóm những quý bà trung tuổi, hết sức hãnh diện với những chú khuyển cưng bé nhỏ của mình.”

Lúc này tôi đã biết chắc cha đang bịa đặt toàn bộ câu chuyện, loại truyện kiểu này đúng là phong cách của ông.

“Đến cuối buổi, họ chiếu một bộ phim… Chủ đề không mấy quan trọng. Lũ chó được nhốt trong một căn phòng chuẩn bị từ trước, mỗi con một lồng. Phim vừa bắt đầu thì chúng tôi nghe thấy một tiếng kêu thảm não, nhưng chẳng hề liên quan đến chó. Trên thực tế, đó là tiếng meo meo. Tôi sẽ miễn cho cậu phải nghe mô tả những quý bà lịch lãm với đám mũ có phần lỗi mốt và trang sức diện đầy người đã điên cuồng khôn xiết lao ra nghẽn cả cửa như thế nào. Cứ như một cái chuồng gà bị thả một con cáo vào ấy!”

Mẹ tôi, không thể nghe lọt những lời thêu dệt của cha thêm nữa, bật dậy khỏi ghế.

“Em có thể mang cho anh chai cognac không, em yêu?” Cha dịu dàng hỏi. Quay lại với Henry và tôi, ông nói tiếp, “Cháu có thể tưởng tượng được không, họ sững sờ đến thế nào khi phát hiện ra trong mỗi chiếc lồng, khuyển cưng đã biến mất và được thay bằng một con mèo! Nhiều người còn bị ngất, đến nỗi phải gọi xe cấp cứu.

“Richard chưa bao giờ nghĩ ra Houdini thực hiện cú đánh tráo ngoạn mục này bằng cách nào, vì hai người đã ở cạnh nhau cả buổi tối.”

“Chắc hẳn ông ta phải có cộng sự,” Henry bày tỏ.

“Cộng sự,” cha chậm rãi nhắc lại. “Khoảng bốn mươi con chó bị thay thế bằng số mèo tương đương trong vòng chưa đầy mười phút. Bác không biết cháu có nhận ra…”

Mẹ xuất hiện trở lại và đặt lên bàn ba chiếc ly cùng chai cognac vừa nhắc bên trên.

Cha rót cho chúng tôi, rồi tiếp tục câu chuyện cổ tích của ông.

“Bác vẫn chưa kể xong. Còn một chút nữa…” ông giơ ly lên và nhấp môi. “Một điều kì diệu khác đã xảy ra: lũ chó lại xuất hiện trong lồng và bọn mèo thì biến mất! Không thế tin nổi nhưng lại là sự thật. Houdini một lần nữa lại đánh tráo thành công.”

Cha ngừng lại, nhíu mày. Sau đó cầm ly lên và dốc một hơi cạn sạch. Trong khoảnh khắc, tôi tưởng như mắt ông sắp lồi ra.

“Em yêu,” ông lắp bắp. “Anh nghĩ em nói đúng. Hãy gọi bác sĩ đi. Sự minh mẫn đang rời bỏ anh. Vừa rồi thì thị lực giảm sút, và giờ anh không phân biệt nổi brandy với whisky nữa.”

Chiều hôm đó, Henry và tôi đi dạo trên cánh đồng hoang. Chúng tôi thư thả tản bộ qua dải tuyết lấp lánh đang trải ra mênh mông bất tận. Mặc dù tắm mình dưới ánh nắng ấm áp, tôi vẫn cảm thấy gió lạnh vờn ngang mặt.

“James,” Henry mở lời sau một hồi dài im lặng. “Cậu không nên lừa cha như vậy, nhất là khi chính chúng ta đã uống hết số cognac của ông ấy.”

“Cha đáng bị thế mà.”

Henry cười.

“Có thể dùng mẹo tráo đổi cognac thành whisky, nhưng tôi chắc là tráo chó thành mèo thì chưa từng xảy ra, ngoại trừ trong trí tưởng tượng phong phú của cha cậu nhỉ.”

“Cha là thế mà,” tôi trả lời. “Có thể cha đã từng gặp một nhà báo quen biết Houdini, nhưng chỉ thể thôi. Tôi chưa bao giờ nghe nhắc đến chú Richard nào cả.”

