Phần Bốn - Chương 1 Lời Giải Đáp
Đầu óc tôi quay mòng mòng. John đỡ Elizabeth khỏi vòng tay tôi. Giọng Victor phá vỡ thinh lặng đang ngự trị trong căn phòng tang ma ấy.
“Đây là lời giải thích khả dĩ duy nhất. Patrick và Alice chưa bao giờ rời đi mà không nói lời từ biệt. Như chính ông đã nói, ông thanh tra, họ phải rất may mắn mới sống sót khỏi vụ việc lần này.”
Hoàn toàn mất phương hướng, Drew không đáp lại. Ông quỳ xuống xem xét thi thể. Một lúc sau, ông đứng dậy và châm một điếu thuốc với bàn tay run rẩy.
“Chắc hẳn họ đã phải chịu nhiều đau đớn trước khi chết,” ông ta nói với giọng run rẩy. “Có những vết khía kì lạ trên bụng của hai nạn nhân. Cả hai người đều bị đâm xuyên qua tim. Tôi đoán họ bị sát hại khoảng chừng bốn mươi tám tiếng trước, vào lúc nửa đêm, xét từ quần áo của họ.”
“Nhưng ô tô và hành lí của họ đã biến mất,” tôi kêu lên. “Ai có thể…”
“Tên giết người,” Drew chen vào. “Đó là điều đương nhiên. Sau khi giết bọn họ, hắn sắp xếp đồ đạc như thể họ đột ngột rời đi.”
“Lạy chúa tôi!” Victor rên rỉ. “Và mọi thứ diễn ra ngay trên đầu tôi, lúc tôi đang ngủ!”
Drew nhìn vào mắt ông.
“Tên sát nhân đã cực kì mạo hiểm. Phải có lí do cấp bách nào đó mới khiến cho hắn hành động như vậy. Nhưng cũng có điểm mâu thuẫn. Một tên sát nhân có đầy đủ lí do để hành động nhanh chóng - vì rất có thể ông Darnley sẽ tỉnh dậy bất cứ lúc nào và ngăn cản hắn - nhưng lại nán lại để hành hạ hai nạn nhân. Kì quái. Thật sự rất kì quái.”
“Đây là đâu? Ôi, John, anh yêu, đáng sợ quá, chúng ta đi thôi! Em không muốn ở thêm một giây nào trong ngôi nhà kinh khủng này nữa.”
John, vẫn đang ôm vợ mình trong tay, dỗ dành em.
“Em yêu, đừng nghĩ thêm nữa. Chúng ta về nhà thôi.” Cậu ta quay sang Drew. “Ông không phản đối chứ, thanh tra?”
Drew lắc đầu.
“Em thấy khá hơn rồi, anh cứ thả em xuống.”
John và Elizabeth hướng về phía cửa.
Nhìn con dâu lảo đảo bước đi, Victor ngập ngừng trong chốc lát rồi nói với Drew.
“Tôi sẽ đi với hai đứa nó. Tuyết thế này rất dễ trượt chân.”
“Được rồi, nhưng hãy cẩn thận.”
Khi bọn họ đã đi cả, thinh lặng một lần nữa bao trùm phòng khách.
Drew lắc đầu tỏ vẻ không tin nổi.
“Tôi không hiểu bất cứ cái gì nữa.”
“Thanh tra,” Henry nói. “Đừng để cái chết của vợ chồng Latimer làm mờ mắt. Vụ án này không nhất thiết phải liên quan đến những vụ trước.” Cậu ta chuyển sang đứng trước trường kỉ để quan sát thi thể. “Giả thuyết của ông đã chính xác, ông thanh tra ạ, vì hai người này…” cậu ta chỉ về phía vợ chồng Latimer, “… đúng là kẻ sát nhân mà ông đang tìm kiếm. Bọn sát nhân và những trò thần bí dối trá!”
Mắt Drew ngước lên lần nữa với ánh nhìn sẳc bén quen thuộc.
“Phải, chắc hẳn không ít người có mối hiềm thù với hai kẻ bịp bợm, và vụ án này không hề liên quan đến những vụ kia. Sao tôi lại không nghĩ đến điều đó từ trước nhỉ!”
“Giờ thì vợ chồng Latimer đã chết,” Henry tiếp tục. “Không còn lí do gì để tôi tiếp tục giữ im lặng nữa. Mọi người hãy ngồi xuống, vì sẽ mất chút thời gian đấy.”
Chúng tôi yên vị xung quanh chiếc bàn một chân trụ. Theo đề nghị của Henry, đèn trần và đèn tường được tắt đi. Ánh sáng mờ nhạt duy nhất đến từ ngọn lửa đang cháy bập bùng trong lò sưởi.
Henry vỗ nhẹ lên chiếc bàn nhỏ. Đột nhiên quả cầu pha lê vụt sáng. Rồi, từng chút một, mọi sự tồn tại bên ngoài nguồn sáng đơn nhất ấy biến mất, tạo nên một không khí dị thường và huyền ảo của riêng nó.
Drew mê hoặc nhìn không chớp mắt vào quả cầu phát sáng rực rỡ. Tôi cũng nhìn nó như bị thôi miên, thậm chí quên cả sự tồn tại của hai thi thể trong căn phòng.
