← Quay lại trang sách

Chương 9

SAU KHI RỜI VĂN PHÒNG PHÓ CẢNH SÁT TRƯỞNG, Juliette leo qua những tầng nơi giao tranh ác liệt từng nổ ra, và cô một lần nữa trông thấy những vết thương cảnh binh đao đã để lại cho tòa tháp. Càng leo cao, cô càng bắt gặp những chứng tích tàn khốc hơn, nhắc nhở về những trận chiến đã diễn ra trong khi cô vắng mặt. Cô thấy những dấu tích giao tranh để lại, những đường lởm chởm ánh bạc trên lớp sơn cũ, các vết cháy đen sì và vô số lỗ đạn trên bê tông, những thanh cốt thép đâm chìa ra ngoài như xương gãy lòi khỏi thịt da.

Cô đã dành gần trọn cuộc đời mình để duy trì tòa tháp giống này, để đảm bảo nó có thể tiếp tục hoạt động. Tấm chân tình ấy đã được tháp đền đáp bằng cách cho cô hít dưỡng khí no phổi, giúp mùa màng tốt tươi, và đón nhận những người quá cố. Cả hai đều có trách nhiệm săn sóc lẫn nhau. Nếu vắng bóng con người, tòa tháp sẽ trở nên giống ngôi nhà của Độc Một Mình: gỉ sét và ngập nước. Nếu thiếu đi tháp giống, cô sẽ là một cái đầu lâu trên đồi, thẫn thờ nhìn lên bầu trời đầy mây. Họ cần nhau.

Cô rà tay trên lan can. Nó sần sùi những mối hàn mới, còn bàn tay của cô cũng chi chít sẹo. Gần như cả cuộc đời này, cô và tháp giống luôn nương tựa vào nhau. Cho đến khi cả hai suýt thì giết lẫn nhau. Giờ đây, những hư hỏng lặt vặt trong bộ phận Cơ Khí cô từng hy vọng một ngày nào đó sẽ có thể sửa – máy bơm kêu cót két, ống dẫn bị xì, đường ống thải rò rỉ – đều chẳng thấm tháp vào đâu so với những thiệt hại trầm trọng bội phần mà cô đã gây ra lúc rời đi. Một sai lầm lớn dường như có thể chôn vùi tất cả những lỗi lầm bé con, tương tự cách những vết sẹo lác đác – lời nhắc nhở về những va vấp thời trẻ – nay đã biến mất dưới lớp da thịt biến dạng vậy.

Cô bước từng bậc một và leo đến một khúc cầu thang đã bị bom giội toang hoác, trống mất cả mảng lớn. Đắp lên vùng hư hại là một khối kim loại chắp ghép, một mạng lưới thanh chắn và lan can thu gom lại từ các chiếu nghỉ hiện đã co hẹp vào so với hồi trước. Tên của những người thiệt mạng trong vụ nổ được viết rải rác đó đây bằng than. Juliette bước cẩn thận qua mớ kim loại sứt sẹo. Lên đến tầng cao hơn, cô thấy của bộ phận Vật Tư đã được thay mới. Chiến sự đã diễn ra vô cùng khốc liệt tại đây. Đó là cái giá những người mặc áo vàng phải trả cho tội dám về phe các đồng đội áo xanh của cô.

Juliette lên đến nhà thờ trên tầng chín mươi chín đúng lúc một buổi lễ vừa khép lại. Dòng người lũ lượt đổ xuống khu chợ yên tĩnh cô vừa đi qua. Miệng họ mím căng sau nhiều tiếng đồng hồ bàn chuyện nghiêm túc, trong khi các khớp xương cứng đơ như bộ đồ liền thân được là ủi phẳng phiu. Juliette đi ngang qua họ, ghi nhận những ánh mắt thù địch.

Khi cô leo đến chiếu nghỉ, đám đông đã thưa bớt. Nhà thờ nhỏ nằm lọt thỏm giữa những nông trại thủy canh cũ và cụm căn hộ từng là nơi ăn chốn ở của công nhân khu dưới sâu. Nó đã có ở đấy từ trước khi cô sinh ra, nhưng Knox đã có lần kể về gốc tích nhà thờ xuất hiện ở tầng chín chín. Thời bố của ông ta hãy còn nhỏ, người dân đã tổ chức biểu tình để phản đối các bản nhạc và vở kịch được biểu diễn trong lễ thờ. Bộ phận An Ninh cứ bình chân như vại trong khi cuộc biểu tình ngày một thu hút đông người tham gia, dần trở thành cả một khu trại đóng chốt bên ngoài khu chợ. Người biểu tình ngủ lăn lóc trên các bậc thang và gây tắc nghẽn cả cầu thang, cho đến khi không ai còn đi qua được nữa. Vì phải chu cấp thực phẩm cho những đám người ấy, nông trại tầng trên đó đã trở thành bãi hoang tàn. Rốt cuộc, họ đã chiếm đóng gần như toàn bộ tầng thủy canh. Nhà thờ ở tầng hai tám đã thành lập một chi nhánh, và ngày nay, chi nhánh ở tầng chín chín có quy mô còn lớn hơn cả cái nhà thờ gốc.