Từ lời nhận xét của Henry, tôi nhận ra cố gắng của cha đã có kết quả. Ông đã khiến Henry tạm quên đi phần nào những sự việc tồi tệ vừa qua, và thế là đủ.

“Houdini!” Henry mơ màng thì thầm, rồi trở nên nồng nhiệt hơn. “Đúng là một cá nhân kiệt xuất. Quả là một hiện tượng sáng chói. Cậu biết không James, tôi đã đọc cuốn sách mà ông thanh tra cho chúng ta xem đêm nọ. Tôi đọc đi đọc lại.”

“Thực ra, cậu có thù ghét ông ta vì đã cáo buộc cho cậu rất nhiều tội danh kinh khủng vào cái đêm đáng nhớ ấy không?”

“Không,” Henry trả lời dứt khoát. “Ông ta chỉ làm chức trách của mình thôi. Hơn nữa, ông ta rất thông minh, cực kì thông minh. Giả thuyết ông ta đưa ra cho vấn đề căn phòng lớn xuất sắc đấy. Dĩ nhiên ông ta không nắm được toàn bộ sự việc nhưng xét ở một góc độ nhất định, ông ta đã ở rất gần sự thật.”

“Henry!” Tôi kêu lên kinh hãi. “Đừng nói là cậu thừa nhận chính mình là thủ phạm đấy chứ.”

“Không, đương nhiên là không. Nhưng tôi biết cách thức hung thủ ra tay, nhờ có cậu.”

“Nhờ có tôi?”

“Nhờ có lời khai của cậu. Cậu còn nhớ cảm giác kì quái cậu cảm nhận được vào lần thứ hai cậu đi lên căn phòng áp mái không?”

“Một cảm giác kì quái. Có, tôi nhớ rất rõ nhưng vẫn không xác định được.”

“Đôi mắt cậu rõ ràng đã nhìn thấy điều đó… nhưng bộ não của cậu bác bỏ thông tin ấy.”

Tôi tự thấy khâm phục mình.

“Henry, cậu không nghĩ đã đến lúc vạch mặt con quái vật đã sát hại cha cậu sao? Sự im lặng của cậu thực ra cũng có thể coi là một tội ác, và có khả năng cậu đang kéo dài chuỗi tội ác rùng rợn này.”

Henry dừng lại và chăm chăm nhìn tôi.

“Tôi tin rằng cậu hẳn phải nhận ra kẻ sát nhân là một trong số những người bạn ít ỏi của chúng ta chứ?”

Một cơn ớn lạnh chạy dọc sống lưng tôi. Trong tâm trí, tôi có thể thấy một loạt khuôn mặt lướt qua: John, Elizabeth, Victor, Alice, Patrick. Một trong số đó là hung thủ. Không, không thể là John, Elizabeth hay Victor. Nếu không phải là họ, vậy thì là vợ chồng Latimer chăng?

“Henry,” tôi trả lời sau khi im lặng rất lâu. “Drew nghi ngờ vợ chồng Latimer đã giết cha cậu.”

Phản ứng duy nhất của bạn tôi là lắc đầu sang hai bên và thốt ra một tiếng thở dài thườn thượt.

Chúng tôi không nói gì mấy trên đường về, nhưng Henry có nói với tôi về tỷ lệ.

“Tỷ lệ?” tôi ngạc nhiên kêu lên. “Tỷ lệ gì cơ?”

“Đây,” cậu ta trả lời, một tia sáng lóe lên trong mắt. “Tỷ lệ, cái cảm giác kì lạ mà cậu nói với tôi, nó chính là: tỷ… lệ.”

Những bánh răng trong não tôi kẹt lại. Tôi không để suy nghĩ trôi theo những lời vô nghĩa của cậu ta nữa. Cùng lúc đó, trái tim tôi chắc hẳn cũng đã ngừng vận hành cảm xúc, vì tôi không còn một chút thương xót nào với người bạn này nữa. Thay vào đó, tôi sẽ rất vui vẻ nếu được siết cổ cậu ta.