Henry để chúng tôi làm quen với không khí kì dị này một lúc rồi mới bắt đầu nói.
“Phải, khéo léo thêm một hai trò tiểu xảo và người ta sẽ sẵn sàng chấp nhận sự tồn tại của những thế lực huyền bí. Mọi người đừng vì thế mà cảm thấy xấu hổ. Ngay cả những người nổi tiếng thông minh sáng suốt cũng đã bị lừa bịp tại chính cái bàn này, cha tôi là một trong số đó. Ông không chỉ bị lừa, mà còn tặng một số tiền đáng kể cho hai kẻ tự gọi là nhà ngoại cảm hiện đang nằm trên chiếc trường kỉ kia.
“Toàn bộ câu chuyện lạ thường này bắt đầu bằng vụ tự tử của bà Darnley. Đó thực sự là một vụ tự sát chứ không phải một vụ sát hại theo giả thuyết một số người đưa ra sau này. Victor đã biến thành con người khác, hồn xiêu phách lạc. Không lâu sau đó việc làm ăn của ông thất bại và ông buộc phải cho thuê một phần ngôi nhà. Rồi đến bí ẩn đầu tiên: những người thuê nhà nghe thấy tiếng bước chân trong đêm trên tầng áp mái, một số dân làng nhìn thấy ánh sáng phát ra từ căn phòng nơi Darnley tự tử. Lời giải thích không thể đơn giản hơn: không ai khác ngoài Victor, trong cơn tuyệt vọng, đã đi lên đó giữa đêm khuya với hi vọng tìm thầy người vợ quá cố.
“Một loạt những người thuê nhà về sau đều chuyến đi và ngôi nhà đã phải chịu điều tiếng không hay. Đó là ‘bị ma ám’. Tin đồn lan ra và đến tai vợ chồng Latimer. Alice và Patrick Latimer, hai kẻ mà giờ chúng ta đã biết là bọn giả thần giả quỷ.
Ngôi nhà ma ám, mọi người có tin được không? Đúng là vận may hiếm có, một môi trường lí tưởng để lừa người!
“Vì thế hai kẻ lừa đảo này chuyển đến. Hàng xóm của bọn chúng, cha tôi, lại là một nhà văn nổi tiếng vừa mất vợ. Chúng lập tức nhận ra có thể lợi dụng điểm này. Tức thì, gia đình tôi liền bị chúng chơi khăm một cú gọn gàng. Chúng tôi nghe thấy lời mẹ nói phát ra từ miệng Alice.”
“Vậy đó là giả?” tôi thốt lên.
“Đương nhiên. Trước hết, cậu phải hiểu rằng lấy một mảnh giấy ra khỏi chiếc phong bì niêm phong thực ra khá dễ. Cậu cần một chiếc nhíp mảnh dài để đưa vào khe ở nắp phong bì (chỗ không dán hồ). Khi chiếc nhíp kẹp được vào tờ giấy bên trong, cậu sẽ xoay sao cho tờ giấy cuộn tròn lại và có thể rút ra được. Để đặt mảnh giấy lại chỗ cũ, cậu chỉ cần đảo ngược lại quá trình đó. Thực hành thường xuyên, thậm chí có thể thực hiện thao tác đó cực kì nhanh chóng, ngay cả trong bóng tối. Cậu bắt đầu hiểu ra chưa, James?”
“Có, nhưng…”
“Trước khi Alice giả vờ ngất xỉu, Patrick đã làm chút tiếu xảo với cái đèn bàn gần cửa sổ phòng khách. Hắn ta đã đặt một thanh kim loại giữa đui và bóng đèn, khiến cho mỗi lần công tắc bật lên là cầu chì trong nhà lại chập.
“Alice hoàn thành vai diễn của cô ta. Patrick khoe khoang năng lực ngoại cảm của vợ hắn và đề nghị cha tôi thử một lần. Cha lưỡng lự - lúc đó ông còn hoài nghi về toàn bộ chủ đề năng lực thần bí này - nhưng ông vẫn đồng ý. Vì thế ông viết một câu hỏi gửí cho vợ và đặt mảnh giấy trong một phong bì được niêm kín rồi đặt trên bàn. Patrick đi tới cửa sổ - nói cách khác, là đến bên cạnh chiếc đèn đã được sắp đặt sẵn - và đợi một ánh chớp đế che giấu việc hắn làm chập cầu chì. Khi đèn tắt, hắn lấy mảnh giấy ra khỏi chiếc phong bì, đặt nó trở lại bàn và quay ra cửa sổ. Điện sáng trở lại.
“Tôi không biết cậu có còn nhớ không, James, nhưng khoảnh khắc đó Patrick có vẻ như đang kiểm tra giày của mình. Trên thực tế, hắn đang đọc nội dung viết trong tờ giấy mà hắn đặt trên tấm thảm đằng sau chiếc ghế bành. Vài giây sau, lợi dụng một ánh chớp khác, Patrick lại gạt công tắc đèn và bóng tối bao trùm lần thứ hai. Nhưng lần này hắn chỉ làm rất nhẹ nhàng, và cầu chì không hề nổ khi điện sáng.”