Khi Juliette đi vòng qua khúc quanh cuối, Cha Wendel đang ở ngoài chiếu nghỉ. Y đứng bên cửa, bắt tay và trò chuyện nhanh mấy câu với từng thành viên trong giáo đoàn khi họ rời buổi lễ. Chiếc áo choàng trắng y mặc như phát ra ánh hào quang. Chúng rạng ngời hệt như cái đầu hói của y, hiện đang sáng loáng sau một hồi hùng hồn thuyết giảng cho đám đông. Với cái đầu và tấm áo choàng đó, trông Wendel lấp lánh tựa sao trời. Đặc biệt là dưới mắt Juliette, người phụ nữ vừa từ một miền đất đầy dầu mỡ lên. Nhìn vào tấm áo không tì vết kia, cô thấy mình sao bẩn thỉu quá.

“Cảm ơn cha,” một cô gái hơi cúi đầu nói và bắt tay y, bên hông địu một đứa trẻ. Đầu đứa nhỏ gục vào vai cô ta, ngủ say như chết. Wendel đặt tay lên đầu đứa trẻ và nói vài lời. Người phụ nữ cảm ơn y một lần nữa, sau đó rời đi, và Wendel bắt tay người tiếp theo.

Trong khi chờ nhóm người dự lễ nhà thờ cuối cùng đi qua, Juliette nép bên lan can, giả tảng như mình không tồn tại. Cô quan sát một ông cụ dừng lại dúi vài tem phiếu vào lòng bàn tay Cha Wendel. “Cảm ơn cha,” cụ nói, lời chào nghe ít nhiều giống một lời khấn. Khi ông cụ đi ngang cô để rẽ lên tầng trên, Juliette có thể ngửi thấy mùi gì hao hao mùi dê trên người cụ; có lẽ cụ đang về với chuồng gia súc. Cụ là người cuối cùng rời đi. Cha Wendel quay lại và mỉm cười với Juliette, báo hiệu rằng từ nãy giờ y đã biết cô ở đấy.

“Chào thị trưởng” vừa nói, y vừa dang hai tay ra. “Thật vinh dự quá. Con đến dự lễ mười một giờ à?”

Juliette kiểm tra chiếc đồng hồ nhỏ đeo quanh cổ tay. “Vừa rồi không phải lễ mười một giờ ư?” cô hỏi. Tiến độ leo lên của cô đang diễn ra rất mau.

“Đó là lễ mười giờ. Nhà thờ ta đã bổ sung một lễ nữa. Dân trên đỉnh xuống dự lễ muộn.”

Juliette thắc mắc tại sao những người sống ở trên đỉnh lại lặn lội xa đến vậy. Cô đã căn giờ đi sao cho có thể né được buổi lễ, dù đó có lẽ là một sai lầm. Lắng nghe nội dung những bài thuyết giáo đang thu hút được rất nhiều người là một nước cờ khôn ngoan.

“Con e rằng mình chỉ có thể tạt qua thăm hỏi chút thôi,” cô nói. “Trên đường quay trở xuống, con sẽ dự lễ nhé?”

Wendel cau mày. “Và đó là khi nào nhỉ? Ta nghe bảo con đang quay về đảm đương công việc đã được Chúa và các con dân của Người giao phó cơ mà.”

“Có lẽ là vài tuần nữa. Đủ lâu để nắm được tình hình.”

Một lễ sinh bước ra ngoài chiếu nghỉ, đem theo một chiếc bát gỗ trang trí hoa mỹ. Cậu cho Wendel nhìn vào bên trong, và Juliette nghe thấy tiếng tem phiếu cạ vào nhau. Cu cậu mặc một chiếc áo choàng màu nâu, và khi cậu cúi chào Wendel, cô thấy đỉnh đầu cậu đã được cạo trọc. Khi cậu lễ sinh quay người dợm rời đi, Wendel nắm lấy tay cậu.

“Hãy chào thị trưởng của con cho lễ độ nào,” y nói.

“Bẩm bà.” Cậu lễ sinh cúi đầu. Mặt cậu không biểu lộ cảm xúc gì hết. Dưới cặp lông mày đen rậm là một đôi mắt đen láy, một đôi môi nhợt nhạt. Linh tính mách bảo Juliette rằng cậu nhóc này ít khi ra bên ngoài nhà thờ.

“Không cần bẩm biếc gì chị đâu,” cô lịch sự bảo cậu. “Juliette.” Cô chìa tay ra.