Suốt cả buổi chiều, cảnh sát bận rộn khắp trong và ngoài nhà Darnley. Drew lo lắng ra mặt, liên tục phân công bọn họ kiểm tra từng li từng tí một hết lần này đến lần khác.

Tôi nghe thấy một viên cảnh sát chửi thề trong khi cùng đồng đội lùng sục sau nhà. Drew thì sỉ vả, “Các anh không đứng thẳng lên được à? Ai cử đám nông dân này đến không biết?”

“Xin lỗi sếp, chân tôi mắc vào cái gì ấy. Tuyết rơi nên chẳng nhìn rõ gì cả. Trông cái này có vẻ giống cái lò xo.”

“Tôi biết làm gì với cái lò xo đó? Nhưng anh nên có một cái như thế trong người đi.”

“Ông thanh tra đáng mến của chúng ta vẫn chưa đánh mất chút lịch thiệp nào,” Henry cười châm chọc.

Victor đang mời những viên thám tử sắp chết rét uống trà nóng. Drew nhận lấy “lòng tốt hiếm có” đó, cảm kích khi có cơ hội làm ấm người trong khi vẫn luôn miệng nhiếc móc về việc uổng phí thời gian.

Rồi mọi thứ cũng lặng đi, ít nhất là trong chốc lát.

Bữa khuya diễn ra tĩnh mịch kì lạ. Tôi thấy khó chịu vì Henry không nói cho tôi biết lời giải của vụ án bí ẩn này, trong khi cậu ta đã thừa nhận là mình biết. Tôi chưa từng nghĩ toàn bộ câu chuyện quái đản này lại đi đến hồi kết vào buổi tối giữa tháng Mười hai ảm đạm ấy, và bằng một cách tồi tệ đến mức tôi sẵn sàng đánh đổi mọi thứ để không phải trải qua. Bấy giờ tôi ngồi nơi bàn ăn, mắt nhìn xuống đĩa, trong óc âm vang từ ‘tỷ lệ’. Cha mất đi sự tự tin, trông già yếu hắn với đôi mắt cụp xuống và miệng chậm chạp nhai từng miếng một. Cảm thấy áy náy, tôi giải thích với ông tại sao mà brandy lại biến mất trước khi biến thành whisky. Không nói một lời, ông bật ngồi thẳng dậy và nhìn tôi với ánh mất sắc lẹm. Henry kìm lại được, nhưng mẹ thì phá lên cười lớn. Nếu có thứ gì đó khiến cha không thể chịu đựng được, thì chính là bị vợ cười nhạo.

“Việc đó không hay chút nào đâu,” ông nghiêm khắc nói. Sau đó ông ngẩng cao đầu đứng dậy và rời khỏi bếp. “Chúng ta sẽ phải gánh chịu cơn giận dữ cả tuần đấy,” mẹ nói sau tràng cười, dần nhận ra sự đùa cợt của mình không được hay cho lắm, nhất là sau biến cố xảy ra tối hôm trước đó.

“Xin lỗi, Henry, nhưng bác không thể nhịn cười được.” “Bác Steven,” Henry thở dài. “Cháu vẫn chưa cảm ơn tấm thịnh tình của các bác. Kể từ khi mẹ cháu mất…” Giọng cậu nghẹn lại, và nét mặt tối đi.

Đúng lúc ấy, điện thoại réo lên inh tai. Một lát sau, cửa phòng ăn hé mở kèm theo một tiếng càu nhàu. “Gặp con đó, James.”

Tôi đi ra sảnh, còn kịp thấy cánh cửa phòng khách sập lại. Cha tức giận hơn tôi tưởng rất nhiều.

Ống nghe nằm trên bàn điện thoại. Tôi cầm lên. “Gì thế, Elizabeth?”

Một giọng nói, hiển nhiên không phải của em gái tôi, lạnh lùng trả lời.

“Tôi, Drew đây.”

“À, ông thanh tra. Có chuyện gì…”

“Cậu có thể qua đây không, chàng trai, cậu và bạn của cậu?”

“Đương nhiên rồi. Ở đâu ạ?”

“Nhà bên. Nhà Darnley. Em gái và em rể cậu đang ở đây rồi.”