“Gượm đã, Henry, bọn tôi cũng không ngốc. Tôi nghĩ giờ tôi có thể tự kể tiếp câu chuyện. Patrick trả tờ giấy vào phong bì trước khi đèn sáng và đặt nó trên bàn. Một lần nữa điện sáng trở lại. Nhưng đợi đã. Phải, tôi nhớ rồi, Alice tỉnh dậy và Patrick thì thầm những lời ngọt ngào vô nghĩa vào tai cô ta. Hay đúng hơn, thì thầm những gì được viết trên mảnh giấy. Tiếp đó, vợ chồng Latimer làm đổ chiếc đèn khiến cho nó rơi xuống sàn vỡ tan. Chiếc đèn hỏng nên thanh kim loại sẽ không bị phát hiện. Và ngay trước khi rời đi, với khả năng căn giờ bậc thầy, Alice truyền lại lời đáp của mẹ cậu. Tôi phải công nhận rằng tất cả mọi thứ đều được thực hiện rất hoàn hảo.”
“Hoàn hảo đến nỗi cha tôi bắt đầu tin vào thế giới bên kia. Và đương nhiên, Victor đã là một tín đồ ngay từ ngày vợ ông mất.
“Vợ chồng Latimer khởi xướng mọi chuyện và từ thời điểm đó, cha đều đặn đến ‘thỉnh thị’ Alice tại đây, trong căn phòng này. Tôi sẽ không đi sâu vào những mánh khóe hoàn hảo bọn chúng dùng để lừa ông. Ông thường xuyên nói với tôi ông đã kết nối được với mẹ.”
Drew cười mỉa mai.
“Tôi tưởng tượng được ông ấy đã bù đắp cho cô Latimer cực kì hậu hĩnh.”
“Những khoản tiền khổng lồ, vượt xa mức ông tưởng tượng.”
“Nhưng Henry, cậu biết cha mình đã biến thành nạn nhân của bọn lừa đảo. Tại sao cậu không nói gì?”
“Cậu có nhớ những trận cãi vã ầm ĩ của chúng tôi không? Tôi đã dặn cha hãy cấn thận nhưng ông không muốn nghe tôi nói. Có vài cuộc tranh cãi rất kịch liệt.”
“Cậu dặn cha cẩn thận, tất cả chỉ có thế? Sao cậu không giải thích những mánh khóe ấy?”
Mặt Henry đỏ như tôm luộc.
“Tôi không thế, James, tôi không thể. Từ ngày chuyển đến, vợ chồng Latimer đã vô hiệu hóa tôi.”
“Vô hiệu hóa? Bằng cách nào?”
“Tôi đã yêu Alice đến phát điên. Chúng tôi trở thành tình nhân.
Không thể kháng cự được người đàn bà đó, James, gần như không thế. Tôi như bị cô ta bỏ bùa. Cô ta tự nhiên bị lóa mắt bởi những tiết mục ảo thuật của tôi. Thực ra, cô ta đã lập tức phát hiện tôi có thể phá hỏng kế hoạch của bọn họ. Cô ta rất tham vọng, cả tôi cũng vậy. Chúng tôi đã vạch ra những dự án phi thường. Tôi vẫn còn nhớ y nguyên lời cô ta nói: ‘Cùng nhau, chúng mình có thể chinh phục thế giới, điều đó thật tuyệt diệu, anh yêu của em. Nhưng trước hết em phải xây dựng thanh danh của riêng mình đã. Henry, tình yêu của em, anh phải giúp em. Không, không, anh không được để cha anh biết Patrick và em đang qua mắt ông ấy. Ông ấy có quan hệ xã giao với giới thượng lưu, ông ấy sẽ truyền bá thông tin tới những nhân vật quan trọng. Ý anh là gì, lừa tiền ông ấy? Anh không thấy ông ấy đã hạnh phúc thế nào kể từ lúc tin rằng mình có thể nói chuyện được với vợ sao? Tất cả số tiền ông ấy bỏ ra ư? Nhưng anh yêu, chúng ta sẽ cần đến từng đồng từng cắc trong số tiền ấy khi chúng ta bắt đầu gây dựng sự nghiệp của riêng mình. Có chứ, có chứ, anh yêu, em sẽ sớm ly hôn. Anh thừa biết Patrick chẳng còn ý nghĩa gì với em kể từ khi em gặp anh. Phải, sớm thôi anh yêu, nhanh thôi. Em thề đấy.’
“Tôi không biết phải làm gì, tiến thoái lưỡng nan. Một mặt, cha tôi đang chuyển những khoản tiền khổng lồ cho nhà Latimer. Sự nhẹ dạ của ông khiến tôi lo lắng, nhưng tôi không thể nói gì cả. Tôi đã cố nói lí với ông, nhưng ông đều nổi giận tới mức không kiểm soát được. Mặt khác, là Alice. Alice và những hứa hẹn của cô ta, cùng những lời lẽ kích thích tôi!