“Remmy,” cậu bé nói. Một bàn tay thò ra khỏi tấm áo choàng của cậu. Juliette bắt lấy nó.

“Lo lau dọn ghế đi,” Wendel nói. “Chúng ta còn một buổi lễ nữa đấy.”

Remmy cúi chào cả hai và rời đi. Juliette cảm thấy thương hại cậu nhóc, có điều cô không rõ tại sao. Wendel ngó sang đầu kia chiếu nghỉ, ra chiều lắng nghe xem có ai đang lại gần không. Vừa giữ cửa mở, y vừa vẫy Juliette vào trong. “Vào đây đi,” y nói. “Hãy đổ bi đông cho đầy vào. Ta sẽ ban phước cho cuộc hành trình của con.”

Juliette lắc bi đông, hiện đã gần trống rỗng. “Cảm ơn cha cô nói. Cô theo y vào trong.

Wendel dẫn cô đi qua sảnh tiếp tân và vẫy tay mời cô vào nhà nguyện phía dưới, nơi nhiều năm trước, cô từng tham dự một số buổi lễ. Remmy đang lăng xăng giữa những hàng ghế băng, thay gối và bày biện những thông báo viết tay trên các mảnh giấy rẻ tiền. Cô để ý thấy cậu vừa làm vừa theo dõi mình.

“Thần linh nhớ con lắm đấy,” Cha Wendel nói, nhắc nhở cô rằng y biết đã bao lâu rồi cô chưa dự lễ. So với ký ức của cô về lần chót mình đến đây, nhà nguyện đã được cơi nới. Có mùi mạt cưa hăng hăng và đắt tiền, mùi gỗ mới đẽo từ cửa tái chế và các loại gỗ cổ khác. Cô đặt tay lên một chiếc ghế băng chắc hẳn phải đáng giá cả gia tài.

“Chà, các thần biết phải tìm con ở đâu mà,” cô trả lời, bỏ tay ra khỏi băng ghế. Cô vừa nói vừa mỉm cười, ra điều bông lớn, song lại thấy trên mặt vị cha xứ thoáng vẻ thất vọng.

“Đôi khi ta tự hỏi có lẽ nào con đang dốc sức trốn tránh họ,” y nói. Cha Wendel nghiêng đầu về phía tấm kính màu phía sau bàn thờ. Những ngọn đèn đằng sau tấm kính sáng rực, hắt những mảng màu lên khắp sàn và trần nhà. “Ta đã đọc thông báo của con về mọi ca sinh nở và qua đời trên giảng đài đằng kia, và trong những thông báo đó, ta thấy con luôn bảo rằng trăm sự đều do thánh thần định đoạt.”

Juliette muốn nói toạc ra rằng cô thậm chí còn không chấp bút viết những thông báo đó. Chúng được người khác viết hộ cô. “Nhưng đôi khi, trông vào cách con cứ coi thường luật lệ của họ, ta lại tự hỏi liệu con có tin vào thần linh không nữa.”

“Con tin vào các vị thần,” Juliette nói, cảm thấy nóng mặt trước lời buộc tội này. “Con tin vào các vị thần đã tạo ra tháp giống này. Thật đấy. Và tất cả các tháp giống khác...”

Wendel giật mình. “Thật báng bổ,” y thì thầm, mắt mở to, tựa hồ câu từ của cô đủ sức giết người. Y bắn sang cho Remmy một ánh nhìn, và cậu cúi chào, đi ra ngoài sảnh.

“Vâng, báng bổ,” Juliette nói. “Nhưng con tin rằng các vị thần đã tạo ra những tòa tháp bên kia dãy đồi, và họ đã chừa cho ta một con đường để đi khám phá, một con đường để thoát khỏi đây. Bọn con đã phát hiện ra một công cụ ẩn sâu dưới tháp giống này, Cha Wendel ạ. Một cỗ máy đào có thể đưa chúng ta đến những miền đất mới. Con biết cha không tán thành, nhưng con tin rằng các vị thần đã ban tặng cho chúng ta công cụ này, và con muốn sử dụng nó.”

“Cái máy đào của con là tạo tác của quỷ dữ, và nó nằm trong vực thẳm nơi quỷ ngự,” Wendel nói. Nét tử tế trên khuôn mặt y đã biến mất. Y dùng một miếng khăn vuông chấm trán. “Không có thần thánh nào như con nói đến cả, chỉ có ác quỷ thôi.”

Juliette nhận ra đây là bài thuyết giáo của y. Cô đang được nghe bài lễ lúc mười một giờ. Dân tình đã cất công đi một quãng đường xa xôi cách trở để đến nghe điều này.