“Được thôi, nhưng có chuyện gì thế ạ?”

“Tôi có lí do nghiêm túc để tin rằng… nhưng hãy đợi đến lúc các cậu có mặt đã.”

“Tốt thôi, chúng tôi sẽ qua ngay.”

“Một lời khuyên cho cậu. Hãy đề phòng! Dù đã nhận biết được thủ phạm, nhưng hắn vẫn đang tự do, nên hãy cẩn thận.”

“Vâng,” tôi trả lời, giật thót trước khuôn mặt phờ phạc của mình phản chiếu qua tấm gương ở sảnh.

Năm phút sau, Henry và tôi đã trên đường tới nhà Victor. Đêm xuống từ lâu rồi. Tuyết rơi thành những bông lớn làm ánh đèn đường ở góc phố mờ hẳn đi.

Nhà Darnley đã lù lù hiện ra trước mặt chúng tôi. Đầu hồi phủ tuyết nhô cao trong bóng tối.

Tôi run rẩy đẩy mở cánh cổng trước, cùng Henry bước dọc lối đi dẫn đến bậc tam cấp trước nhà.

Victor mở cửa cho chúng tôi.

“Vào nhà đi, đưa áo khoác bác treo cho. Những người khác đang ở trong phòng khách, phòng ở tầng trên ấy.”

Chúng tôi đi vào sảnh chính. Tay cầm áo khoác của chúng tôi, Victor đăm đăm nhìn Henry với đôi mắt xanh chan chứa nỗi buồn.

Henry cụp mắt xuống và hít sâu, “Mọi việc đều ổn, bác Darnley. Ít nhiều là vậy.”

Bạn tôi đi lên cầu thang, tôi theo sau. Ngọn lửa cháy đượm nổ lách tách trong lò sưởi đang tỏa hơi ấm dễ chịu ra khắp phòng khách. Toàn cảnh căn phòng khiến tôi ngạc nhiên đến mức sửng sốt. Thật bệnh hoạn! Alice kiếm đâu ra thứ giấy dán tường đang phủ khắp tường và trần thế kia? Trông không khác gì lớp vải lụa đen và ánh bạc lót bên trong những chiếc áo choàng cao cấp. Từ cửa trông thẳng vào là một chiếc trường kỉ lớn với kích thước ấn tượng và vải bọc bằng nhung đỏ chói lọi. Phía bên phải lò sưởi kê một chiếc ghế bành có cùng màu chóe y hệt. Bức tường đằng xa trước đây rõ ràng có hai cửa sổ, giờ chỉ còn độc một chiếc, cửa sổ bên phải đã bị che khuất. Mé trái cửa đặt một cái rương nhỏ, trên nắp rương là một quyển sách ma thuật có móc cài bằng bạc. Cạnh đó là chiếc bàn một chân trụ phủ khăn nhung đen viền bạc, bên trên hiển nhiên bày một quả cầu pha lê sáng bóng. Vài chiếc ghế bọc đệm quây quanh bàn. Những bức màn nhung đen nặng nề được cố định bằng dây tơ có núm tua bằng bạc. Với tập hợp đủ loại đồ cổ kì lạ, căn phòng trông chẳng khác gì một nhà tang lễ.

Căn phòng được chiếu sáng bằng bóng đèn tròn trắng đục gắn trên trần nhà và những cây đèn tường hình đuốc. Toàn bộ nguồn sáng mờ ảo tạo nên một bầu không khí dị thường mà mức độ kì quái còn được tô đậm thêm nhờ tấm thảm đỏ như máu trải khắp sàn nhà.

Tệ hơn nữa, phía trên trường kỉ là một bức tranh lớn che phủ chỗ từng là cửa sổ - chắc hẳn là tác phẩm của Patrick. Trên nền xanh thẫm, một nét bút điên cuồng quét ra từng mảng đen lớn và bôi thêm một vầng trăng quái ác, những hình bóng mơ hồ trôi lơ lửng trên thinh không, những chiếc mặt nạ bí hiểm cùng những bàn tay đang cầu khẩn. Một tuyệt tác phản thẩm mỹ.

Tôi suýt nữa thì quên mất hai trụ đá cẩm thạch giả bên cạnh chiếc bàn một chân trụ.