“Để câu khách, cô ta nghĩ ra ý tưởng phục dựng lại hồn ma đã ám căn phòng áp mái. Cố nhiên cô ta đã biết rằng vào thời điểm ấy, chính Victor là người đi lên đó vào buổi đêm. Đoán xem ai đã thế chỗ Victor? Mọi người đoán coi. Là Henry! Đương nhiên, tôi đã phản đối, nhưng không ai có thể từ chối Alice. Chỉ tại phương pháp của cô ta quá thuyết phục. Không cần thiết phải nói quá chi tiết với mọi người.”
“Như vậy chính là cậu!” Tôi kêu lên. “Cậu chính là người đi lại trên tầng áp mái mà John, Victor và cha cậu đã nghe thấy.”
“Phải,” Henry thì thào, úp mặt vào hai bàn tay.
“Nhưng chưa bao giờ có ai ở trên đó. John đã khẳng định chắc chắn.”
“Lần nào cũng vậy, vào phút cuối, tôi sẽ lẻn ra khỏi căn phòng ma ám và trèo lên cột nhà phía trên. Chỉ là trò trẻ con đối với tôi.”
“Nhưng cửa sổ luôn đóng trong khi John lục soát căn phòng.”
“Lần nào tôi cũng đóng cánh cửa chớp đằng sau lưng, và Alice sẽ kín đáo khóa cửa sổ lại trong khi mọi người khám xét căn phòng.”
“Rất tài tình,” tôi kêu lên, bực dọc vì đã không thể đoán ra.
“Việc tương tự diễn ra với những nhân chứng khác và đương nhiên là với cả những món lời mà nhà Latimer nhận được. Đối với Victor, vị khách lúc nửa đêm, không còn nghi ngờ gì nữa, chính là vợ ông. Nghĩ mà xem. Ông đã chờ đợi sự trở về của bà biết bao nhiêu năm nay.
“Tôi không thể tiếp tục lợi dụng sự khờ khạo của họ: Victor, và hơn hết, cha tôi. Tôi đã chạm đến giới hạn cùa mình.”
“Tôi nhớ rất rõ. Gần như không thể nói chuyện được với cậu vào thời điếm đó.”
“Sự bất đồng với cha tôi xảy ra mỗi lúc một thường xuyên hơn, Alice vẫn chưa muốn ly hôn và tiếp tục cầu xin tôi nhẫn nại.
“Ngày nọ, tôi đã đưa ra một quyết định. Hoặc Alice đi cùng với tôi, hoặc tôi sẽ nói cho tất cả biết rằng bọn chúng đưa họ vào tròng như thế nào. Tôi đến căn hộ của cô ta và đại loại đã dồn cô ta vào tường. Cô ta khóc lóc, cô ta van xin, cô ta cố gắng bằng mọi cách để thuyết phục tôi đổi ý nhưng tôi vẫn giữ vững lập trường. Sau đó tôi bị giáng một cú vào đầu. Khi tỉnh lại, tôi thấy mình bị bịt miệng, tay và chân bị trói vào chân giường. Patrick đang ngồi bên cạnh tôi, tay khua khua một con dao dài và cùn.
“Tôi đông cứng lại vì kinh hãi. Không chỉ vì cảnh tượng con dao của Patrick mà còn vì cái cách Patrick và Alice nhìn nhau. Trong chớp mắt tôi liền bừng tỉnh: Alice đã cám dỗ tôi để vô hiệu hóa tôi, với sự chúc phúc của Patrick. Tôi chỉ là quân cờ trong tay hai kẻ lừa đảo này, những kẻ ti tiện sẵn sàng làm mọi thứ để đạt được mục đích.
“Alice nhìn chồng cô ta đầy yêu thương. Tôi chẳng là gì đối với cô ta. Tôi vẫn nhớ rõ nụ cười của cô ta khi nói với Patrick: ’Giờ thì em sẽ để hai người lại với nhau.’ Sau đó Patrick cố mua chuộc sự im lặng ở tôi. Tôi từ chối. Hắn ta không cố nài, thay vào đó một tia nhìn đầy sát khí hiện lên trong mắt hắn; kẻ này sắp sửa giết tôi, tôi đã nhận ra điều đó ngay từ đầu. ‘Được lắm’ hắn nói. ‘Mày không cho tao lựa chọn nào cả.’ Nhưng sự tàn nhẫn của hắn đã khiến hắn phạm một sai lầm. Thay vì giết tôi bằng một nhát nhanh gọn, hắn chậm rãi đâm con dao vào bụng tôi.
“Trước đó tôi đã quen thuộc với những thầy tu biết cách đâm xuyên bụng bằng một thanh kiếm cùn. Chính bởi thanh kiếm cùn và tốc độ thâm nhập từ từ, nên những bộ phận quan trọng được đẩy sang bên, chỉ có những mô cơ là bị chọc thủng.
“Kiến thức này đã cho tôi cơ hội sống sót duy nhất. Tôi nghiến răng đằng sau cái băng bịt miệng. Cơn đau quá dữ dội và tôi ngất đi.