Cô tiến lên một bước. Da cô nóng bừng lên vì tức giận. “Có khi đúng là có quỷ dữ trà trộn trong các vị thần của con đấy, cô tán đồng, bắt chước kiểu nói của y. “Những vị thần con tin vào... những vị thần con tôn thờ là những người đàn ông, đàn bà đã xây nên nơi này, cũng như nhiều nơi khác tương tự nó. Họ xây nơi này để bảo vệ ta khỏi thế giới đã bị chính họ phá hủy. Bọn họ vừa là thần, vừa là ác quỷ. Nhưng họ đã chừa cơ hội cho chúng ta chuộc lỗi. Họ muốn chúng ta được tự do, thưa cha, và họ đã trao cho chúng ta công cụ để làm vậy.” Cô chỉ vào thái dương mình. “Họ đã trao cho con công cụ này đây. Và họ để lại cho chúng ta một chiếc máy đào. Họ đã làm như vậy. Sử dụng nó không có gì là báng bổ cả. Và con đã tận mắt nhìn thấy những tháp giống khác, trong khi cha vẫn tiếp tục nghi ngờ sự tồn tại của chúng. Con đã đặt chân đến đó.”

Wendel lùi lại một bước. Y xoa cây thánh giá đeo quanh cổ, và Juliette liếc thấy Remmy đang lén lút quan sát bên mép cửa, đôi mắt đen khuất dưới bóng cặp lông mày rậm.

“Chúng ta nên sử dụng tất cả công cụ đã được thần ban cho” Juliette nói. “Ngoại trừ cái công cụ cha nắm giữ: khả năng gieo rắc sợ hãi vào lòng người.”

“Ta ư?” Cha Wendel áp một tay lên ngực. Bàn tay còn lại, y chỉ vào cô. “ Con mới là kẻ gieo rắc nỗi sợ hãi.” Y khua tay về phía các băng ghế, bao quát luôn cả những dãy ghế, thùng và xô chậu lộn xộn phía sau đó, xếp san sát nhau ở cuối phòng. “Ba lần một ngày, họ lại tụ tập ở đây để dự lễ, để vò đầu bứt tai than vãn về công việc quỷ quái con đang thực hiện. Đêm đến, trẻ con không ngủ nổi vì sợ rằng con sẽ giết hết tất cả chúng ta.”

Juliette mở miệng, nhưng không thốt nên lời. Cô nghĩ đến những cái nhìn ở cầu thang, nghĩ đến người mẹ kéo con sát vào, đến những người cô từng quen biết nay chẳng còn chào hỏi gì mình nữa. “Con có thể đưa sách cho cha xem,” cô nhẹ nhàng nói, nghĩ về những giá đựng bộ Di Sản. “Con có thể đưa sách cho cha xem, và cha sẽ hiểu ngay.”

“Trên đời chỉ có một quyển sách duy nhất là đáng đọc thôi” Wendel nói. Mắt y hướng về phía cuốn sách lớn được trang trí công phu, với các mép mạ vàng, đặt trên bục cạnh giảng đài, nằm dưới một lồng thép cong oằn. Juliette nhớ những bài học từ cuốn sách này. Cô từng đọc các trang trong đó và thấy những câu chữ khó hiểu thỉnh thoảng ló ra giữa những vạch bôi đen che xóa. Cô cũng nhận thấy cái bục đã được hàn chặt xuống mặt sàn thép, và người thực hiện không phải dân chuyên. Mối hàn trông nhăn nhúm, cục mịch, lộ rõ sự hoang tưởng. Thiên hạ cứ kỳ vọng thánh thần sẽ giữ cho tất thảy già trẻ gái trai được an toàn, song đến giao phó nhõn một cuốn sách cho các vị thần trông nom mà người ta cũng không dám.

“Con nên để cha chuẩn bị cho buổi lễ lúc mười một giờ, cô nói, cảm thấy hối tiếc vì đã nóng giận mất khôn.

Wendel ngưng khoanh tay. Cô cảm nhận được rằng cả hai người họ đã lỡ miệng, và đôi bên đều biết điều đó. Cô đã hy vọng sẽ xoa dịu được hoài nghi, khốn nỗi lại chỉ đổ thêm dầu vào lửa.

“Giá mà con ở lại được,” Wendel nói với cô. “Ít nhất hãy đổ nước đầy bi đông đi.”

Cô với tay ra sau lưng và tháo bị đông. Remmy trở vào, chiếc áo choàng nâu dày kêu sột soạt, vùng đầu cạo trọc lấp lánh mồ hôi. “Vâng, thưa cha,” Juliette nói. “Cảm ơn cha.”

Wendel gật đầu. Y vẫy tay với Remmy và không nói gì thêm với cô nữa trong khi cậu lễ sinh lấy nước từ đài phun trong nhà nguyện. Chẳng hó hé đến nửa câu. Lời hứa ban phước cho chuyến đi của cô đã bị lãng quên.