Làm sao những người có lí trí lại để bản thân đắm chìm vào khung cảnh kì dị như thế này? Victor tội nghiệp với tâm trí có phần rối loạn thì tôi còn phần nào hiểu được, chứ bác Arthur…

Elizabeth ngồi rúc vào chồng trên trường kỉ ở cuối phòng, nơi gần lò sưởi nhất. Drew, đã thành thông lệ, đứng quay lưng về phía ngọn lửa, hai khuỷu tay đặt trên bệ lò sưởi, vẫn ngậm một điếu thuốc trên môi ngay cả lúc nói.

“Cuối cùng cậu cũng đã tới. Có vẻ như cậu ngạc nhiên trước quang cảnh nơi này, cậu Steven?”

“Thực vậy,” tôi thừa nhận.

Drew quay sang Victor, bấy giờ đã theo chúng tôi trở vào phòng.

“Đây chính là nơi diễn ra những buổi gọi hồn của các vị?”

“Đừng lấy những thứ ông không hiểu ra làm trò cười,

“Phải,” Drew tự tin trả lời. “Bọn họ đã giết bạn và cha cậu. Việc bỏ trốn chính là lời nhận tội của họ.”

“Nhưng tại sao?” tôi xen vào. “Và như thế nào?”

Một nụ cười chế nhạo nở trên đôi môi mỏng của Drew

“Tại sao? Không khó để tưởng tượng ra rằng có nạn nhân đã phát hiện ra mưu đồ của chúng. Làm thế nào thì tôi vẫn chưa biết chính xác. Nhưng bọn chúng sẽ phải thú nhận một khi chúng tôi tóm được, chắc chắn là như thế.

“Tuy nhiên tôi sẽ chia sẻ với các vị suy nghĩ của tôi về vụ sát hại ông White. Đây là những gì chúng ta biết. Vụ án diễn ra vào khoảng 10 giờ tối. Tuyết ngừng rơi tầm 9 giờ. Không có dấu chân trên tuyết quanh ngôi nhà - đương nhiên ngoại trừ dấu chân của những người phát hiện ra nạn nhân - và tên sát nhân đã biến mất khi cảnh sát đến nơi. Kết luận từ những sự kiện vừa rồi: dù có vẻ rất vô lí, nhưng tên sát nhân đã trốn thoát khỏi ngôi nhà.

“Tôi phải nhắc các vị nhớ rằng cánh cửa sau dẫn ra vườn để mở. Cách cánh cửa khoảng gần năm mét có một cái cây ăn quả. Xa hơn một quãng là một cây nữa. Rồi một cây nữa. Cứ như thế.. Một hệ thống dây thừng được bố trí sẵn nối cánh cửa với một cái cây, từ cây này sang cây khác, cứ thế, sẽ giúp tên sát nhân rời đi không để lại một dấu vết nào trên tuyết. Và vài nút thắt đặc biệt sẽ giúp hắn ta tháo đi sợi thừng không chút vết tích.”

“Rất tài tình,” Henry nói với một nụ cười xảo quyệt “Nhưng chắc chắn khi sợi thừng bị tháo ra, chúng sẽ rơi xuống và để lại dấu vết trên tuyết chứ?”

“Tên giết người có thể đã dùng một cái gậy dài để giữ chúng,” Drew lầm bầm. “Tôi thực sự không biết, đó chỉ là một giả thuyết. Cậu là một diễn viên nhào lộn, phải không chàng trai, cậu nghĩ sao?”

“Thành thực mà nói, tôi không nghĩ vậy,” Henry trả lời. “ít nhất là không cần tới trang bị gì tinh vi. Và ngay cả thế thì mọi thứ cũng phải được bố trí sẵn mà không bị ai phát hiện. Cha và tôi đã ở nhà cả chiều hôm đó. Và một điều nữa: tên sát nhân không thể biết khi nào tuyết bắt đầu rơi hay khi nào thì ngừng. Hay thậm chí là tuyết có rơi hay không. Như vậy có hơi… à, từ tôi muốn nói là gì nhỉ, võ đoán.”