“Khi chầm chậm lấy lại ý thức, tôi vẫn cảm thấy cơn đau tồi tệ ở bụng. Một âm thanh lặp đi lặp lại truyền đến tai tôi. Patrick đang đào một cái hố. Hắn nghĩ tôi đã chết và chuấn bị sẵn sàng để chôn tôi! Bao quanh chúng tôi là cây, chúng tôi đang ở trong rừng. Khi nhiệm vụ tai ác của hắn hoàn thành, hắn kéo một cánh tay cho tôi rơi xuổng hố. Cái hố không quá sâu, tôi đoán khoảng gần một mét. Khi rơi, rất may tôi đã có phản xạ: tôi khom lưng để tạo ra một khoảng nhỏ dự trữ không khí cho mình. Nếu tôi nỗ lực đứng dậy, Patrick chắc hẳn đã giết tôi bằng lưỡi xẻng. Tốt hơn nên chết, rồi cố thoát ra ngoài sau. Khi những vụn đất cát rơi xuống lưng, tôi nghĩ đến Houdini, người đã để mình bị chôn dưới gần hai mét đất và vẫn đào thoát thành công. Đương nhiên, không thể nói tôi sung sức vào lúc đó - ngược lại là khác - nhưng tôi chỉ có một mét đất trên lưng. Tôi vẫn còn một cơ hội sống sót. Trong lúc uốn cong các cơ thịt trên cơ thể, tôi điều chỉnh nhịp thở của mình vì chỉ có một lượng không khí rất nhỏ được vây lại giữa thân người đang oằn lại của tôi và những bức tường huyệt mộ.”
“Và cậu đã thoát,” Drew thốt lên, có vẻ bị câu chuyện của bạn tôi mê hoặc.
“Chỉ trong gang tấc,” Henry trả lời. “Khó khăn nhất là vượt qua nỗi sợ hãi của chính mình, tin tôi đi, nói thì dễ hơn làm khi anh vừa mới bị người ta chôn sống.”
“Mọi điều đã sáng tỏ,” Drew tuyên bố. “Cha cậu khiến Patrick bất ngờ khi ông đi theo hắn lúc hắn mang cậu vào rừng chôn. Patrick nhận ra và đánh vỡ sọ ông. Phải, giờ đây mọi điều thực sự sáng tỏ. Sau đó, vợ chồng Latimer chắc hẳn đã rất bàng hoàng khi nghe tin ông White không chết, vì một khi ông ấy lấy lại trí nhớ và nói được, chắc chắn sẽ lộ ra mối liên hệ hiển nhiên giữa sự biến mất của Henry và cơ thể bị vác vào rừng.
“Phải làm gì? Henry đã chết là một thực tế không thể nghi ngờ. Sẽ có một cuộc thẩm tra chính thức và như vậy là cực kì nguy hiểm. Vậy thì phải làm sao? Bọn chúng phải tìm ra câu trả lời trước khi ông White nói được. Và chúng đã tìm được một giải pháp. Bọn chúng sẽ khai nhận là đã nhìn thấy Henry, trông như đang bị săn lùng ở ga Paddington. Đúng là một chiêu bài xuất sắc. Không chỉ Henry vẫn còn sống mà cậu ta còn bị tình nghi đã tấn công cha mình - mọi người ai cũng biết những cuộc cãi vã gay gắt của hai cha con - và đã bỏ trốn. Hơn nữa, bọn chúng không phải chịu chút rủi ro nào, vì trong mắt chúng Henry thực sự đã chết, không ai có thể phủ nhận câu chuyện ấy. Đó là một ý tưởng tuyệt vời, nhưng lại có kẻ sắp sửa thọc gậy bánh xe.”
Henry nhe răng cười.
“Nhờ một vận may phi thường, James đã nhìn thấy tôi ở ga Oxford. Thời điểm đó, tôi không hề biết cha tôi bị tấn công. Tôi đang ở trong một trạng thái tuyệt vọng sâu sắc. Bị người đàn bà mình yêu phản bội, trên thực tế điều đó đã giết chết tôi. Mối quan hệ với cha tôi đang trên bờ vực thẳm. Hơn nữa, tôi đã tiếp tay cho nhà Latimer lừa dối ông. Tôi lang bạt khắp nơi một thời gian, rồi quyết định rời khỏi đất nước. Chính vì thế, vài ngày sau khi trèo lên khỏi nấm mộ, tôi đã có mặt ở ga Oxford.”
“Cậu đã nói chuyện với tôi trên sân ga, Henry, cậu còn nhớ không? Cậu nói với tôi rằng ‘Con người quá tàn nhẫn, tôi đi đây.’”
Henry gật đầu đồng ý.
“Sự trớ trêu của số phận,” Drew nhận định. “Nhà Latimer thề rằng đã nhìn thấy cậu vào lúc 12 giờ 30 ở ga Paddington, và chính xác vào thời điểm đó cậu lại ngẫu nhiên gặp bạn mình ở ga Oxford.”
“Bọn chúng đã nghĩ gì khi nghe lời khai của tôi nhỉ?” tôi hỏi. “Phải chăng chúng nghĩ rằng tôi tự tưởng tượng ra hay cho là Henry đã đội mồ sống dậy?”
“Có thế chúng đã trở lại nấm mộ mà Patrick đào,” Drew đưa ra giả thuyết. “Và thấy mặt đất bị xới tung, còn thi thể của cậu thì biến mất. Nhưng chúng ta sẽ không bao giờ kiểm chứng được điều đó nữa.” ông ta tạm ngừng. “Ba năm trôi qua, trong khoảng thời gian ấy nhà Latimer vẫn tiếp tục kiếm lợi từ việc lừa đảo. Lúc này, điều khiến tôi quan tâm nhất là làm thế nào chúng tìm cách giết được Bob Farr… trong căn phòng đã bị niêm phong! Và Bob Farr đang làm gì ở đây mới được?”