Tôi nghĩ hẳn là cậu nói đúng, chàng trai,” Drew buồn rầu thừa nhận.

Một khoảng lặng.

Không thể quả quyết rằng vợ chồng Latimer đã gây ra tội ác đó.

Bác White bị sát hại hẳn phải có lí do. Ông đã biết điều gì đó gây nguy hiểm cho bọn họ chăng? Nhưng tại sao họ lại giết một người hoàn toàn xa lạ như Bob Farr? Không, viên thanh tra đã sai, tên sát nhân phải ở trong chính căn phòng đó.

Elizabeth phá vỡ sự im lặng.

“John, tay anh lạnh quá.”

“Em nói gì cơ, em yêu?”

Drew chìm trong suy nghĩ và đi đi lại lại trước lò sưởi.

Ông ném mẩu thuốc lá vào ngọn lửa, rồi hắng to giọng nhằm gây chú ý.

“Giờ các vị đã biết kẻ phạm tội. Chúng ta biết bọn chúng đã cao chạy xa bay, nhưng giờ bọn chúng đang ở đâu, đó mới là vấn đề. Có lẽ bọn chúng vẫn đang lảng vảng quanh đây. Tôi tập hợp mọi người để cảnh báo rằng các vị đang gặp nguy hiểm vì nghi phạm của chúng ta đang sợ hãi và sắp bị dồn vào đường cùng. Bọn chúng sẽ không ngần ngại phạm thêm một tội ác nữa đâu. Vì vậy càng phải cẩn thận hơn bao giờ hết. Tuy nhiên chúng sắp bị bắt rồi,” ông bổ sung thêm với một tia hăm dọa trong mắt. “Để tôi tóm được thì bọn chúng sẽ phải trải qua nửa giờ không thoải mái chút nào đâu. Chúng sẽ phải may mắn lắm mới có thể sống sót ra ngoài.”

Đầu tiên ông phải tìm được bọn họ đã, tôi nghĩ. Giờ thì cái trường kỉ đã làm tôi thực sự khó chịu, đệm đã xẹp hoàn toàn.

“John, chắc anh đang lạnh lắm hả, tay anh cóng hết cả rồi.”

John bực mình nhảy dựng khỏi cái trường kỉ và đứng đối mặt với vợ.

“Làm sao em biết được tay anh có lạnh hay không?”

Không để ý tới John và Elizabeth, Drew nhắc lại.

“Cứ đợi đến khi tôi tóm được, bọn chúng sẽ phải may mắn lắm mới có thể sống sót mà ra ngoài,” và ngắm nghía nắm đấm siết chặt của mình với một nụ cười hăm dọa.

“Làm sao em biết?” John lặp lại, đặt cả hai tay dưới mũi em gái tôi.

Elizabeth ngồi im như tượng, mặt trắng bệch như tờ giấy. Em lẩm bẩm với giọng yếu ớt gần như không thể nghe thấy.

“…Tay… lạnh cóng…”

John đột ngột lùi lại, vẻ kinh hoàng hiện lên trong mắt.

Tôi cũng đứng bật dậy và tới gần em. Thật khủng khiếp! Elizabeth đang nắm một bàn tay lòi ra từ chiếc trường kỉ, nơi những cái đệm tiếp xúc với lưng ghế.

Em ngất đi. Tôi kéo em vào vòng tay mình để tránh xa cái trường kỉ. Drew ném bay ba cái đệm ngang qua phòng.

Tên sát nhân lại tiếp tục hành động. Thi thể của Alice và Patrick nằm trong phần đế của chiếc trường kỉ đã bị lột hết lò xo.

Tình huống lúc này đã thách thức mọi logic. Chúng tôi đang sống trong một cơn ác mộng. Đầu óc tôi quay cuồng. Tuy nhiên, dù có vẻ phi lí thế nào chăng nữa, tôi vẫn tuyệt đối tin chắc chắn rằng tên sát nhân đang ở trong căn phòng này. Phạm vi tình nghi rất nhỏ. Số nghi phạm có thể đếm trên năm đầu ngón tay: một, Henry; hai, Elizabeth; ba, John; bốn, Victor; năm… tại sao không phải là thanh tra Drew?