“Hồi còn ở Mỹ,” Henry ngập ngừng một lúc rồi nói. “Tôi luôn nghĩ đến việc một ngày nào đó sẽ trở về Anh. Sự trở lại của tôi sẽ được thêm thắt một chút tình tiết bất ngờ, đặc biệt được dành cho vợ chồng Latimer. Tôi muốn lợi dụng sự giống nhau giữa tôi và Bob để trả thù một cách khoái trá. Vì thế, Bob sẽ viếng thăm bọn họ trước rồi tôi mới xuất đầu lộ diện. Thử tưởng tượng xem điều đó có thể tác động tới vợ chồng Latimer đến mức nào! Bọn chúng, những kẻ kiếm sống dựa vào việc lừa người khác tin vào sự tồn tại của linh hồn, sẽ phải chứng kiến sự tái sinh của kẻ bọn chúng đã sát hại, không chỉ một mà là hai lần!
“Không cần phải nói, tôi đã cảnh báo với Bob rằng hai kẻ này rất nguy hiểm, chắc chắn chúng sẽ tìm cách trừ khử anh ta. Nghe thế, Bob trả lời ‘Nếu chúng thích chơi cứng, tôi sẽ dạy chúng một bài học.’ Bob rời đi và hứa sẽ gọi điện cho tôi hai ngày một lần.
“Tôi không biết chính xác chuyện gì xảy ra tiếp theo, nhưng tôi có thể hình dung được. Nhà Latimer chắc hẳn đã đánh gục và bắt giữ cậu ấy. Tôi có thể mường tượng được cuộc đối thoại giữa bọn chúng:
“‘Alice, hắn không phải hồn ma đâu! Bình tĩnh đi! Henry vẫn chưa chết khi anh chôn hắn, chỉ có thế thôi!’
“‘Chỉ có thế thôi! Đấy là tất cả những gì anh có thể nói với em à, Patrick!’
“‘Được rồi, đương nhiên chúng ta vẫn sẽ phải giết hắn. Anh có ý này. Chúng ta sẽ không giấu thi thể đi, mà trưng nó ra cho mọi người cùng thấy.’
“‘Anh điên rồi. Anh sẽ làm chúng ta bị treo cổ mất!’
“‘Không, nghe anh nói, em yêu: chúng ta sẽ gợi ý với Victor và Arthur rằng bà Darnley bị sát hại, và linh hồn của bà ta - đừng quên đó là hồn ma đã ám căn phòng áp mái mấy năm trời - muốn hiện về và trả thù. Chúng ta sẽ đề xuất làm thử nghiệm gọi hồn ngay tại căn phòng ma ám, và căn phòng sẽ được niêm phong từ trước. Sau đó, mọi người phát hiện thi thể của Henry trong đó! Em có thể hình dung được hiệu quả mà nó đem lại không, và cả sự chú ý của công chúng dành cho chúng ta?’
“‘Hừm. Phải, nhưng quá nguy hiểm. Chúng ta sẽ bị nghi ngờ.’
“‘Không. Hãy nghe kế hoạch của anh…’
“… Mọi chuyện đại loại đã diễn ra như vậy,” Henry nói, chấm dứt đoạn hội thoại tưởng tượng.
“Đến đó thì đều chính xác,” Drew gật đầu đồng tình. “Mọi thứ đều khớp cho đến thời điếm đó. Nhưng làm thế nào mà bọn chúng lại có thể thay thế được dấu niêm phong sau khi đã sát hại Bob trong căn phòng ma ám?”
Henry nhìn xoáy vào tôỉ.
“James, cậu có nhớ thứ đã gây ấn tượng mạnh với cậu trong lần thứ hai lên căn áp mái không? Là tỷ lệ. Tỷ lệ hành lang không còn như trước nữa!”
Tấm màn phủ lên ký ức của tôi bắt đầu tuột xuống.
“Đúng,” tôi thừa nhận. “Chính là nó. Nhưng tôi vẫn chưa hiểu.”
“Tôi không có mặt ở hiện trường lúc đó,” Henry tiếp tục. “Nhưng những gì nghe được đủ để tôi tái hiện toàn bộ vụ án. Vụ án này thực sự là một tuyệt tác, theo cách riêng của nó, và chỉ có thể được thai nghén và thực hiện bởi một nhà ảo thuật bậc thầy. Vậy nó được thực hiện ra sao?
“Mọi người phải biết rằng kết cấu của căn gác vốn đã khá thích hợp cho việc dàn cảnh. Một hành lang dẫn tới tấm rèm che đi toàn bộ bức tường phía sau. Ở bên phải, bốn cánh cửa mở ra những căn phòng y chang nhau, trừ căn phòng thứ nhất là có chứa vài món đồ đạc gì đó. Cũng nên nhớ rằng những cánh cửa này lẫn vào với bức tường, tất cả đều được ốp ván gỗ sồi sẫm màu. Thực tế, chỉ có thể nhìn rõ bốn chiếc tay nắm cửa bằng sứ trắng. Mọi người thấy gì khi lần đầu tiên lên căn áp mái? Ánh sáng le lói phát ra từ phía sau cánh cửa cuối cùng đang mở khiến cho ba tay nắm cửa còn lại phát sáng - và chỉ có thế. Mọi người không thực sự nhìn thấy bốn cánh cửa, mà chỉ thấy một cánh cửa đang mở và ba chiếc tay nắm.
“Cánh cửa đang mở thực ra là của căn phòng thứ ba. Vợ chồng Latimer đã dịch tấm rèm phía cuối lên trên, làm cho hành lang ngắn lại và giấu đi căn phòng cuối cùng. Bọn họ cũng đã tháo ba chiếc tay nắm cửa và gắn chúng lên mặt gỗ sao cho cách đều nhau trong khoảng giữa cánh cửa thứ ba và đầu hành lang.
“Nhờ bố trí ánh sáng khéo léo, ảo giác được tạo ra một cách hoàn hảo. Chúng ta sẽ có ấn tượng về một hành lang có bốn cánh cửa bên tay phải với cánh cửa cuối cùng đang mở. Lưu tâm đến điều đó, để dời sự chú ý của mọi người khỏi những chiếc tay nắm cửa, Alice thận trọng đứng về phía tường bên phải, và nhanh chóng hướng các vị khách về phía căn phòng thứ ba lúc này đã được coi là căn phòng thứ tư - căn phòng ma ám.
“Ngay trước 9 giờ, hẳn là vậy, Patrick đã giết Bob khi cậu ta đang bị bịt miệng và trói thân trong căn phòng ma ám. Đương nhiên vào lúc đó, tất cả tay nắm cửa và tấm rèm đều đã được di chuyển. Khoảng 9 giờ 25 phút, Alice rời khỏi phòng khách, lấy cớ mang chiếc giá nến, hộp ruy-băng và đồng xu dùng để niêm phong lên gác. Nhân đây thì đó là thời điểm duy nhất cha đã để đồng xu xa khỏi tầm tay mình. Mọi người có thể đoán được Alice đã dùng mười phút đó thế nào: cô ta niêm phong cánh cửa căn phòng ma ám nơi thi thế Bob Farr đang nằm và đặt giá nến vào căn phòng thứ ba, và chúng ta đã biết nó thiết yếu thế nào trong việc tạo ra hiệu ứng ánh sáng.
“Sau đó cô ta đi xuống. Patrick đi tìm mũ và áo khoác của hắn ngoài sảnh. Alice, dẫn theo nhóm người, lại leo lên căn áp mái và đưa những người đồng hành vào nơi bọn họ tin là căn phòng ma ám. Patrick, chủ tâm ngụy tạo bước đi của mình để mọi người sau đó sẽ nghĩ anh ta thực sự là Henry, rồi đi vào phòng. Mọi người rời đi - đương nhiên là ngoại trừ Patrick - và căn phòng được niêm phong. Dĩ nhiên, thao tác niêm phong là do Alice thực hiện, trước đó cũng chính cô ta đã làm một dấu niêm phong y hệt lên cánh cửa thứ tư. Sau một chốc trì hoãn, trong khi mọi người đều đang kiên nhẫn đợi chờ ở tầng dưới, Patrick rời khỏi căn phòng thứ ba. Hắn ta cẩn thận dỡ bỏ mọi vết tích của dấu niêm phong mà hắn đã làm hỏng lúc ra khỏi phòng, đặt tấm rèm và những chiếc tay nắm cửa về đúng chỗ, thoát ra khỏi căn phòng áp mái để lại thi thể Bob Farr được niêm phong kín trong căn phòng ma ám. Hãy lưu ý rằng người chết đã được mặc áo khoác và đội mũ tương tự như Patrick từ trước. Hắn tiến đến sảnh để diễn tiếp vai của mình, đó là bị đánh bất tỉnh khi đang chuẩn bị mặc áo khoác.
“Phải, vụ án này thực sự là một tuyệt tác, vì thời điểm duy nhất mà toàn bộ âm mưu có nguy cơ bị phát hiện là lần đầu tiên đi lên căn áp mái. Nhưng tôi chắc chắn nhà Latimer đã có một kịch bản khác phòng trường hợp ai đó phát hiện có gì đó gian trá với tấm rèm cửa và các tay nắm. Hãy nhớ rằng lúc ấy không một ai nghi ngờ về việc có thể có một thi thể ở trên đó. Mọi người đều đang chờ đợi kết quả của cuộc thử nghiệm. Bác Darnley, người duy nhất quen thuộc với quang cảnh xung quanh lại đang quá chìm đắm với suy nghĩ sẽ được gặp vợ một lần nữa nên không hề nhận ra hành lang đã bị rút ngắn lại một đoạn. Khi Patrick đặt tấm rèm và tay nắm cửa trở lại chỗ cũ, thì không còn liên hệ nào giữa vụ án và nhà Latimer nữa, và thi thể của Bob trong căn phòng ma ám đã sẵn sàng chờ mọi người phát hiện. Vụ án sẽ nhuốm màu sắc siêu nhiên. Thực tế, rất nhanh chóng mọi người sẽ nhận ra rằng không một người sống nào có thể đi vào căn phòng ma ám đó được. Và tôi phải thừa nhận rằng James, nếu cậu không chú ý đến ấn tượng lạ kì vào lần thứ hai lên căn gác, có lẽ tôi sẽ không bao giờ phát hiện ra bất cứ điều gì, ngay cả khi biết chắc vợ chồng Latimer là hung thủ.”
“Tôi cũng phải đồng ý với cậu, đây đúng là một vụ án phi thường,” Drew thú nhận. “Dù sao thì nếu chúng ta xem xét kĩ lưỡng căn phòng áp mái, gần như chắc chắn chúng ta sẽ phát hiện ra dấu vết để lại của việc di chuyển tay nắm cửa và thanh xà treo tấm rèm.”
“Tôi không chắc,” Henry nói. “Patrick hẳn đã phải đảm bảo không để lại bất cứ dấu vết gian trá nào. Đừng quên là chúng ta đang phải đối phó với một ảo thuật gia chuyên nghiệp, vì thế mọi người có thể hình dung được sự thận trọng của họ với những thứ ảnh hưởng gián tiếp tới tính mạng của mình. Đương nhiên chúng ta có thể tìm kiếm ở trên đó, nhưng sẽ không tìm thấy gì cả, may ra thì chỉ tìm thấy dấu đinh ghim dùng để cố định tay nắm cửa.”
Drew hất hàm về phía trường kỉ.
“Dù sao thì, việc đó cũng chẳng có tác dụng gì nữa cả, Nhà Latimer không còn để chờ phán quyết nữa rồi.”
“Tôi không biết ai đã giết những con chim săn mồi này,” Henry nói với vẻ nhăn nhó. “Nhưng tôi không phải là người có thể đưa kẻ sát hại bọn chúng ra trước công lí.”
Cậu im lặng trong một khoảnh khắc. “Tội nghiệp Bob, lẽ ra tôi không bao giờ nên để cho cậu ấy đi. Trước khi khởi hành, cậu ấy đã hứa sẽ thường xuyên điện cho tôi, và thực hiện đúng như thế trong vài ngày đầu, sau đó tôi không nhận được tin tức gì từ cậu ấy nữa. Tôi biết nhà Latimer quá rõ nên ngay lập tức nhận ra rằng bọn chúng đã trừ khử cậu ấy bằng cách này hay cách khác. Tôi bắt chuyến bay đầu tiên về đây. Còn lại thì mọi người đều đã biết.”
“Vậy tại sao cậu không lập tức tố giác bọn chúng, Henry? Nếu vậy có lẽ cha cậu vẫn còn sống.”
“Phải,” Henry ngắc ngứ. “Đúng thế, nhưng tôi đã không biết hay tưởng được những gì chúng dám làm. Hãy nhớ rằng không có bằng chứng nào chống lại chúng. Sự trở về của tôi chắc hẳn đã làm chúng choáng váng sau khi tin rằng đã giết chết tôi đến lần thứ hai. Tôi cảm thấy nếu để bọn chúng lo lắng bồn chồn như vậy thì sẽ đến lúc chúng quá hoang mang mà tự để lộ chân tướng. Tiện đây thì Alice đã thực sự bị suy nhược thần kinh.
“Ngẫm lại, tôi tin rằng bọn chúng đã nhắm sai mục tiêu khi sát hại cha tôi, vì nhất định người bọn chúng hướng đến là tôi. Bọn chúng có đủ mọi lí do để trừ khử tôi. Bọn khốn nạn, giá mà tôi biết trước.”
Vẫn không rời mắt khỏi quả cầu thủy tinh, Drew châm một điếu thuốc. Trên mặt ông ta hiện rõ vẻ mãn nguyện thanh thản mà tôi chưa thấy bao giờ. Lời giải thích của Henry rõ ràng đã trút bỏ gánh nặng khỏi vai ông.
“Tôi phải thừa nhận rằng,” ông ta lên tiếng. “Những tên sát nhân này đã tạo nên cả một nghệ thuật trong tội ác của chúng. Rất hiếm khi gặp được những tên tội phạm ngoại hạng như vậy. Nhưng vẫn tồn tại nghi vấn về vụ sát hại cha cậu. Tôi rất tò mò muốn biết làm thế nào bọn chúng có thể thoát khỏi ngôi nhà mà không để lại dấu chân trên tuyết. Cậu có giải thích được không?”
“Không, tôi không thể,” Henry thẳng thừng. “Là chưa thể. Nhưng chắc chắn phải có một mánh khóe nào đó.”
Đột nhiên, mặt của Drew chùng hẳn xuống. Ông ta há miệng muốn nói nhưng không phát ra âm thanh nào, người vẫn chôn nguyên tại chỗ.
“Sao thế, ông thanh tra?” Henry nhẹ nhàng hỏi.
“Tôi… bọn chúng… vợ chồng Latimer đã chết hai ngày nay. Chúng không thể giết cha cậu. Cha cậu mới bị giết trong vòng hai mươi tư tiếng. Không thể là bọn chúng. Điều đó là không thể nào.”